Vợ của lê hồng phong là ai

Đồng chí Lê Hồng Phong sinh năm 1902 tại tổng Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình nông dân lao động, tại một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, có phong trào đấu tranh chống bọn phong kiến và thực dân nổ ra liên tục như phong trào Cần Vương, tiếp đó là Việt Nam Quang Phục hội của Phan Bội Châu...

Sau khi học xong sơ học yếu lược, Lê Hồng Phong đã rời làng ra thành phố, hết Vinh lại đến Bến Thuỷ, sống cảnh làm thuê làm mướn. Chính trong thời gian này, Lê Hồng Phong tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị áp bức bất công của nhân dân lao động do bọn thực dân, phong kiến gây ra. Và chính đồng chí cũng được thể nghiệm cuộc sống đó khi với thân phận là người thợ làm thuê. 

Từ năm 1924 đến 1931, sau khi đến Thái Lan một thời gian, Lê Hồng Phong cùng một số bạn bè tìm đường sang Quảng Châu, Trung Quốc vào năm 1924. Ở Quảng Châu, Lê Hồng Phong cùng một số bạn như Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lâm Đức Thụ trong nhóm Tâm Tâm xã đã tích cực khôi phục lại phong trào yêu nước đang bị suy yếu. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Người tiếp xúc với nhóm người Việt Nam yêu nước ở đây, lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối cách mạng vô sản. Lê Hồng Phong là một trong những học trò đầu tiên của Người, được Người giác ngộ đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản. Từ tháng 8-1924 đến hết năm 1925, Lê Hồng Phong tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ đần quốc. Đồng chí được chuyển sang Trường Hàng không ở Quảng Châu. Tại đây, tháng 2-1926, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Do học xuất sắc, đồng chí được Chính phủ Quảng Châu và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang Liên Xô học từ tháng 10-1926 đến tháng 12-1927 và tốt nghiệp Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát. Sau đó, đồng chí vào học Trường Đào tạo phi công quân sự tại Bôrítxgơlépxcơ. Học chưa xong khoá, thì tháng 10-1928, đồng chí được cử về học ở Trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Ở đây, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và tham gia trong Uỷ ban tổ chức Đảng nhóm Đông Dương. Sau ba năm học, đồng chí tốt nghiệp Trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Đồng chí vào học tiếp năm thứ nhất nghiên cứu sinh, đang học đờ dang thì tháng 11-1931, đồng chí được cử về nước để tham gia công tác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Sau một thời gian dài được học tập và tham gia các tổ chức cách mạng ở nước ngoài, Lê Hồng Phong là nhà hoạt động cách mạng được tích luỹ tri thức lý luận chính trị và quân sự tương đối hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ. Cách mạng Việt Nam lúc này ở vào một thời điểm khó khăn, sau cao trào cách mạng 1930- 1931 bùng nổ mãnh liệt, thực dân Pháp thực hiện thủ đoạn khủng bố dã man, kéo dài liên tục từ cuối năm 1930 đến năm 1935. Từ sau cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đến năm 1935 phần lớn các tổ chức của Đảng bị tan rã hoặc tê liệt do chính sách đàn áp của thực dân Pháp. Mối liên hệ giữa các cơ quan Trung ương Đảng và đảng bộ địa phương, ngay giữa các cơ sở đảng trong một địa phương cũng bị chia cắt. Toàn bộ Ban Thường vụ và một số uỷ viên Trung ương Đảng, cán bộ xứ uỷ, tỉnh uỷ..., nhiều người cũng bị bắt và bị giết hại. Các lãnh tụ và những cốt cán của Đảng, từ Nguyễn Ái Quốc đến Trần Phú, Nguyễn Phong Sắc, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh,... bị bắt, bị truy nã hoặc bị kết án tử hình. Tình hình trên đòi hỏi việc khôi phục phong trào cách mạng, khôi phục Đảng là một nhiệm vụ lịch sử bức xúc của sự nghiệp giải phóng nhân dân ta. Từ Liên Xô, Lê Hồng Phong lên đường về nước vào cuối năm 1931. Việc cần thiết là phải định hướng cho phong trào hoạt động. Lê Hồng Phong đã tham gia soạn thảo Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua. Chương trình hành động của Đảng là ngọn đèn pha soi sáng con đường đi tới của cách mạng, có tác đụng đoàn kết, tập hấp lực lượng xung quanh hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản. Chương trình hành động của Đảng đã có tác dụng củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới. Tháng 7-1933, Lê Hồng Phong bí mật về Cao Bằng làm việc với Tỉnh uỷ nhằm xây dựng Cao Bằng thành căn cứ vững mạnh để chắp nối liên lạc, phát triển phong trào cách mạng khắp cả nước. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, hệ thống cơ quan lãnh đạo tỉnh uỷ, thành uỷ… Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước được khôi phục. Lúc này, các tổ chức Đảng bắt đầu được củng cố; phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao, tất yếu đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải tập trung, thống nhất và chặt chẽ. Tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài được thành lập, có chức năng như một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng ở nước ngoài gồm 3 người do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư, Hội nghị quyết định sẽ tổ chức Đại hội lần thứ I của Đảng vào năm 1935 và phải xúc tiến thành lập các xứ uỷ trước Đại hội. Chưa kịp tổ chức Đại hội thì đồng chí Lê Hồng Phong được triệu tập đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội, Lê Hồng Phong thay mặt Đảng ta đã trình bày bản tham luận về tình hình Đông Dương, về phong trào cách mạng, về chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, về những ưu và khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Với sự kiểm điểm chân thành và nghiêm túc, đồng chí chứng minh triển vọng rộng lớn của phong trào cách mạng Đông Dương. Đại hội đã bầu Lê Hồng Phong làm Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản. Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ I của Đảng họp tại Ma Cao. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ tập hợp rộng rãi quần chúng; chống chiến tranh đế quốc Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong. Đồng chí Lê Hồng Phong là người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám Pháp bắt tại Sài Gòn. Hết hạn tù, để đề phòng đồng chí tham gia hoạt động, chúng trục xuất về quê nhà ở Nghệ An để quản thúc và giám sát. Năm 1939 là năm địch kiểm soát rất gắt gao. Vượt qua điều kiện ngặt nghèo đó, đồng chí Lê Hồng Phong vẫn tiếp tục viết báo, chiến đấu trên mặt trận chính trị, lý luận. 

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lo sợ trước phong trào cách mạng dâng cao, thực dân Pháp tăng cường đàn áp. Tháng l-1940, chúng bắt giam Lê Hồng Phong tại quê, rồi giam vào Khám Lớn Sài Gòn, cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Trước những đòn tra tấn dã man, liên tục của địch, đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, không khai báo một lời. Chúng hành hạ đồng chí cho đến kiệt sức. Trước khi trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 6-9-1942, đồng chí nhắn lại: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng”. 

Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai là hai nhà cách mạng Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Cả cuộc đời của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều được dành để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng đem lại tự do, độc lập cho dân tộc. Trên con đường cách mạng ấy, họ đã gặp và chia sẻ cho nhau tình yêu, sự gắn bó của hai tâm hồn cùng chung một nhịp, hai ý chí có cùng một quyết tâm…

Lê Hồng Phong tên thật là Lê Văn Dục. Ông sinh ngày 6/9/1902 trong một gia đình nghèo thuộc xóm Đông Cửa, thôn Đông Thông, tổng Thông Lạng, nay là xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.

Ngay từ những năm tháng tuổi thơ, cuộc sống của Lê Hồng Phong đã gặp phải rất nhiều những khó khăn. Cha của Lê Hồng Phong mất từ khi ông còn nhỏ. Mẹ ông, bà Phạm Thị Sau tần tảo để có thể cho ông đi học.

Lê Hồng Phong học chữ Hán Nôm của một thầy học tại làng. Sau đó, ông được cho học tiếp thêm khoảng 2 năm tiếng Pháp. Vì gia cảnh quá ngặt nghèo, năm 16 tuổi, ông đổi tên thành Lê Huy Doãn và xin đi làm công cho một hãng buôn ở Vinh để có thêm tiền sinh kế cho gia đình.

Một thời gian sau, ông chuyển sang làm công nhân nhà máy diêm Bến Thủy và bị đuổi việc vì đã vận động công nhân đấu tranh đòi quyền lợi với giới chủ bóc lột. Cũng từ đó,  Lê Hồng Phong chính thức bước vào con đường cách mạng.

Tháng 1/1924, Lê Hồng Phong cùng 10 thanh niên khác, trong đó có bạn cùng làng là Phạm Văn Tích sang Thái Lan, sau đó đi qua Quảng Châu. Tại Quảng Châu, Lê Hồng Phong cùng Lê Hồng Sơn, Lê Quang Đạt gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và được kết nạp vào tổ chức cách mạng Tâm Tâm Xã.

Lê Hồng Phong trở thành một trong 9 hội viên hạt nhân của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Mùa hè năm 1925, Lê Hồng Phong cùng Lê Hồng Sơn, Lê Quang Đạt được giới thiệu vào học Trường quân sự Hoàng Phố.

Một năm sau, ông được cử sang học Trường Không quân Quảng Châu. Tại đây, tháng 2/1926, được sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Tháng 8/1927, Lê Hồng Phong cùng nhóm thanh niên tình nguyện Việt Nam đang theo học tại Trường Không quân Quảng Châu sang học tiếp tại Trường Không quân Liên Xô. Nhờ có sức khoẻ tốt nên Lê Hồng Phong là người duy nhất trong nhóm tiếp tục theo học tại Trường Không quân Liên Xô.

Vợ chồng Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai

Từ tháng 10/1926 đến tháng 10/1927, Lê Hồng Phong sang học trường Lý luận Quân sự tại Leningrad. Từ tháng 12/1927 đến tháng 11/1928, Lê Hồng Phong học trường Không quân số 2 ở Borisoglebsk.

Đến tháng 12/1928, Lê Hồng Phong theo học trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva với bí danh Litvinov. Sau khi tốt nghiệp, Lê Hồng Phong tham gia Hồng quân Liên Xô với cấp bậc Trung tá.

Đến cuối năm 1931, với tên là Vương Nhật Dân, Lê Hồng Phong trở về Trung Quốc hoạt động. Bấy giờ, ở trong nước, các tổ chức Cộng sản bị chính quyền thực dân đàn áp dữ dội.

Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng trong nước nhằm khôi phục phong trào và thảo chương trình hành động của đảng trong tình hình đảng bị tổn thất nặng nề trước đó.

Tháng 6/1932, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra bản chương trình hành động được Quốc tế Cộng sản công nhận. Năm 1934, Lê Hồng Phong sang Thượng Hải gặp nhóm các đồng chí hoạt động ở hải ngoại như Hà Huy Tập, Hoàng Văn Nọn. Và chính ở đây, Lê Hồng Phong đã gặp gỡ và có cảm tình với Nguyễn Thị Minh Khai.

Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh. Nguyễn Thị Minh Khai sinh năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Cha của Nguyễn Thị Minh Khai là ông Nguyễn Huy Bình, người làng Mọc, Nhân Chính, Hà Nội làm công chức hỏa xa ở Vinh, thường gọi là Hàn Bình.

Mẹ Nguyễn Thị Minh Khai là Đậu Thị Thư, quê Đức Tùng, Đức Thọ, Hà Tĩnh, làm nghề buôn bán nhỏ. Trước năm 1940, gia đình bà sống tại 132 phố Maréchal Foch, nay là phố Quang Trung, thành phố Vinh.

Về sau, gia đình bà về sống ở quê mẹ là xã Đức Tùng, Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1919, bà bắt đầu học chữ Quốc ngữ rồi vào trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh. Sau khi học hết lớp nhì chị chuyển sang học lớp nhất trường Cao Xuân Dục.

Khi đang học lớp nhất trường Cao Xuân Dục ở thành phố Vinh, một lần đi chơi trên núi Quyết, thấy từng tốp công nhân nhà máy diêm Bến Thủy, nhà máy điện Trường Thi ra về với bộ mặt mệt mỏi, lấm lem than bụi, cô nữ sinh 14 tuổi Nguyễn Thị Minh Khai suy nghĩ về lời cô giáo Phương có lần nói với lớp:

“Dân mình mất đất, mất ruộng, phải vào nhà máy làm thuê cho Tây khổ cực lắm”…

Chứng kiến cảnh lầm than của quên hương cùng với việc được thầy giáo Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Đông Dương sau này giúp cho Nguyễn Thị Minh Khai giác ngộ. 16 tuổi, Nguyễn Thị Minh Khai đã bắt đầu tham gia vào con đường cách mạng.

Năm 1927, Nguyễn Thị Minh Khai tham gia hoạt động trong phong trào công nhân ở Vinh và tham gia thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, giữ vị trí ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ.

Trong thời gian này, Nguyễn Thị Minh Khai tích cực tham gia các phong trào đấu tranh tại quê hương, vận động phụ nữ tham gia bãi khóa, biểu tình đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu, truy điệu cụ Phan Chu Trinh.

Đầu năm 1929, được sự đồng ý của tổ chức, Minh Khai bí mật thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng. Năm 1930, Nguyễn Thị Minh Khai gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy.

Sau đó, bà sang Hương Cảng làm thư ký cho Nguyễn Ái Quốc ở văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản. Năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam ở đây. Năm 1934 sau khi được thả, Nguyễn Thị Minh Khai vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng một cách tích cực.

Trước khi gặp Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong đã từng lập gia đình. Tuy nhiên, do Lê Hồng Phong đã thoát ly quê hương đi hoạt động từ lâu nên vợ Lê Hồng Phong đã lập gia đình mới.

Khi gặp Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong bị ấn tượng bởi hình ảnh của một người con gái nhỏ nhắn nhưng có đôi mắt tròn to đầy cương nghị, đặc biệt là một tinh thần cách mạng rực lửa được chứa đựng trong trái tim yêu nước nồng nàn.

Trong khi đó, trong mắt Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong là người đàn ông có cử chỉ lịch thiệp, hòa nhã, tranh luận chính trị sôi nổi, lại có tính hài hước. Bản thân Lê Hồng Phong cũng được cả nhóm yêu mến.

Bình thường, Nguyễn Thị Minh Khai không phải là cô gái rụt rè, e lệ. Nhưng khi đứng trước Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai thấy mình có phần lúng túng… Sau một thời gian cảm mến nhau vì sự đồng điệu của tâm hồn và ý chí, đám cưới của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai được tổ chức.

Đó là một đám cưới giản dị, ấm tình đồng chí ở Thượng Hải với một bữa cơm chiều tươm tất hơn ngày thường. Có thêm vài chiếc kẹo bọc giấy xanh đỏ, một đĩa lạc rang và vài điếu thuốc lá.

Khi đồng chí Hoàng Văn Nọn về muộn nhìn thấy bữa cơm tươm tất hơn đã ngạc nhiên hỏi Minh Khai rằng: “Chị có biết việc gì không?”. Lúc ấy, Nguyễn Thị Minh Khai đỏ mặt không đáp, chỉ lắc đầu cười. Sau đó, Hà Huy Tập đứng lên, trịnh trọng tuyên bố:

“Hôm nay, Đảng làm lễ thành hôn cho anh Vương và chị Duy. Hiện nay Đảng còn nghèo, hoạt động bí mật, không tổ chức lễ cưới lớn cho anh chị được. Nhưng chúng ta vẫn rất vui. Chúng ta chúc mừng cô dâu, chú rể cộng sản bách niên giai lão”.

Đám cưới không có hát hò, không có chén rượu mừng cô dâu, chú rể nhưng vẫn thật vui và hạnh phúc. Cũng từ giây phút thành vợ chồng đó, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai gắn tình yêu của mình với cuộc đời hoạt động cách mạng cùng những thăng trầm và cả sự hi sinh.

Năm 1936, sau khi kết hôn được 2 năm thì Nguyễn Thị Minh Khai về nước. Nguyễn Thị Minh Khai được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được cử vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn.

Thời gian này, bà lấy bí danh là Năm Bắc. Lê Hồng Phong về nước sau Nguyễn Thị Minh Khai một năm. Ngày 10/11/1937, với tên là La Anh, Lê Hồng Phong về nước hoạt động.

Cuối năm 1937, bà con lao động nghèo ở Bình Đông thường gặp một “thầy chú” ăn mặc kiểu công chức, áo vét tông, đi giày da, đầu đội mũ cát, thủng thẳng đạp xe đi làm. Bà con trong vùng gọi người Hoa kiều là “thầy chú”.

Anh em cơ sở, bà con cô bác thường gọi anh là thầy Hai Lý. Lê Hồng Phong cải trang làm người Hoa kiều và đóng vai một giáo sư dạy học tại một trường trung học ở Chợ Lớn. Nhưng đến tối, vào buồng kín viết tài liệu, trút bỏ vỏ “Hai Lý thầy chú”, Lê Hồng Phong hiện ra với đôi tay vạm vỡ, rắn chắc của người lao động.

Nhờ sự giúp đỡ hết lòng của các đồng chí cộng sản Hoa kiều nên Lê Hồng Phong có thể hoạt động 2 năm liền giữa thành phố Sài Gòn. Chiếc buồng con, nơi Lê Hồng Phong làm việc, chỉ đủ đặt một chiếc giường bố hẹp.

Ban ngày Lê Hồng Phong xếp lại bên vách, tối đến mở ra làm giường nằm. Vì nguyên tắc hoạt động bí mật nên vợ chồng Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai mỗi người phải ở một cơ sở khác nhau. Thỉnh thoảng, Minh Khai đến chỗ Lê Hồng Phong bàn bạc công việc rồi lại đi ngay.

Tháng 3/1938, Lê Hồng Phong dự Hội nghị Trung ương họp tại Hóc Môn, Gia Định quyết định thành lập “Mặt trận Dân chủ Đông Dương”. Mùa xuân 1939, đứa con gái đầu lòng của Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong là Lê Thị Hồng Minh chào đời.

Nguyễn Thị Minh Khai phải gửi con cho cơ sở nuôi vì cách mạng đang cần mình hơn lúc nào hết. Ngày 22/6/1939, Lê Hồng Phong bị quân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù. Nguyễn Thị Minh Khai phải rút vào hoạt động bí mật tại 18 thôn Vườn trầu thuộc huyện Hóc Môn.

Sang năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt lần thứ hai. Khi bị bắt, Lê Hồng Phong làm thơ tặng vợ và kín đáo viết lên quạt giấy gửi ra cho Nguyễn Thị Minh Khai. Minh Khai nhờ chị Hai Sóc vào trại giam thăm và chuyển cho Lê Hồng Phong mảnh giấy con viết vội: “Em đã sinh con gái, mẹ con em khỏe”.

Minh Khai đặt tên con là Hồng Minh, ghép tên đệm của hai vợ chồng. Ngày 30/7/1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị giặc bắt tại nơi in, phát hành báo “Tiến Lên” và bị đưa về giam ở bót Catina.

Biết hai người là vợ chồng nên giặc đưa Lê Hồng Phong về giam chung với Nguyễn Thị Minh Khai để đánh đòn tâm lý với cả hai người. Tuy nhiên, cả hai nhà cách mạng đã nén tình cảm riêng tư để đối phó với âm mưu thâm độc của quân thù.

Đã có lần thực dân Pháp đưa Lê Hồng Phong vào để Nguyễn Thị Minh Khai nhận mặt và chăm chú quan sát thái độ của cả hai dành cho nhau nhưng Nguyễn Thị Minh Khai đã kiên quyết trả trả lời với chúng: “Tôi không biết người này”.

Tại nhà tù, cả Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều bị tra tấn dã man. Thế nhưng, dù bị tra tấn thế nào, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai cũng kiên quyết không khai ra bất cứ bí mật nào của Đảng, của phong trào.

Trong tù Nguyễn Thị Minh Khai tiếp tục vận động chị em phụ nữ đấu tranh. Nguyễn Thị Minh Khai còn lấy máu mình viết lên cánh cửa phòng giam lời thơ khí khái của một chiến sĩ cách mạng:

“Dù đánh, dù treo, càng cương  quyết Dù kềm, dù kẹp, chẳng sai lời Hy sinh phấn đấu vì nhiệm vụ

Triệt để thực hành chết mới thôi “

Phiên xử đầu tiên của Nguyễn Thị Minh Khai có sự tham dự của đại diện gia đình là Nguyễn Thị Quang Thái. Sau đó, Nguyễn Thị Minh Khai đã viết thư gửi cha mẹ, trong đó có đoạn:

“Chắc em Thái đã về đến nhà thưa thầy đẻ rõ những nỗi oan khổ của con. Con bị 5 năm tù, 20 năm biệt xứ và 11.000 đồng phạt, 20 năm mất quyền công dân, quyền gia đình…

Phiên tòa xử, em Thái con vào xem mới là phiên đầu xử một vụ, nghe nói con còn phải đem ra xử nhiều phiên nữa. Xin thầy đẻ vững tâm, con vốn là kẻ vô tội thì không lẽ người ngay thẳng bị oan mãi hay sao...”.

Trong khi đó, Lê Hồng Phong bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo. Tuy bị giam hãm trong nhà tù nhưng Nguyễn Thị Minh Khai với cương vị là Bí thư Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, là Uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ nên Nguyễn Thị Minh Khai vẫn tìm mọi cách để liên lạc với bên ngoài, tiếp tục lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.

Tuy nhiên, sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị khủng bố, toà án thực dân đã kết án tử hình Nguyễn Thị Minh Khai. Trước tòa án kẻ thù, bà dõng dạc nói: “Nước của tôi, cứu nước là có tội, cướp nước mà không có tội sao?”.

Kết thúc phiên tòa, thấy đôi mắt Quang Thái dàn giụa, bà quay lại an ủi: “Em đừng khóc. Chị dù mất nhưng rất vui sướng vì đã làm tròn nhiệm vụ. Em hãy giúp chị, chừng nào Hồng Minh khôn lớn thì em đưa cháu về nuôi và dạy bảo cháu nên người… Chị gửi lời vĩnh biệt anh Lê Hồng Phong đang bị đày ở Côn Đảo, cảm ơn các đồng chí đã nuôi nấng che chở Hồng Minh”.

Trước lúc hy sinh Nguyễn Thị Minh Khai còn kịp làm ba việc: Một là gửi lời vĩnh biệt tới người chồng thương yêu đang bị đày ngoài Côn Đảo, hai là gửi lời cám ơn đến những người đồng chí đang nuôi nấng Hồng Minh, ba là tước vải quần áo nhà tù, đan một chiếc áo gối gửi về tặng mẹ gọi là một chút lòng hiếu thảo đối với mẹ mà không làm tròn bổn phận chăm sóc mẹ lúc mẹ già yếu.

Nguyễn Thị Minh Khai cũng đã viết một bức thư gửi cho cha mẹ mình. Bức thư này đề ngày 29/5/1941, có đoạn : “Con bị kết án xử tử, (...) Cha mẹ hỡi! Phận con không may đã đành, con muốn giấu không cho thầy đẻ biết để làm khổ gia đình, nhưng giấu sao được, báo đăng...

Con chỉ xin thầy đẻ đừng tủi nhục đau khổ rằng con bị kết án xử tử là phạm gì sát nhân, độc ác, xấu xa dữ tợn gì? Không! Con không phải vậy đâu! Cha mẹ ơi! Con không phải là đứa con bất hiếu, tình thế xui nên khiến con không những bị dang dở việc hôn nhân, mà còn phải bỏ nhà đi trong 10 năm cách biệt mẹ cha.

Con khi nào cũng là một kẻ trong sạch chính đáng, không có bao giờ làm sự gì bất nhất hung dữ, đầy một tấm lòng nhân ái minh chính... cúi xin cha mẹ suy xét kỹ càng mà tha tội bất hiếu cho con, xin coi con như hòn máu đã rơi mà thôi. Các em ơi, đừng khóc lóc, gắng chí học tập cho nên người  xứng đáng cho cha mẹ vui lòng...”.

Không khuất phục được người chiến sỹ cộng sản trẻ tuổi, sáng này 28/8/1941, chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng một số đồng chí bị giặc đem xử bắn ở Hóc Môn. Trước khi ra pháp trường chị đã nhắn nhủ cùng đồng bào, đồng chí:

Vững chí bền gan ai hỡi ai Kiên tâm giữ dạ mới anh tài Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ

Con đường cách mạng vẫn chông gai.

Nguyễn Thị Minh Khai ngã xuống khi mới 31 tuổi. Trước pháp trường, bà hướng về phía đồng bào, đồng chí nói lời tâm huyết cuối cùng: “Việc chúng tôi làm là chính nghĩa. Vì muốn Tổ quốc chúng tôi được Độc lập, dân chúng tôi được ấm no mà chúng tôi làm cách mạng.

Chúng tôi không có tội gì. Thưa đồng bào! Chúng ta phải tiêu diệt đế quốc, phong kiến thì đời sống mới sung sướng được”. Trong khi đó, chỉ hơn 1 năm sau, vào ngày 6/9/1942, Lê Hồng Phong cũng bị mất trong lúc ở tù tại Côn Đảo.

Ông mất đúng vào ngày sinh lần thứ 41 của mình. Như vậy, cho đến những giây phút cuối cùng, cuộc đời và tình yêu của Lê Hồng Phong – Nguyễn Thị Minh Khai vẫn gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Cả Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã hi sinh cuộc sống – hạnh phúc riêng của mình với mong muốn giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than.

Sau này, để tưởng nhớ công lao của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai, tên của hai người đã được dùng để đặt cho những con đường và trường học trên khắp đất nước.

[links()]
 

Video liên quan

Chủ đề