Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên chiều muộn trong hai câu đầu bài thơ Chiều tối

Phân tích bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh) – Bài số 1

Đã từ lâu, chiều muộn luôn là khởi nguồn cho cảm hứng thi ca của nhiều thi sĩ. Trong đó không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – dưới tư cách là một nhà thơ – với một phong cách “thơ chiều” hoàn toàn khác biệt!

 Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ tịch:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ 

Cô vân mạn mạn độ thiên không 

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc 

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Dịch nghĩa:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ 

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không 

Cô em xóm núi xay ngô tối 

Xay hết lò than đã rực hồng.

(Nam Trân dịch)

Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc.

Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thời gian. Tất cả tạo nên một phông lớn làm nền cho cảnh chiều.

“Cánh chim” vốn là hình ảnh không mấy xa lạ với thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi khi nhìn thấy cánh chim bay về rừng lại làm người ta liên tưởng về một buổi chiều muộn nhiều hơn. Chất ước lệ càng được nâng cao khi các nhóm từ “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường được sử dụng trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, đại thi hào Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh chút chuyển động của cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”. Hoặc với Huy Cận, bóng chiều như đang sà xuống cùng cánh chim đang nghiêng dần về phía cuối trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa”… Dường như với thi nhân, cảnh chiều “không thể hoàn thiện” nếu thiếu cánh chim. Nhưng qua đây ta cũng thấy được một điều: thơ văn xưa nhắc đến “cánh chim” thường chỉ như một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều cũng như gợi cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:

“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch

Hay:

“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên

Cánh chim “phi tuyệt”, “phi tận” trong thơ Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên khiến ta có cảm giác tất cả như đang rơi vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, mang một ý niệm siêu hình. Đó dường như đã trở thành “lối mòn”, một cấu trúc không thể thay thế trong thơ văn cổ. Nhưng vượt qua rào cản ấy, Bác đã đưa cánh chim của chính mình ra khỏi thế giới siêu hình để trở về với thực tại:

 “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”

Dịch:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Không còn mang tính quan sát từ trạng thái bên ngoài (hoạt động “bay”), cánh chim trong thơ Bác là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái “tôi” cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật, thiên nhiên: Suốt một ngày rong ruổi khắp nơi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường và cũng đang khao khát tìm được một nơi để dừng chân nghỉ tạm. Chính sự đồng điệu đến tuyệt vời của người tù với cánh chim đã làm nên hình tượng mới mẻ của thi ca – “quyện điểu”. Cánh chim giờ đây đã thực sự có phương hướng, điểm dừng cũng như mục đích bay rõ ràng. Từ đây, ta nhận thấy cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống của Bác. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương cuộc sống, cảm quan của Bác cũng chính là cảm quan nhân đạo.

Cũng mang phong cách Đường thi nhưng câu thơ thứ hai của bài thơ lại gợi chút cảm giác cô đơn, quạnh quẽ bởi hình ảnh của “cô vân”. Tuy nhiên, bản dịch dù đã dịch khá hay và uyển chuyển vẫn bỏ sót chữ “cô” và không thể hiện hết ý nghĩa của từ “mạn mạn” do vậy làm mất đi ý thơ vốn rất sâu sắc của nguyên tác. Trong thơ xưa, chòm mây thường gợi lên vẻ cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không: “Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch). Còn với “Chiều tối”, chòm mây không chỉ đơn thuần là “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà cũng là một chòm mây lẻ loi, cô độc, chầm chậm trôi giữa bầu trời. Câu thơ làm ta nhớ tới những áng mây trong thơ Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du” (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch), áng mây trắng mang hơi hướng của sự vĩnh hằng trong khi “chòm mây trôi nhẹ” làm sống dậy bao nỗi khắc khoải, mong chờ. Nhưng trên hết, chính hình ảnh “cô vân” đã tạo nên chiều cao, chiều sâu của bức tranh ngoại cảnh. Núi rừng Quảng Tây trong chiều thu như hiện ra trước mắt người đọc với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm ả. Chòm mây lẻ loi giữa bầu trời bao la, rộng lớn, trải dài đến vô tận càng khiến cho cảm giác trống trải, cô đơn được nhân đôi. Vì sự cô đơn ấy không chỉ của chòm mây lẻ bóng, mà còn là tâm trạng của người đang ngắm nó.

Chỉ với những hình ảnh thơ rất đỗi quen thuộc, người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh đã vượt qua khuôn khổ thường tình của thi ca cổ điển để khắc họa bức tranh chiều trên đất khách quê người. Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống vô hạn của Người. Nhưng phảng phất đâu đó trong hai câu thơ là một nỗi buồn thấm thía. Cánh chim bay tìm đường về tổ như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng về giấc mơ đoàn viên. Người tù đang phải chịu cảnh tù đày nên ắt hẳn luôn hướng về quê hương, gia đình, nhìn thấy cánh chim phía cuối trời, cái mong ước nhỏ nhoi ấy lại càng trào dâng, mãnh liệt khiến ai dù không mấy mặn nồng với quê hương cũng phải đau đớn, huống hồ Bác là một người yêu nước tha thiết. Thêm vào đó, bóng mây chầm chậm trôi về phía trời xa gợi niềm xót xa cho thân phận nổi nênh, lênh đênh, trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát vọng tự do được bay như chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn bao giờ hết. Bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách HCM – đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) – Văn mẫu lớp 11

Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, Bác bắt đầu đi vào xây dựng hình tượng trung tâm cho bức tranh. Bút pháp cổ điển giờ đây được thay thế bằng những hình ảnh mang phong cách hiện đại. Bức tranh không còn đơn điệu mà như được thổi hồn bởi sự xuất hiện của con người – cô gái xay ngô – và bếp lửa hồng. Khung cảnh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người. Đó là một luồng gió mới làm thay đổi toàn bộ “cục diện” của bức tranh:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc 

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”

Giữa rừng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong lúc nỗi buồn thầm kín đang bủa vây lấy tâm trí thì đập vào mắt người tù là hình ảnh “cô em xóm núi” đang “xay ngô tối” cắt ngang mọi dòng suy nghĩ lẫn cảm xúc. Khi niềm hy vọng trong việc tìm kiếm điểm dừng chân sau một ngày đi đường mệt mỏi đang dần vụt tắt thì “xóm nùi” hiện ra trước mắt người tù, hệt như một giấc mơ, khiến bao mệt mỏi, lo toan dường như biến mất. Cái vẻ bình yên của xóm núi càng khiến lòng người thêm ấm áp bởi sự hiện diện của người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ trong tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, tạo nên sự tươi vui, khỏe khoắn cho cả bài thơ. Đáng chú ý là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với người thiếu nữ trong cổ thi. Nhiều thi nhân xưa thường ví người thiếu nữ như “Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

Cung thương làu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Trong khi người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Bên cạnh đó, cùng đề cập đến con người nhưng trong thơ xưa, con người xuất hiện mà thiếu hẳn sức sống, dường như chỉ để tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên, mang một nỗi niềm hoài cổ, sầu muộn:

“Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên song chợ mấy nhà”

(“Qua Đèo Ngang” – Bà Huyện Thanh Quan)

Nhưng “Chiều tối” với sự có mặt của cô gái xay ngô thực sự đã đem lại hơi ấm, hạnh phúc cho không chỉ người tù đơn độc mà còn cho cả người đọc trước cái không khí âm u, heo hút của núi rừng. Phải chăng vẻ đẹp lung linh của bức tranh là do sự khỏe khoắn ấy tạo nên?!?

Ở nguyên tác, Bác không cần dùng đến chữ “tối” như bản dịch nhưng vẫn cho ta thấy được sự vận động không ngừng của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Đó chính là nhờ sự hiện diện của hình ảnh lò than hồng. Bởi phải vào thời điểm như thế người ta mới thấy hết sự rực hồng của than trong lò, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối” nhưng ý nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối không chỉ làm nổi bật thêm tư thế xay ngô của cô gái mà hơn hết, ánh than hồng đã xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lấy vạn vật mà theo nhà thơ Hoàng Trung Thông – “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”- NXB Tác phẩm mới 1977, trang 231 đã nhận xét thì: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “ hồng” trong nghệ thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” Cũng vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người.

Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất “bạch thoại”, mộc mạc, đời thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để rồi đến khi cô xay ngô xong (bao túc ma hoàn) thì mới nhận ra “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng). Qua hình ảnh trẻ trung mà bình dị, hiện đại ta thấy được niềm xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ trước nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống con người lao động. Sự lặp đi lặp lại của công việc xay ngô như một vòng quay nặng nề, luẩn quẩn của con tạo. Tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt cũng theo đó mà chân thành hơn bao giờ hết. Song trên một phương diện nào đó, câu thơ một lần nữa khơi gợi lại cảm giác về sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Đó như một cách nhấn mạnh nỗi lòng thườn trực trong trái tim Bác. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người. Nhưng dù là ý nghĩa nào chăng nữa thì cũng đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy” hay: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Chúng ta nhận ra “Chiều tối” mang những vần thơ quên mình vĩ đại.

Xem thêm:  Nghị luận về ô nhiễm môi trường

Dẫu đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng Bác vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của cảnh vật, con người bình thường khác mà Người tình cờ bắt gặp trên đường đày ải. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi ” Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày” nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.

Trên phương diện văn học, “Chiều tối” vẫn luôn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của bài thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Đây là một tác phẩm có thể nói là đẹp về nhiều mặt và thực sự là một bông hoa sáng ngời trong thế giới thơ HCM. Mang phong cách cổ điển kết hợp với “hơi thở hiện đại”, bài thơ là bức chân dung tự họa, phản ánh con người tinh thần và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như những “vầng sáng” của lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một luồng sáng khai nguồn cho một phong cách thi ca hiện đại trữ tình, hoàn toàn mới mẻ, thoát ly với văn phong cổ điển. Và hơn cả, bài thơ là một điển hình mang dáng dấp nhân cách HCM bởi sự gởi gắm tất cả tâm tư, tình cảm của Bác trong “sâu thẳm” nó. Đó cũng chính là những yếu tố làm nên vẻ đẹp có “một không hai” của bài thơ.

Phân tích bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh) – Bài số 2

Hồ Chí Minh-nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam là người đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến bờ bến thắng lợi.Bên cạnh đó Hồ Chí Minh cũng đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà với nhiều thể loại văn chính luận,thơ,bút ký.Trong đó tiêu biểu là tập thơ Nhật ký trong tù.

Trên đường đi đày từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo bác đã sáng tác một chùm năm bài thơ và “Chiều tối” là bài thứ ba trong chùm thơ ấy,cũng là bài thơ số ba mốt trong tập “Nhật kí trong tù”.Bài thơ là bức tranh vẽ cảnh hoàng hôn qua con mắt nhìn của người tù đang bị gông cùm và bị áp giải qua một vùng sơn dã

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,

Cô vân mạn mạn độ thiên không;

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn,lô dĩ hồng.”

Dịch:  “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

      Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;

      Cô em xóm núi xay ngô tối,

      Xay hết,lò than đã rực hồng.”

Buổi chiều tối thường là thời gian kết thúc công việc để trở về với gia đình,nhưng hình ảnh hoàng hôn buổi chiều cũng dễ mang lại  cho con người những cảm xúc cô đơn,tịch liêu

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không;”

Hình ảnh cánh chim hiện ra cho ta thấy sự mệt mỏi sau một ngày dài, đang bay “về rừng tìm chốn ngủ” báo hiệu một ngày sắp tàn. Người tù phải chuyển lao từ sáng sớm, đầy gian truân vất vả khi trên người là gông cùm, là xiềng xích đến chiều tối vẫn chưa được nghỉ ngơi. Không có từ ngữ nói lên sự vất vả nhưng chỉ bằng một cánh chim bay mỏi đã lột tả được hết tất cả sự mệt nhọc trên chặng đường

Giữa thiên nhiên bao la dường như tất cả đều dừng lại chỉ có một “chòm mây” lững lờ nhẹ trôi. Chòm mây làm nổi bật lên sự êm ả, yên ắng của buổi chiều. Một chòm mây cô đơn, lẻ loi trôi trên bầu trời, cũng như sự cô đơn, độc hành của Bác. Trong hoàn cảnh ấy Bác vẫn có tâm thái ung dung, vẫn hòa mình với thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, hơn nữa còn thể hiện được khao khát được như cánh chim kia quay về tổ quốc, như đám mây kia được trôi trên nền trời tự do. Một cánh chim, một chòm mây cũng làm nên những vẫn thơ tuyệt vời

“Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết,lò than đã rực hồng.”

Đang trong cảnh cô đơn,quạnh quẽ bỗng dưng xuất hiện con người. Hình ảnh cô thôn nữ xuất hiện làm cho bức tranh chiều tối trở nên sinh động, vui tươi hơn. Thiên nhiên dường như đã lui hết về sau làm nền cho con người làm toàn cảnh bức tranh trở nên ấm áp, khỏe khoắn và gần gũi hơn. Sự vận động của hình tượng thơ khiến người đọc có thể mường tượng ra hình ảnh của chiếc cối xay ngô, với âm điệu nhịp nhàng. Vòng quay ấy dường như cũng là vòng quay của thời gian, mang theo cả hơi thở của sự sống. Khi vòng quay của chiếc cối xay ngô dừng lại thì cũng là lúc kết thúc một ngày. Hình ảnh lò than sáng rực hồng chính là trung tâm của bài thơ. Bài thơ không kết thúc trong cảnh màn đêm bao phủ mà kết thúc trong sự ấm áp, trong ánh sáng rực hồng của lò than. Ánh sáng tỏa ra từ bếp lửa, từ cuộc sống bình dị của người lao động. Ánh sáng của niềm tin của sự lạc quan hướng về phía trước và cũng tạo nên vẻ đẹp lãng mạn cách mạng cho bài thơ.

Bài thơ “chiều tôi” là bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ miêu tả đơn giản về cảnh thiên nhiên khi chiều tối và hoạt động của con người “xóm núi” nhưng ẩn chứa trong đó là nỗi niềm khao khát tự do. Đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên của Bác.

Phân tích bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh) – Bài số 3

Buổi chiều cũng tựa như mùa thu, xưa nay vốn là nguồn cảm hứng không vơi cạn của văn chương nghệ thuật.Khó có thể kể hết những bức tranh chiều, những bản nhạc chiều, những áng thơ chiều mà các nghệ sĩ, tao nhân đã để lại cho đời sống con người.

Về mặt này, Hồ Chí Minh trong tư cách một nhà thơ cũng không phải là ngoại lệ. Có thể thấy ngay từ tập thơ Nhật Kí Trong Tù, trái tim của thi nhân ấy đã không chỉ một lần rung động trước vẻ gợi cảm của buổi chiều hôm để viết ra những vần thơ mà còn được nhiều người nhớ mãi như “ Vãn chiều hôm”, “ Hoàng hôn”,.. Song trước tất cả và quen thuộc hơn tất cả những bài thơ chúng ta vừa kể đến vẫn phải là bài thơ mà chúng ta sẽ tìm hiểu dưới đây “Mộ” ( chiều tối).

Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.)

“Chiều tối“ là một bài thơ viết về những vẻ đẹp của buổi chiều hôm, nhưng điều lý thú là trong hai câu thơ đầu tiên cũng như cả bài thơ lại không dùng đến một chữ “chiều“ nào. Vậy mà cảnh chiều và hồn chiều vẫn hiện lên rất rõ, rất đẹp và đầy vẻ gợi cảm. Nhà thơ chỉ vờn vẽ lên một vài nét tiêu sơ, gợi nên hình ảnh cánh chim chiều về tổ hay một chòm mây, áng mây chầm chậm trôi ngang qua bầu trời. Ít nét thế thôi song lại là những nét rất tiêu biểu cho những thời khắc cuối cùng của ban ngày, trước khi bóng tối buông màn xuống vạn vật. Từ những câu thơ cuối cùng lan toả ra một cảm giác nhẹ nhàng, man mác bâng khuâng của buổi chiều hôm khi mà mọi vật dần đi vào trạng thái nghỉ ngơi. Đó có thể là một buổi chiều thực mà Bác đã gặp và ghi lại trong một cuộc chuyển giao từ nhà lao này sang nhà lao khác. Nhưng cũng không thể không thấy rằng buổi chiều ấy còn mang một vẻ đẹp đã trở nên vĩnh hằng của những buổi chiều mà hình sắc còn đọng lại trong những câu thơ cổ mà ở đó vẫn đi về không ít những “quyện điểu“ với “cô vân”.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

Chim hôm thoi thóp về rừng

Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành 

( Nguyễn Du)

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi 

( Bà Huyện Thanh Quan)

hay như:

Trúng điểu cao phi tần

Cô vân độc khứ nhàn

      (Lý Bạch)

Và như thế, những dòng thơ đầu tiên hình như đã làm cho bài thơ “ Chiều tối “ của Bác đã nhuốm một phong vị cổ điển. Cảm xúc bài thơ vì thế mà càng trở nên mênh mang hơn, không chỉ trong không gian mà còn cả ở thời gian. Những xúc cảm như thế đã được nhà thơ gửi gắm vào hai câu thơ về chiều hôm đó.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Có nhiều người cho rằng những dòng thơ ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo và thấm thía của một người tù trên con đường đày ải đang thấm một nỗi xót xa khi thấy những cánh chim chiều cũng tìm ra chốn ngủ, những đám mây cũng lững lờ nghỉ ngơi trên bầu trời bao la. Trong khi đó, người tù vẫn bị xiềng xích, trói buộc chẳng bằng cánh chim nọ, áng mây kia vì chiều đã sắp hết rồi mà mình vẫn không có nổi một chốn dừng chân. Mặt khác,cũng có một cách hiểu dường như hoàn toàn ngược lại. Theo đó, có thể thấy đây là hai dòng thơ của một tâm hồn đã vượt lên trên cảnh ngục tù, xiềng xích và trói buộc để lưu luyến, dõi nhìn theo một cánh chim, một áng mây chiều để cảm thấy tim mình xao xuyến một tình cảm rất người, cho dù đang phải sống một cuộc sống “ khác loài”. Nên chăng ta hãy hiểu theo một cách hiểu được nhiều người ủng hộ nhất, cách hiểu thứ hai. Song hiểu theo cách nào trong hai cách trên, chúng ta vẫn tìm thấy ở đó một chân dung tinh thần của một chủ tịch Hồ Chí Minh thi sĩ, một con người yêu tha thiết vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời và cuộc sống. Đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người.

Phân tích bài thơ Chiều tối (Hồ Chí Minh) – Bài số 4

Cũng như nhiều bài thơ khác trong “Nhật kí trong tù“, “Chiều tối“ biểu hiện một cảm nhận của tác giả về cuộc sống luôn có sự vận động, phát triển, chảy trôi. Chúng ta có thể thấy điều ấy khi đối chiếu hai câu đầu với hai câu cuối của bài thơ. Rõ ràng hai câu thơ trên đã viết về một khung cảnh thiên nhiên vào lúc chiều tà, nhưng đến hai câu thơ sau đã có thể thấy rõ trời đã đổ tối. Thời gian không ngừng trôi, mặc dù nhà thơ trong nguyên tác đã không cần dùng đến chữ “tối”.( Chữ “ tối “ trong bản dịch là do người dịch tự thêm vào). Và bởi phải vào thời điểm như thế, người ta mới thấy được rõ ràng sự rực hồng của bếp lửa, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối“ mà nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Và như thế, cặp mắt của thi nhân sẽ thôi không ngước nhìn mãi về phía bầu trời mà hướng về mặt đất để nhận thấy ấn tượng về một xóm núi, về một cô gái xay ngô, một chiếc lò than trong ngôi nhà đơn sơ, giản dị. Bức tranh của cảnh vật sẽ nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt con người. Hình ảnh trung tâm của hai câu thơ cũng sẽ không phải là một cánh chim chiều về tổ, một áng mây trôi mà là một con người lao động. Và ngôn từ của những dòng thơ cũng sẽ theo đó mà đổi thay. Hai câu thơ này không thấm thía hương vị thơ cổ điển như hai câu trên mà mang nhiều chất “ bạch thoại”, mộc mạc, đời thường, thể hiện rõ nhất ở chữ “ bao túc” xuất hiện đến hai lần.

Hai câu thơ này một lần nữa không chỉ là để ghi lại những gì nhà thơ đã thấy trong một buổi chiều. Bởi không nên quên rằng “Chiều tối” vẫn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của câu thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Nhiều người đã thấy ở đây nỗi xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ đối với con người lao động. Nhà thơ dường như đã đồng cảm với sự nhọc nhằn của họ. Đồng cảm ở cách nhà thơ nói việc xay ngô, ở cách dùng chữ “ ma bao túc” để bật lên những vòng quay nặng nề, luẩn quẩn và ở âm điệu của những câu thơ mà đọc lên có thể cảm thấy vất vả, khó khăn. Và như thế, chúng ta có thể cảm nhận được tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù đó là những con người không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt. Song cũng nhiều người muốn hiểu hai câu thơ sau này theo nghĩa khác, một hướng tiếp nhận khác. Phải chú ý đến những chữ “hoàn“ (hết) và hình ảnh của chiếc lò than đã rực đỏ lên, để nhận ra rằng nhà thơ muốn nói đến cảm giác về một sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người. Nhưng hai ý kiến ấy ngẫm ra cũng không hoàn toàn đối lập, bởi vì đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía trong những câu thơ:

Chỉ biết quên mình cho hết ngày

hay: Nâng niu tất cả chỉ quên mình 

Chúng ta nhận ra “Chiều tối“ là những vần thơ quên mình vĩ đại. Cực độ con người đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của những con người bình thường khác, tình cờ gặp mặt hoặc thấy trên con đường đày ải.

Nhưng có lẽ cũng không nên nói rằng Bác Hồ đã quên mình bởi một người như Bác thì bầu trời, xóm núi, cô gái xay ngô và bếp lửa đang rực hồng lên ấy không phải là những cái ở bên ngoài mình. Dường như với Bác, đấy là cuộc sống của chính mình. Vậy nói như nhà thơ Tố Hữu, Bác có thể nâng niu tất cả, vì Bác sống như trời đất, vì Bác có một trái tim có thể ôm trọn mọi non sông, kiếp người:

Bác sống như trời đất của ta.

Thanh Bình tổng hợp

Page 2

Prev Article Next Article

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) – Bài số 1

Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử – tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.

Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn. Tuy chỉ là mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.

Bài thơ chỉ gồm 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.

Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng tràm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới – hàng cau” trong bài thơ này?

Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung…, nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ dẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điển, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.

Hình ảnh lá trúc còn khiến ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn, Biếc che cần trúc không buồn mà say.

         (Huế đa tình)

Hóa ra cần trúc, lá trúc là một nét riêng của Vĩ Dạ thôn. Nó là cảnh thực, nhưng cũng là cảnh ẩn dụ, tượng trưng.

Trong khổ thứ hai, nhà thơ dặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây, Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay; Thuyền ai đậu bến sông trảng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Có thể hiểu cảnh tượng này như trên bờ sông Hương. Nhưng có cảnh nơi nào mà lại “có nền, có nếp” như ở đây:

Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;

Trước hết cần hiểu hai câu thơ này theo lối tả thực: Đây là cảnh tượng trời mây bên bến sông. Cái cảnh ấy vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hóa để trở nên có hồn, sinh động.

Nhưng cái hay của hai câu thơ vẫn còn là bí ẩn. Gió, mây, sông nước còn như ẩn chứa điều gì kín đáo, khó nói thành lời. Có thể thấy ở đây những ý nghĩa ẩn dụ không toàn phần – tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”. Tác giả không lấy cảnh để nói tình một cách đơn thuần như những ẩn dụ thường thấy trong ca dao:

Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Ở đây, tác giả vừa tả thật, vừa ẩn dụ. Sở dĩ phải viết như vậy vì tình cảm của Hàn với Kim Cúc chưa có gì để mà tả thật, cũng chưa có gì để mà ẩn dụ. Cho nên phải thật sự kín đáo, thật sự tế nhị và tự trọng.

Hai câu tiếp theo cũng kín đáo và mơ hồ như thế:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Hai câu hỏi tu từ liên tục, vội vã.

Có người cho rằng, hai câu thơ này hấp dẫn vì các hình ảnh thơ mộng. Đúng vậy, những hình ảnh “thuyền đậu bến sông trăng”, “thuyền chở đầy trăng”… đều là những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng và rất Huế nữa! Nhưng thực ra, những hình ảnh đó đều đã được ta bắt gặp nhiều trong thơ cổ. Cái thần diệu của hai câu thơ này là ở những câu hỏi tu từ, như có gì vội vã, thúc dục người ta nhưng vẫn rất mơ hồ.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

“Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai thế? Và tại sao lại phải “về kịp”? Lại “về kịp tối nay” nữa chứ? Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.

Có người cho rằng, cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nổi bật lên bởi cái vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo và kín đáo. Cái vẻ đẹp ấy sở dĩ có được là nhờ cảnh tượng nên thơ của xứ Huế, nhưng cũng còn là do câu chuyện tình riêng kín đáo và còn chưa được thể hiện rõ ràng giữa nhà thơ với người con gái xứ Huế.

Và đúng như vậy, thì khổ thơ thứ hai thể hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp ấy.

Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí:

Mơ khách dường xa khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đày sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

“Khách đường xa” là ai? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó:

Mơ khách dường xa, khách đường xa

Không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như có ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.

Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn:

Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối: “Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dầu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hói ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) – Bài số 2

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông mang đậm dấu ấn của một con người đau khổ giữa cuộc đời. Bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ, hồn nhiên trong trẻo đến lạ thường như các tác phẩm: “Mùa xuân chín, đây thôn Vĩ Dạ”.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tạo từ hai nguồn cảm hứng: “cảnh đẹp của Vĩ Dạ với đất đai trù phú” đã tạo nên nhà thơ một tình yêu con người,yêu cuộc sống. Và nguồn cảm hứng thứ hai là “tình yêu của một mối tình xa xăm” mà thi sĩ mong muốn được bày tỏ. “Đây thôn Vĩ Dạ” viết về cảnh sắc thiên nhiên và con người xứ Huế đáng iu đồng thời nói lên niềm khao khát được hoà hợp, được gắn bó với con người của một tâm hồn đa sầu, đa cảm.

Bài thơ kết đọng nhiều tâm trạng của thi sĩ. Câu thơ mở đầu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa mời mọc, nhà thơ phân thân để hỏi chính mình niềm khao khát được về thăm “thôn Vĩ” đã cất lên thành lời tự vấn lương tâm.

Cảnh thôn Vĩ với vườn tược tốt tươi dần dần hiện lên qua ngòi bút của thi sĩ:

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Vội vàng (Xuân Diệu) – Văn mẫu lớp 11

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nhà thơ đã chọn một điểm nhìn hội hoạ để bức tranh quê tự phơi bày vẻ đẹp hoàn mĩ của nó. Chọn cái trẻ thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ, cũng là cảnh làng quê ấy có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh, không dùng một không gian mênh mông làm nền, cái nhìn của Hàn Mặc Tử ở đây là cái nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ tả cảnh đã có 1 nhịp đập khác thường, nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cái đẹp không ngờ cứ hiện ra trước mắt:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Mỗi câu thơ, một chi tiết tất cả hợp lại ánh lên một vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Hai chữ “nắng” ở một câu thơ tạo nên một tiết tấu. Chính cái nắng bình minh dịu nhẹ ấy đã mở ra khu vườn một màu xanh mát:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Hai chữ “mướt quá” tác động trực tiếp đến xúc cảm của người đọc, nó như một tiếng reo vui ngỡ ngàng đầy hạnh phúc của thi sĩ. Chỉ là trong hồi hồi tưởng nhưng vườn tược Vĩ Dạ vẫn hiện lên với vẻ đẹp rạng ngời, thanh tú. Hơn nữa chữ “mướt” còn nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn là trạng thái mượt mà,mềm diệu đang độ phát triển tơ non. Cách so sánh cũng rất tinh tế: “xanh như ngọc” tự nó lại gieo một ấn tượng mới làm cho cảnh vật trở nên có hồn. Tất cả đều tưng bừng, rạo rực đầy sức sống.

Sau cảnh đẹp là bóng hình thôn nữ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cảnh vật Vĩ Dạ trở nên hữu tình hơn nhờ mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh: “Lá trúc che ngang” là một nét vẻ tài hoa gợi lên thấp thoáng gương mặt thiếu nữ, một nét vẻ rất đẹp miêu tả nét đẹp dịu dàng, duyên dáng, tính tứ của thiếu nữ sông Hương. Lá trúc thanh mảnh, biếc xanh đã làm tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu, thanh tao của con người xứ Huế.
Bước sang khổ thơ thứ hai là cảnh sông Hương vừa thực vừa ảo:

“Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Mặt cảm chia lìa đã hiện ra trong câu chữ, hình ảnh và giọng điệu. Thì ra thứ hạnh phúc mà nhà thơ đã hé lộ ra ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả, nó rạng rỡ, mơ màng, nó đã là ảo ảnh. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc dời lại càng ngoảnh mặt, quay lưng. Câu thơ có gió, có mây nhưng rời rạc, chia lìa: nước có dòng mà không chảy, hoa bắp thì tẻ nhạt, vô duyên. So với khổ thơ đầu cảnh ở đây đã như người bước hụt nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều vì vậy mới có sông trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trên xu thế tất cả đang chia lìa, đứt đoạn ấy nhà thơ ao ước một thứ có thể ngược dòng trở về với mình: “trăng”. “Trăng” như một vương quốc bá quyền của Hàn Mặc Tử. Trong thế giới tâm hồn của Hàn Mặc Tử, trăng như một tri âm, tri kỉ, một niềm tin cậy, một nỗi khát khao, một vị cứu tinh. “Sông trăng, thuyền trăng” là những hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền cõi mộng. Từ cõi thực, cảm xúc thơ dần chuyển sang mộng ảo, câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Tại sao phải kịp về tối nay, có phải nếu không kịp thì tất cả sẽ trở nên muộn màng. Dường như thi sĩ đã dự cảm về một cái kết thúc đau thương của mình?. Câu thơ là câu hỏi của một niềm ước mong, khắc khỏi muốn được đón nhận vẻ đẹp của trăng, của cuộc đời.
Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa cõi mơ và cõi thực:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ơ đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhà thơ đang mơ trong cõi đau thương của riêng mình. Giấc mơ ấy là niềm mong ước đến tận cùng một hình bóng đẹp của “em”, của “khách đường xa”. Em là người của cõi đời giờ đã thành xa xôi quá, ba chữ “khách đường xa” lặp lại hai lần để nhấn mạnh sự xa xôi ấy. Cái đẹp đối với nhà thơ như một cuộc rượt đuổi không bao giờ tới đích.”Áo em trắng quá nhìn không ra”, màu trắng và màu trăng đã hoà trộn trở thành ảo giác xa xăm. Hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết lại càng xa vời và nhóm màu sương khói. “Ở đây” đâu phải chỉ riêng về thôn Vĩ mà còn là một thế giới riêng của linh hồn bất hạnh. Nhà thơ đã rời thôn Vĩ để trở về thế giới bất hạnh của mình. Câu hỏi cuối bài thơ với hai chữ “ai” thật xa vời đã khép bài thơ lại trong một nỗi ngậm ngùi, tuyệt vọng.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp và thơ mộng về xứ Huế đáng iu. Qua bài thơ, nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đời: hãy cảm thông và chia sẻ nỗi đau với những linh hồn bất hạnh…

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) – Bài số 3

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây đau xót và sung sướng, những phút giây mà ông thả hồn mình vào trong thơ những phút giây ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong môi tình chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Dây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Chi một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuôi của cô gái với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vó đẹp mận mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta chú ý hãy quan sát, tận hường vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nấng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ quê hương người con gái gợi mỞ Ở câu đầu đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lây những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng vàng buổi bình minh. Cái “nắng hàng cau

nắng mới lên” sao lại gợi nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Bất chợt ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và cháy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đẩu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hốt nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật đê rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẩn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ỏ chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh của vỏ đẹp mà nó càng tràn trề sự sống mơn mởn. Những tàn lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diên tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đôi với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Xem thêm:  Nghị luận ngắn về vấn đề nghiện game online

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm ngay cạnh bờ sông Dương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khố thơ đầu đã hé mở tình yêu tác giả chuyển sang tả cảnh sông, với niềm bâng khuâng, nỗi nhỞ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng.

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mảy đã gợi buồn vì nó trôi nối, lang thang thì nay lại càng buồn hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa nhau, không thể là bạn đồng hành, không thế gặp gỡ và sự xa cách của

nhà thơ với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong xa cách nhỞ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sông như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhặt, ảm đạm như màu khói. VỚI một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sông trong vòng đời tôi tăm, bê tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều Ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diên đạt thật tuyệt diệu thực đấy mà mộng đấy: Thuyền ai dậu bển sông trăng dó Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nôn thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hóa thành dòng sông trăng lung linh con thuyền khách đã hóa thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhỞ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huê mộng mơ. Tác giả đã lược bút, viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giông thế này. Một ánh trăng gắt gao, kỳ quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng dọng vàng khô.

Hay:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu

Dại gió dông về đề lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông, là trời đất, là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thế

khi vô tình, khi mê hoặc khi kinh hoàng.

Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:

Thuyền ai dậu bến sông trăng dó

Có chở trăng về kịp tối này’?

Vầng trăng ở dây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tứ hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không kịp về và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người còn đang sông và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách dường xa khách dường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở  đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khát khao yêu thương, nhưng nỗi đau kỷ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hy vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thây ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quí của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiên thi nhân không khỏi không nghi ngờ: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có dậm dà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ây. Những cô gái Huê kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm người con gái Huế, ông chi hỏi:

Ai biết tình ai có dậm dà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chi là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vần thôn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mỞ đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng dó” và kết thúc: “Ai biết tình ai có dậm dà? ” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Dây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp vồ cảnh và người của miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghẹ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc. Tình yêu trong ước mơ của con người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kỳ nhưng nó giản dị, trong sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức, vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mạc Tử) – Bài số 4

Đây thôn Vĩ Dạ là một cuộc trở về bằng tâm tưởng của Hàn Mặc Tử. Qua bức tranh tâm cảnh, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế với những yếu tô vừa thực vừa mộng. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương và con người của tác giả.

Từ nỗi nhớ đậm sâu, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh quê hương trong sáng, đậm màu sắc dân tộc ngay ỏ những câu thơ đầu.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Bài thơ được mở đầu bằng một lời mời gọi tha thiết của cô gái xứ Huế nơi làng quê Vĩ Đạ, nhưng ẩn đằng sau lời gọi mời ấy là sự trách móc nhẹ nhàng, kín đáo pha chút tình tứ của một lời trách yêu. “Sao anh không về” có lẽ lâu lắm rồi người ra đi không quay trở lại thì người ở quê nhà mới buông một lời trách cứ như vậy. Có lẽ người ở lại cũng đã đợi chờ người phương xa nhiều lắm, có đợi chờ thì mới biết là lâu, có lâu thì mới trách, và có thương thì mới giận hờn. Chắc là cỏ gái ấy và người xa quê tất phải có một môi thâm tình khắng khít nào đấy thì mới có thể nói như vậy được. Dù đó là lời mời gọi thiết tha, hay lời trách móc nhẹ nhàng thì cùng vẫn là lời của em, mà đã là lời của em thì tất nhiên là phải đậm tình của em rồi và chìm khuất đằng sau ấy có cả tình của anh nữa. Đấy là lời bộc bạch chân tình đằm thắm đượm một tình cảm mộc mạc mà chân thành, mà sâu sắc.

Xem thêm:  Phân tích nhân vật Hộ để làm rõ tính bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám

Làng quê Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái xanh tươi bốn mùa. Làng quê đẹp đẽ và thơ mộng ấy chính là cái cớ để cô gái mời chàng trai về thăm, thăm quê hay chính là thăm người? Chắc rằng là cả hai vì cảnh xứ Huế thì hữu tình mà con người lại hồn hậu, duyên dáng. Lời mời của cô gái cũng thật là kín đáo, vì cô chỉ bảo rằng “anh” về đê ngắm cảnh thiên nhiên thôi – cảnh đây trong trẻo, thơ mộng mà thắm đẫm tình người.

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thiên nhiên hiện lên qua mấy câu thơ mà ta ngỡ đó như một bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của cảnh Huê và cả con người Huế nữa. Hình ảnh “hàng cau” có lẽ cũng mang nhiều dụng ý của tác giả. Thường những khu vườn ở quê hương miền Trung hầu như lúc nào cũng không thể thiếu bóng dáng của những hàng cau thẳng tắp, nhưng sao trong vườn ấy có biết bao nhiêu hoa lá mà tác giả lại chỉ chọn hàng cau để nói đầu. Vậy hàng cau ở đây liệu có dính dáng gì đến cái duyên của lứa đôi chăng? Tất cả đều có thể lắm chứ! “Nắng mới lên” là cái nắng của một buổi bình minh đẹp trời, cái nắng trinh nguyên ban đầu, cái nắng làm tan đi những giọt sương đọng trên cành lá để đón chào một ngày mới bắt đầu. Mọi thứ ở buổi đầu đều mới, đều trinh nguyên, đều đẹp. Nắng buổi sớm không quá nóng để làm cho lòng con người gay gắt, không quá lạnh dể con người ta rét buốt, cái nắng buổi sớm luôn dịu dàng và quyến rũ. Nắng ngập không gian tràn lên những chiếc lá còn đẫm giọt sương đêm. Vườn xứ Huế được bao trùm bởi nắng mới trong sáng, tốt tươi, đầy nhựa sống. Tất cả đều tinh khiết, rực rỡ và đang vận động.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Lời thơ hồn nhiên như một tiếng reo ca “vườn ai mướt quá”, cảnh đẹp đến nỗi làm tác giả cũng sững sờ. Cảnh sắc tươi đẹp vẫn là cảm giác bao trùm đối với thi nhân. Cho dù đây là một bức tranh tâm cảnh (tác giả chỉ hình dung qua tầm trí của mình chứ lúc này ông không ở quê) nhưng dường như Hàn Mặc Tử cảm nhận được mọi thứ đang biểu hiện ra trước mặt mình rõ mồn một. “Vườn ai” vườn của ai đây? Có thể là vườn nhà anh, cũng có thể là vườn nhà em, mà cũng có thể là một khu vườn nào đây mà anh và em đã từng đi qua, khu vườn ấy bao giờ cũng dát ngọc, đang ở thời kì sung mãn lắm. Bao nhiêu sự xanh tươi, mơn mởn, non tơ được gợi lên trong một từ “mướt”. Lá thì ví “xanh như ngọc”, ắt hẳn là phải có bàn tay khéo léo chăm sóc của con người thì khu vườn mới giàu sự sống đến vậy. Những chiếc lá mướt đến nỗi như có ai đã lau chùi từng cánh. Như thế là vườn mướt đâu chỉ dựa vào sức sông tự nhiên của miền quê Vĩ Dạ mà có cả công sức con người. Câu thơ cuối của khổ thơ không thấp thoáng một bóng dáng khuynh thi mà hiện lên hình ảnh của cô gái có khuôn mặt đôn hậu, dịu dàng ẩn sau lá trúc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thường thì ở thôn quê trong mỗi vườn tược bao giờ cũng có hàng trúc. Lá trúc cũng là biểu hiện cái hồn của những làng quê Việt Nam. Khóm trúc gợi cho khu vườn sự dân dã, thanh tao. Người thiếu nữ hiện ra sau bức rèm trúc xanh tươi của thiên nhiên càng e ấp thẹn thừng và có vẻ bí ẩn. Cái vẻ đẹp bí ẩn bao giờ cũng gợi sự tò mò muôn khám phá, nó khác xa với cái đẹp hơ hớ của những cô gái thị thành, “mặt chữ điền” là mặt của đàn ông con trai, nhưng ở đây nó lại miêu tả vẻ đẹp của người thiếu nữ, vậy có gì không phù hợp chăng? Rõ ràng là không, bởi ngày xưa người ta quan niệm rằng khuôn mặt chữ điền là chỉ một cô gái đẹp, đẹp cả vẻ bề ngoài lẫn phẩm hạnh bên trong. Đó là một cô gái có tấm lòng nhân ái, phúc hậu, bao dung. Ca dao xưa cũng từng ca ngợi.

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.

Vậy nên “mặt chữ điền” là một khuôn mặt hiền lành, vuông vức, đầy đặn và phúc hậu. Câu thơ được cách điệu hóa mang ý nghĩa tượng trưng. Con người chợt hiện lên trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên. Con người và thiên nhiên như hài hòa vào nhau tạo nên một vẻ đẹp dịu dàng êm ái và thơ mộng.

Cảnh vật đang trong sáng tươi tắn bỗng trở nên chia lìa tan tác.

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Thiên nhiên gợi cảm giác buồn, chia phôi như cuộc tình Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc về sau. Câu thơ đầu của khổ tách ra làm hai nửa “Gió theo lối gió >< mây đường mây”. Gió mây thường sánh bước bên nhau, vậy mà giờ đây gió đã đi đường gió, mây đi đường mây, anh đường anh, em đường em thử hỏi không buồn sao được. Cảnh chuyển động theo nhịp điệu cô đơn, không gian mở ra chiều rộng mà tĩnh lặng vào chiều sâu. Dòng nước cũng biết buồn “buồn thiu” – một nỗi buồn ủ rũ thật khó diễn tả, nó lặng là dến, lặng là buồn. Dòng nước dường như cũng hiểu được’ tâm trạng hiu hắt trong lòng thi sĩ. Cái rung động nhẹ của hoa bắp cũng đủ để gợi một nỗi buồn lớn trong suy tư của nhà thơ. Mặc dầu vậy, tác giả không đắm chìm, âu sầu, buồn bã ngược lại rất lãng mạn, thơ mộng. “Thuyền ai”, một câu hỏi dường như mơ hồ mà đã được xác định ngầm. Câu thơ mang đậm tính chất ảo, nó không thực, không cụ thể như ở khổ thơ đầu nữa. “Đậu bến” chứ không là cập bến. “Đậu” mang ý nghĩa tạm bợ, đậu rồi lại bay, lại đi đấy thôi. Con thuyền không đậu ở một bến nào mà lại đậu ở “bến sông trăng” một cái bến của tưởng tượng, của hư vô, huyền ảo. Tác giả bắt đầu lạc sâu vào cõi mộng. Nỗi buồn và cô đơn khiến cho Hàn Mặc Tử đã lạc lôi, đi vào mộng ảo. Hình ảnh con thuyền dậu trên bến trăng, đẹp mà huyễn hoặc đến lạ kì. “Có chở trăng về kịp tối nay”, con thuyền chở trăng thì chỉ có trong ảo ảnh, làm gì có thực ở đời, nhưng câu thơ vẫn gợi cảm giác tò mò, khám phá. Tác giả hỏi mà như sợ rằng sẽ không chở kịp về được thì bao nhiêu trăng ấy tan ra – giấc mộng của thi nhân cũng sẽ biến mất. Dù thực dù mộng đoạn thơ vẫn chứa đựng đầy ắp nỗi buồn của tác giả. Và cảnh vật càng về cuối càng trở nên sương khói, xa xăm huyền ảo.

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.

Sự nồng nàn tha thiết được thể hiện ở điệu thơ giục giã “mơ khách đường xa khách đường xa”. Với nghệ thuật điệp từ đã bộc lộ niềm khao khát được gần gùi con người xứ Huế của nhà thơ. Tinh của thi nhân với thiếu nữ thật đằm thắm mà hình ảnh thì mộng mị bởi vì chỉ là “mơ” thôi. Ước mơ ấy có bao giờ trở thành hiện thực? Hình ảnh của cô gái xuất hiện mờ mờ, ảo ảo. Tất cả đều nhạt nhòa, nhìn mãi mà không ra, càng nhìn càng xa càng mờ. “Ớ đây” là ở đâu vậy? Nơi anh ở hay nơi em ở? Là trong ảnh hay giữa đời thường? Dù là ở đâu thì hình ảnh của em sương khói cũng đã làm mờ nhòa đi rồi. Sương khói có thể là sương khói thật, cũng có thể là sương khói của thời gian đã xóa đi mọi thứ, nó không còn rõ ràng, chân thực như trước nữa. Thời gian trôi đi cuốn theo bao điều đổi thay, chính vậy mà câu thơ cuối là một câu hỏi đầy thắc thỏm nghi hoặc.

Ai biết tình ai có đậm đà.

Câu thơ gợi một nỗi nhớ, một kí ức bâng khuâng, xa xôi và mờ ảo. Hai từ “ai” cùng xuất hiện trong một dòng thơ nhưng “ai” đầu dùng để hỏi còn “ai” sau là để chỉ người – ai mà biết được tình của ai đó liệu còn đậm đà nữa không? Xa xôi thế, cách trở thế thì cũng có quyền để nghi ngờ chứ.

Câu thơ mở đầu là một lời trách, câu thơ khép bài cũng lại là một lời trách nhưng không phải trách yêu nữa mà đã có phần hoài nghi, nó không còn chần thực, cụ thể, rõ ràng nữa mà đã rơi hẳn vào cõi mộng. Tuy vậy, chính câu thơ cuối đã nói lên biết bao tình cảm dẹt dào, nồng nàn của người hỏi, chính câu hỏi tự nó thể hiện khát khao cho người tình của mình vẫn thủy chung, vẫn đậm đà. Và đó cũng là ước vọng muôn đời về tình yêu của Hàn Mặc Tử.

Với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp tượng trưng lãng mạn Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giàu sức sống lay động. Nhà thơ đã làm một cuộc trở về trong tâm tưởng bằng tất cả tâ’m lòng yêu mến quê hương, thiên nhiên và con người xứ Huế. Bài thơ như một bức tranh vừa thực vừa mộng chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm của người cầm bút, của một cort người bất hạnh mà đầy tài năng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình nhưng lại mang máu thịt của quê hương xứ sở và đậm hồn dân tộc.

Thanh Bình tổng hợp

Prev Article Next Article

Video liên quan

Chủ đề