Thôn Ngưu là gì

Ý nghĩa của từ Khí thôn Ngưu đẩu là gì:

Khí thôn Ngưu đẩu nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 2 ý nghĩa của từ Khí thôn Ngưu đẩu. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa Khí thôn Ngưu đẩu mình


2

Thôn Ngưu là gì
  1
Thôn Ngưu là gì


Khí mạnh nuốt sao Ngưu, sao ĐẩuSách Thi tử có câu: "Giống hổ tuy chưa thành vằn đã có sức nuốt được cả trâu."Đỗ Phủ: "Tiểu nhi ngũ tuế khí thôn ngưu" ( [..]


2

Thôn Ngưu là gì
  1
Thôn Ngưu là gì


Khí mạnh nuốt sao Ngưu, sao Đẩu Sách Thi tử có câu: "Giống hổ tuy chưa thành vằn đã có sức nuốt được cả trâu." Đỗ Phủ: "Tiểu nhi ngũ tuế khí thôn ngưu" (Trẻ con mới 5 tuổi đã có khí mạnh có thể nuốt được trâu)

Nguồn: informatik.uni-leipzig.de



Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” trong tác phẩm Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão có ý nghĩa gì?


A.

Diễn tả chân thực sự đông đảo và chí căm hờn của đoàn quân.

B.

Nói phóng đại về sự nghiệp và sức mạnh của đội quân chính nghĩa.

C.

Đề cao vai trò, tư thế của vị tướng lĩnh trước ba quân.

D.

Vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất vừa khái quát hóa được sức mạnh về tinh thần của đội quân.

Hình ảnh con người hiện lên như thế nào qua câu thơ đầu bài thơ Tỏ lòng?

Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” được hiểu như thế nào?

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu

Vũ Hầu ở đây là ai?

Đáp án nào nêu đúng nhất lí do "thẹn" của Pham Ngũ Lão?

Giọng điệu của hai câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng:

Dàn ý số 1

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão: Là người văn võ toàn tài, để lại cho đời hai tác phẩm Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.

– Giới thiệu bài thơ Tỏ lòng:

+ Ra đời sau những chiến thắng vẻ vang của quân và dân nhà Trần đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược.

+ Bài thơ làm sống dậy khí thế của thời đại với niềm vui, niềm tự hào. Đồng thời cũng thể hiện ý thức làm người và chí hướng lập công của nam nhi.

II. Thân bài

1. Hào khí Đông A qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân đội nhà Trần.

a. Hình tượng trang nam nhi nhà Trần (câu 1)

– Tư thế “hoành sóc”: Múa giáo

+ Bản dịch nghĩa dịch “cắp ngang ngọn giáo” diễn đạt sự vững trãi, kiên cường, uy dũng, tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính.

+ Bản dịch thơ dịch thành “múa giáo”: Thiên về phô trương biểu diễn, không thể hiện sức mạnh nội lực vì vậy không truyền tải được ý nghĩa hình ảnh thơ trong nguyên tác.

– Không gian “giang sơn”: Không chỉ là sông núi mà còn chỉ non sông, đất nước, tổ quốc.

→ Không gian vũ trụ rộng lớn để nam nhi nói chí tỏ lòng

– Thời gian “kháp kỉ thu”: mấy thu – mấy năm

→ Thời gian trải dài, thể hiện quá trình bền bỉ chiến đấu lâu dài.

⇒ Chính thời gian, không gian đã nâng cao tầm vóc của người anh hùng vệ quốc, họ trở nên lớn lao kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, trời đất, bất chấp sự tàn phá của thời gian họ vẫn luôn bền bỉ cùng nhiệm vụ.

b. Sức mạnh của quân đội nhà Trần (Câu 2)

– “Tam quân”: Ba quân – tiền quân, trung quân, hậu quân. Hình ảnh chỉ quân đội nhà Trần.

Sức mạnh của quân đội nhà Trần: “tì hổ”, khí thôn ngưu”

+ Quân đội được so sánh với “tì hổ” – hổ báo: loài mãnh thú chốn rừng sâu qua đó cụ thể hóa sức mạnh và sự dũng mãnh, khí thế hừng hực làm chủ của quân đội nhà Trần.

+ Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu”: Là biểu tượng chỉ người trẻ tuổi mà khí phách anh hùng.

→ Với các hình ảnh so sánh, phóng đại, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca, tự hào về sức mạnh, khí thế của quân đội nhà Trần đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Tiểu kết:

– Nội dung:

+ Hai câu thơ đầu làm sống dậy thời đại nhà Trần với hào khí Đông A vang núi dậy sông bằng hình ảnh của những người anh hùng vệ quốc tư thế hiên ngang, kiêu dũng tầm vóc sánh ngang tầm vũ trụ cùng lực lượng quân đội hùng hậu khí thế ngút trời.

+ Ẩn sau đó là niềm tự hào của tác giả về sức mạnh và chiến công của dân tộc. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước

– Nghệ thuật:

+ Bút pháp gợi, không tả, kể chi tiết

+ Sử dụng các hình ảnh ước lệ: Kháp kỉ thu, tì hổ, khí thôn ngưu

+ Sử dụng các biện pháp so sánh, ước lệ độc đáo

2. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão

– Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi khi sinh ra đã phải mang trong mình.

+ Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là hoàn trả món nợ.

+ Liên hệ với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Họ đều là những người trăn trở về món nợ công danh.

– Phạm Ngũ Lão quan niệm: Thân nam nhi mà không lập được công danh sự nghiệp thì “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

+ Thẹn: Tự cảm thấy mình chưa bằng người khác, cảm giác thua kém, xấu hổ

+ Vũ Hầu: Tức Khổng Minh là tấm gương về tinh thần tận tâm tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh đến hơi thở cuối cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế.

+ Phạm Ngũ Lão: Con người từ thuở hàn vi vì lo việc nước quên sự nguy hiểm của mình, hết lòng phục vụ nhà Trần, được phong tới chức Điện Súy, tước Nội Hầu. Vậy mà ông vẫn cảm thấy hổ thẹn.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một nhân cách lớn. Thể hiện khát khao, hoài bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các trang nam tử đời Trần.

⇒ Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hoài bão, biết vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách nhiệm với cá nhân và cộng đồng.

Tiểu kết:

– Nội dung: Hai câu thơ thể hiện nỗi thẹn cao cả của một nhân cách lớn. Qua đó thể hiện tinh thần yêu nước, khích lệ ý chí lập công lập danh của nam nhi đời Trần.

– Nghệ thuật: Sử dụng điển cố “thuyết Vũ Hầu”, bút pháp gợi kết hợp với bút pháp biểu cảm.

III. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Liên hệ với những bài thơ cùng chủ đề yêu nước như Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Cảm hoài (Đặng Dung),…

Dàn ý số 2

I. Mở bài

Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi,

II. Thân bài

 “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi. Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người anh hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người anh hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn.

III. Kết bài

Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.

Dàn ý số 3

I. Mở bài

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông.

II. Thân bài

Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ quen thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ" cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế dũng mãnh, kiên cường. Cụm từ "khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường đến mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế ấy sôi sục tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà.

III. Kết bài

Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.

Dàn ý số 4

I. Mở bài

Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang, dũng mãnh “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phô trương, biểu diễn, không thể hiện được tư thế anh hùng, hiên ngang của người tướng sĩ.

II. Thân bài

Đồng thời không gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng bao la, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong không gian ấy con người sẽ trở nên bé nhỏ, chìm khuất trong không gian vũ trụ bao la, nhưng ngược lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm trọn cả non sông đất nước. Tư thế ấy còn cho thấy tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng xả thân để bảo vệ biên cương, lãnh thổ toàn vẹn. Không chỉ vậy, thời gian được nhắc đến ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời gian dài, điều ấy còn khẳng định ý chí, quyết tâm bền bỉ của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc hiên ngang, vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.

Câu thơ thứ hai tái hiện lại sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân” “tì hổ” “khí thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội nhà Trần bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Còn tì hổ để nói về sức mạnh to lớn như hổ báo của quân đội, biện pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định sự dũng mạnh, nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. “Khí thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách, cách thứ nhất tức là khí thế nuốt trôi trâu, nhưng cũng có thể hiểu khí thế át sao Ngưu. Dù hiểu theo cách nào cũng đều thấy được khí thế, sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái hiện sinh động, chân thực vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần với sức mạnh vô song.

III. Kết bài

Qua đó ta còn cảm nhận được hào khí oanh liệt của thời đại mà dân tộc bừng bừng khí thế, quyết tâm đánh giặc cứu nước.

Dàn ý số 5

I. Mở bài

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”

II. Thân bài

Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khéo léo dựng lên một bối cảnh không gian và thời gian rất đặc biệt, là một cái phông nền độc đáo để từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh không gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ sông núi, từ đó mở ra trước mắt người đọc một không gian vô cùng bao la, rộng lớn và khoáng đạt, đó là không gian của cả một quốc gia, dân tộc.

Bên cạnh không gian, thì bối cảnh thời gian được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời gian ấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời gian dài lâu, có bề dày lịch sử bền vững. Trên cái nền không gian, thời gian dài rộng ấy lại nổi bật lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ non sông đã qua mấy thu.

Tầm vóc của con người nổi bật thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời gian, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc biệt tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, bền bỉ, anh dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ đất nước như những vị thần.

III. Kết bài

Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông – Nguyên mượn cớ mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tế âm mưu của chúng là hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngại, quân đội nhà Trần quyết lật đổ âm mưu của giặc, trong sự chuẩn bị bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng lĩnh tài giỏi ra trấn giữ