Ngày nay, hình thức tổ chức độc quyền nào phát triển mạnh nhất và những biểu hiện mới là gì?

KTCT - Câu 3. Nghiên cứu CNTB tự do cạnh tranh Mac, Enghenchỉ rõ: “Từ tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ tập trung sản xuất. Tíchtụ tập trung sản xuất đến mức độ nào đó thì sẽ dẫn đến độc quyền”.Đồng chí làm rõ vấn đề trên và phân tích 5 biểu hiện mới củanhững đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đồng chírút ra được vấn đề gì khi nghiên cứu vấn đề nàyÝ 1: Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện do các nguyên nhân Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩatư bản độc quyền: Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghenđã dự báo rằng: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tíchtụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độcquyền. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào điềukiện lịch sử mới của thế giới, V.I. Lênin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tưbản đã chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, đồng thời nêu ra năm đặcđiểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.Chủ nghĩa tư bản độcquyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhânchủ yếu sau: - Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộkhoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hìnhthành các xí nghiệp có quy mô lớn. - Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, nhữngthành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme,Máctanh, Tômát đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao;phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2SO4), thuốc nhuộm ;máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay ;phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máybay và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiệnnhững ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác,nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúcđẩy phát triển sản xuất lớn. - Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹthuật, sự tác động của cácquy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quyluật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổicơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹthuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnhtranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tưbản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngàycàng to lớn. - Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bảnchủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanhchóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản. - Sự phát triển của hệ thống tíndụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sảnxuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đờicủa các tổ chức độc quyền. V.I. Lênin khẳng định: " tự do cạnh tranh đẻ ratập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mứcđộ nhất định, lại dẫn tới độc quyền” Ý 2: 5 biểu hiện mới a) Tập trung sản xuất và hình thức độc quyền mới: Sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ - Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệnên đã diễn ra quá trình hình thành những sự liên kết giữa các độc quyềntheo cả hai chiều dọc và ngang ở trong và ngoài nước. Từ đó, những hìnhthức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các consơn (concern) và cáccônglômêrát (conglomerate). + Consơn: Đó là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó cóhàng trăm xí nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phânbố ở nhiều nước. Trong số 500 công ty lớn nhất của Mỹ có tới 94% là loạiconsơn so với 49% năm 1949. Điển hình về tính đa ngành là consơn GMC(General Motor Corporation) năm 1988 có doanh số là 121,085 tỷ USD.Ngoài ngành sản xuất ôtô chiếm từ 80-90% tổng giá trị sản phẩm, GMC cònthâu tóm những xí nghiệp sản xuất đồ điện thông dụng như môtơ, tuabin,đầu máy điêzen, máy giặt, máy hút bụi và một số mặt hàng khác. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến độc quyền đa ngành là: trong điều kiệncạnh tranh gay gắt giữa các độc quyền và sự biến động nhanh chóng củathị trường thì việc kinh doanh chuyên môn hoá hẹp dễ bị phá sản. Hơn nữa,hình thức độc quyền đa ngành còn là kết quả của sự chuyển hoá, thay thếcác tờrớt để đối phó với luật chống độc quyền ở hầu hết các nước tư bảnchủ nghĩa (luật này cấm độc quyền 100% mặt hàng trong một ngành). + Cônglômêrát: là hình thức tổ chức độc quyền xuất hiện từ nhữngnăm 60 của thế kỷ XX. Đó là sự kết hợp vài ba chục những hãng vừa và nhỏkhông có bất kỳ sự liên quan nào về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất.Mục đích chủ yếu của các cônglômêrát là chiếm đoạt lợi nhuận bằng kinhdoanh chứng khoán. Do vậy phần lớn các cônglômêrát dễ bị phá sản nhanhhoặc chuyển thành các consơn. Tuy nhiên một bộ phận các cônglômêrátvẫn tồn tại vững chắc bằng cách kinh doanh trong lĩnh vực tài chính trongnhững điều kiện thường xuyên biến động của nền kinh tế thế giới. - ở các nước tư bản phát triển ngày càng xuất hiện nhiều công ty vừavà nhỏ, chiếm hơn 90% tổng số hãng có đăng ký, có vai trò quan trọngtrong nền kinh tế. Trong những ngành mới như tin học, chất dẻo, điện tử,các hãng nhỏ chiếm tỷ lệ tuyệt đối (ở Mỹ các hãng nhỏ chiếm 90% tổng sốhãng trong lĩnh vực này). Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làdo: Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phéptiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệthống gia công, nhất là trong các ngành sản xuất ôtô, máy bay, cơ khí, dệt Các công ty lớn và các hãng nhận gia công (doanh nghiệp vừa, nhỏ) hìnhthành một hệ thống gắn bó với nhau bởi hàng loạt mối quan hệ: ngườimua, người bán, người vay và người cho vay, bởi những phương tiện sảnxuất chung, cùng nhau chia sẻ công việc, bí quyết sản xuất Nhìn bề ngoài, có người gọi hiện tượng trên là "phi tập trung hoá" vàcho rằng, luận điểm của V.I. Lênin về tích tụ và tập trung dẫn tới độc quyềnkhông còn đúng nữa. Thực ra, đó chính là biểu hiện của độc quyền dướimột dạng mới, thể hiện ở chỗ là: các hãng, công ty vừa và nhỏ phụ thuộcvào các consơn và cônglômêrát về nhiều mặt. Sự kiểm soát của độc quyềnđược thực hiện dưới những hình thức mới thông qua quan hệ hợp tác giữatư bản độc quyền lớn với các hãng vừa và nhỏ, thông qua quan hệ hợp tácgiữa các độc quyền lớn nhằm mở rộng khả năng kiểm soát sản xuất nóichung, tiến bộ khoa học và công nghệ nói riêng. Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó. Đólà: nhạy cảm đối với thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biếnđộng của thị trường; mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sựmạo hiểm; dễ đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổsung, có thể kết hợp nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuất ra những sảnphẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế… Ngoài ra, độc quyền cũng xuất hiện cả ở những nước đang phát triển.Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào cácnước này và sự ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đạikhiến cho chỉ một xí nghiệp hay một công ty cũng đủ sức mạnh chi phối việcsản xuất và tiêu thụ của cả một ngành mới ra đời ở một nước đang pháttriển và tới mức độ nhất định có thể bành trướng ra bên ngoài. Các tổ chứcđộc quyền ra đời luôn luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng vận động của chúng là trở thànhcác công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước hình thành chủ nghĩatư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là hìnhthức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiệnlịch sử mới. b) Sự thay đổi các hình thức tổ chức và cơ chế thống trị của tư bản tài chính Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và côngnghệ, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tếmới, đặc biệt là các ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm ngàycàng chiếm tỷ trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó, hình thức tổ chức và cơ chế thống trịcủa tư bản tài chính đã thay đổi. Ngày nay, phạm vi liên kết và xâm nhậpvào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp được mở rộng ranhiều ngành, do đó các tập đoàn tư bản tài chính thường tồn tại dưới hìnhthức một tổ hợp đa dạng kiểu: công - nông - thương - tín - dịch vụ hay côngnghiệp - quân sự, dịch vụ quốc phòng Nội dung của sự liên kết cũng đadạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp hơn. Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng biến đổi, cổ phiếu cómệnh giá nhỏ được phát hành rộng rãi, khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiềutầng lớp dân cư mua cổ phiếu kéo theo đó là "chế độ tham dự" được bổsung thêm bằng "chế độ uỷ nhiệm", nghĩa là những đại cổ đông được "uỷnhiệm" thay mặt cho đa số cổ đông có ít cổ phiếu quyết định phương hướnghoạt động của công ty cổ phần. Chủ sở hữu tư bản lớn giờ đây vừa khốngchế trực tiếp vừa khống chế gián tiếp đối với tư bản thông qua biến độngtrên thị trường tài chính, buộc các nhà quản lý phải tuân theo lợi ích củachúng. Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoáđời sống kinh tế, toàn cầu hoá kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đãthành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia thực hiện việc điềutiết các consơn và cônglômêrát, xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc giakhác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới như Nhật Bản, Mỹ,Đức, Hồng Kông, Xingapo là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chínhquốc tế. Dù biểu hiện dưới hình thức nào, có sự thay đổi cơ chế thống trị rasao, bản chất của tư bản tài chính cũng không thay đổi. c) Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có nhữngbiến đổi lớn. Thứ nhất, trước kia luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tưbản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%).Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lạigiữa các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng xuất khẩu tư bản giữaba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảymạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cũng như từ Tây Âu chảyvào Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đang phát triển giảmmạnh (năm 1996 chỉ còn 16,8%, hiện nay khoảng 30%). Sở dĩ có sự chuyển hướng đầu tư như vậy là do: - Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra những biến đổinhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành cácngành mũi nhọn như: ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệumới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương Sự xuất hiệnnhững ngành mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầunó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch lớn. - ở các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu cácngành sản xuất: phát triển các ngành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật caovà hàm lượng vốn lớn. - Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triểnvì ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình hình chính trịkém ổn định, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư không còn cao như trước. Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai tròcủa các công ty xuyên quốc gia (TNCs) trong xuất khẩu tư bản ngày càng tolớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chẳng hạn vào nhữngnăm 90 của thế kỷ XX, các TNCs đã chiếm tới 90% luồng vốn FDI. Mặt khácđã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triểnmà nổi bật là NIEs châu á. Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, có sự đan xen giữaxuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tưtrực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT (xây dựng - kinh doanh -chuyển giao), BT (xây dựng - chuyển giao) sự kết hợp giữa xuất khẩu tưbản với các hợp đồng buôn bán hàng hoá, dịch vụ, chất xám không ngừngtăng lên. Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đãđược gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao. Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản pháttriển không làm cho đặc điểm và bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi,mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phongphú và phức tạp hơn. d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh của chủ nghĩa tư bản: xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hoá nền kinh tế Sức mạnh và phạm vi bành trướng của TNCs tăng lên thúc đẩy xuhướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnhhưởng giữa chúng với nhau, đồng thời thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩatư bản độc quyền quốc tế. Cùng với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế lại diễn ra xu hướng khu vựchoá kinh tế, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực như: Liên minhchâu Âu (EU) từ ngày 1-1-1999 gồm 15 nước và cho ra đời đồng tiền chungchâu Âu (EURO) với sự tham gia của 11 quốc gia. Tại Tây bán cầu, Mỹ đangxúc tiến thành lập khối thị trường chung châu Mỹ (dự định hoàn tất vàonăm 2010) bằng cách từng bước mở rộng khối Mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA gồm: Canađa, Mêhicô và Mỹ) đến Nam Mỹ. Việc phân chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạtnước đang phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bảnchủ nghĩa. Đó là việc thành lập tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC),thị trường chung vùng chóp nón Nam Mỹ (MERCOSUR) gồm 4 nước:Brazin, Achentina, Urugoay, Paragoay Ngày càng có nhiều nước tham giavào các Liên minh mậu dịch tự do (FTA) hoặc các Liên minh thuế quan(CU). Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầuhoá thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự pháttriển của các tổ chức khu vực. đ) Sự phân chia thế giới giữa các cường quốc vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới Tuy chủ nghĩa thực dân đã hoàn toàn sụp đổ và chủ nghĩa thực dânmới đã suy yếu, nhưng các cường quốc tư bản chủ nghĩa, khi ngấm ngầm,lúc công khai, vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thựchiện "chiến lược biên giới mềm", ra sức bành trướng "biên giới kinh tế"rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển từ sựlệ thuộc về vốn, công nghệ đi đến sự lệ thuộc về chính trị vào các cườngquốc. Chiến tranh lạnh kết thúc, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi,nhưng lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, nhữngcuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng trong hoặc núp sau các cuộcđụng độ đó là các cường quốc đế quốc. Ý 3: Ý kiến của đồng chí khi nghiên cứu vấn đề này Tóm lại: dù có những biểu hiện mới, CNTB đương đại vẫn là CNTBđộc quyền. Những biếu hiện mới đó chỉ là sự phát triển năm đặc điểm củachủ nghĩa tư bản độc quyền mà Lênin đã vạch ra từ những năm đầu thế kỷPhong trào giải phóng dân tộc đã làm sụp đổ hệ thống thuộc địa kiểucũ nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Tráilại, các cường quốc tư bản chủ nghĩa chuyển sang thi hành chính sách thựcdân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật,quân sự để duy trì lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đếquốc. Hiện nay, có quan điểm phủ nhận chủ nghĩa thực dân mới. Nhữngngười theo quan điểm này lập luận rằng, ngày nay các nước tư bản pháttriển không cần chiếm nguồn lương thực, nguyên liệu và nhân công rẻ nữa,bởi vì, nhiều nước phát triển thở thành nước xuất khẩu lương thực, rằngnhiều vật liệu nhân tạo đã thay thế nguyên liệu tự nhiên, các công nghệ mớilàm giảm tiêu hao nguyên liệu; rằng tiến bộ khoa học - kỹ thuật làm tăngnhững sản phẩm có hàm lượng khoa học cao, làm giảm ý nghĩa của nhâncông rẻ và tạo ra nơi đầu tư có lợi ở ngay cả các nước phát triển. Dù những điều trên đây là có thực, thì các nước chậm phát triển vẫnđóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của nền kinh tế của các cườngquốc tư bản chủ nghĩa.Có thể khẳng định rằng, các nước đang phát triển là những nướcngoại vi, đóng vai trò quan trọng trong việc cải tổ cơ cấu kinh tế của cácnước tư bản chủ nghĩa phát triển theo hướng tập trung vào các ngành mũinhọn có hàm lượng khoa học cao ở chính quốc, chuyển đổi ngành có hàmlượng lao động, hàm lượng nguyên liệu cao và những ngành gây nhiễmbẩn môi trường sang các nước lệ thuộc.Hậu quả nặng nề của chủ nghĩa thực dân mới, điều đó được thể hiệnnợ nần ở các nước này, trong đó 40 nước không có khả năng trả nợ và 17nền kinh tế quốc gia đang bên bờ vực thẩm phá sản.Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI chủ nghĩa tư bản độc đạt đến đỉnh caotrong sự phát triển của nó, những bản chất của nó không hề thay đổi, độcquyền là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản trong điềukiện cách mạng khoa học và công nghệ cao.Ngày nay, trước sự trước sự phát triển cao của lực lượng sản xuấtđộc quyền có bước phát triển tiếp tục làm xuất hiện những hình thức mớiđó là nguyên nhân sâu xa làm chủ nghĩa tư bản thích nghi và phát triển,nhưng chủ nghĩa tư bản độc quyền không tránh khỏi những mâu thuẩn củanó, tất yếu sẽ nhường chỗ cho chế độ xã hội tốt đẹp hơn thay thế nó