Thăng long là ai

Người xưa thường tính 25 năm là một thế hệ. Kể từ ngày Vua Lý Thái Tổ định đô ở Thăng Long thì đã qua hơn 40 thế hệ! Những con số thường khô khan. Nhưng khi đem ra so với đời người, hay rộng hơn, với mỗi gia tộc, thì mới thấy lịch sử một quốc gia, một thành phố kỳ vĩ thế nào. Nhìn xa hơn nữa vào quá khứ, từng có lúc những vùng đất khác nhau của Hà Nội được chọn làm kinh đô. Là Cổ Loa, nơi hai lần giữ vai trò kinh đô dưới thời Thục Phán An Dương Vương, rồi Ngô Quyền - vị Tổ Trung hưng đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc. Là Mê Linh khi Hai Bà Trưng giành được độc lập trong thời gian ngắn ngủi… Những dấu mốc ấy có thể đem đến cho Hà Nội hôm nay một quá khứ dày dặn hơn, nhưng nhân dân đã chọn năm 1010, khi vị vua khai sáng nhà Lý ban Thiên đô chiếu, dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La, đổi thành Thăng Long là cột mốc son cho sự ra đời, phát triển của đô thị đặc biệt này. 

Lịch sử thế giới cho thấy, như một quy luật, quyết định dời đô thường được đưa ra khi những nhà lãnh đạo không hài lòng với thực tại. Hoa Lư ngày ấy, địa thế hiểm yếu, lợi cho phòng thủ. Nhưng thế đất chật hẹp, không tương xứng với hoài bão một vị minh quân. Theo cách nói hiện đại, kinh đô mới thể hiện một nhận thức mới, một tầm nhìn mới về sự phát triển của quốc gia. Lịch sử đã chứng minh đó là quyết định đúng đắn, là khởi đầu cho sự phát triển mạnh mẽ của Đại Việt.

Hơn nghìn năm dằng dặc đã qua, những đền đài, lầu gác và cả “tứ đại khí” triều Lý đều vùi trong lòng đất hoặc chỉ còn được ghi dấu qua sách vở. Nhưng có những giá trị còn mãi với thời gian - đó là nhà Lý “định vị” Thăng Long mang sứ mệnh kinh đô. Mang sứ mệnh kinh đô, Thăng Long - Hà Nội là niềm tin, hy vọng của cả dân tộc trong gian khó. Mang sứ mệnh kinh đô, Thăng Long luôn là nơi hiền tài tụ hội. Đấy không chỉ là những danh nhân văn hóa, là những học giả uyên thâm; ngay khu phố cổ, “trụ” lại được ở kinh đô, nói theo cách của Phó Giáo sư Nguyễn Thừa Hỷ - cũng phải tài hoa hơn người. Chừng ấy năm tháng người tài luôn tụ hội. Văn hóa Thăng Long - Kẻ Chợ như một mảnh đất được phù sa bồi tụ rồi chắt lọc thành một thứ “văn hóa mới”, tiêu biểu cho những gì đẹp đẽ nhất của dân tộc. 

2 Hà Nội hôm nay thừa kế một di sản đồ sộ từ cha ông. Khi nói về di sản Thăng Long - Hà Nội, một cán bộ ngành văn hóa đã nói rằng: “Nếu mỗi năm, một di tích Hà Nội chi vài chục triệu đồng chỉ để quét vôi thôi, thì đó cũng là con số khổng lồ”. Cũng như thế, là khối làng nghề, là những di sản văn hóa phi vật thể. Lĩnh vực nào, Hà Nội cũng “đậm đặc”.

Thăng long là ai
Bích Câu Đạo quán trở thành một địa chỉ tổ chức các canh hát ca trù. Ảnh: Phương Hoa 

Từ lâu, Hà Nội đã có những bước chuyển về nhận thức. Câu chuyện có thể bắt đầu từ chính nơi giữ hồn cốt văn hóa Thăng Long - phố cổ Hà thành. Hơn chục năm nay, tại đình Kim Ngân (phố Hàng Bạc) hay đền Quán Đế (phố Hàng Buồm), những canh hát ca trù được tổ chức tuần đôi ba bận. Ca trù từng có lúc tưởng mai một. Ấy vậy mà từ trước khi được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp, khách tây, khách ta đều có thể được thưởng thức những canh hát ca trù ở trung tâm phố cổ. Thu nhập từ ca trù không phải là nhiều. Nhưng cũng góp phần giúp CLB Ca trù Hà Nội, Giáo phường Ca trù Thăng Long nuôi dưỡng tình yêu cho các thế hệ sau này. Bây giờ thì nghe những canh hát ca trù, đã trở nên thân quen, được đưa vào lịch trình của các tua du lịch. Tương tự, người dân làng Đào Thục (xã Thụy Lôi, huyện Đông Anh) cũng đang biến nghệ thuật múa rối nước quê mình “đẻ ra tiền”. Trưởng phường Múa rối nước Đào Thục Nguyễn Thế Nghị chia sẻ: “Kể cả một vài khách lẻ thì phường vẫn diễn. Khi diễn cho khách lẻ thì các tích trò được “tái cơ cấu” sao cho vẫn hấp dẫn mà đỡ tốn nhân lực nhất”. 

Hà Nội định hình du lịch di sản là thế mạnh. Những di tích, di sản như: Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chùa Trấn Quốc, chùa Hương… từ lâu đều đã tham gia vào công cuộc “phát triển kinh tế”. 

Với di sản làng nghề, khối làng nghề không chỉ làm nhiệm vụ bảo tồn, mà còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Một điển hình là làng mây tre đan Phú Vinh (huyện Chương Mỹ). Nhiều năm nay, mây tre đan Phú Vinh đã vượt lũy tre làng vươn ra thế giới. Mây tre xuất hiện trong các phòng khách sang trọng, với những lọ hoa, bình hoa, chụp đèn và cả những bức tranh phong cảnh, cỏ cây... Mây tre ứng dụng cả vào thời trang, với túi xách, khuyên tai, vòng, lắc, khung gương… Mỗi chủng loại sản phẩm lại có hàng trăm mẫu mã. Vốn là làng nghề chủ yếu đan lát dụng cụ lao động, đồ dùng gia đình, nhưng người làng Phú Vinh đã sáng tạo để thích ứng với cuộc sống. Những dòng sản phẩm mới ra đời giàu tính nghệ thuật trên nền của lối đan, cách thức xử lý nguyên vật liệu… kế thừa từ truyền thống cha ông. 

3 Ngay trước thềm thời điểm Hà Nội bước vào tuổi 1010, năm 2019, Hà Nội được UNESCO ghi danh vào Mạng lưới các Thành phố sáng tạo (TPST) trên thế giới. Lĩnh vực Hà Nội lựa chọn là thiết kế sáng tạo. Để tham gia Mạng lưới các TPST, các thành viên phải phát huy các nguồn lực văn hóa, sáng tạo văn hóa làm nền tảng cho quá trình phát triển đô thị bền vững. Thủ đô đang hội nhập ngày một thành công hơn vào dòng chảy của nhân loại. 

Trước đó 20 năm, Hà Nội được vinh danh là Thành phố Vì hòa bình. 

Những khái niệm này “mới mà không mới”. Bởi Hà Nội đã và đang sử dụng các nguồn lực văn hóa và sáng tạo văn hóa để phục vụ cho quá trình phát triển. Cùng với khai thác các giá trị di sản, những năm gần đây Hà Nội có thêm nguồn lực mới là hàng trăm không gian sáng tạo - nơi kế thừa những giá trị truyền thống, tạo ra những giá trị mới, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội. Song để thật sự trở thành một TPST, như vậy là chưa đủ. Cần phải định vị lại. Văn hóa, sáng tạo phải được đặt ở vị trí cốt lõi của quá trình phát triển. 

Bà Phạm Thị Thanh Hường, đại diện văn phòng UNESCO tại Việt Nam đã chia sẻ, trên thế giới, đã có hàng trăm thành phố thực hiện bước chuyển đổi từ công nghiệp nặng sang công nghiệp sáng tạo. Gia nhập Mạng lưới các TPST chính là thời cơ để Hà Nội tiếp bước những thành phố ấy. Dẫu biết rằng, thực hiện bước chuyển từ một nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào công nghiệp sản xuất; công nghiệp văn hóa mới ở những viên gạch đầu của quá trình xây dựng, các không gian sáng tạo phần nhiều còn nhỏ yếu; khối kinh tế làng nghề chưa phát huy tiềm năng, còn là một trong những nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng… Song, Hà Nội có lợi thế di sản to lớn mà hiếm thành phố nào có được, cộng với lợi thế nhiệt huyết tuổi trẻ - những công dân sáng tạo và gần đây là những nỗ lực của các cấp, ngành chính quyền.

1010 năm trước, Lý Thái Tổ dời đô. Để làm được điều đó, chỉ có tầm nhìn, tri thức là không đủ. Cần phải có ý chí, quyết tâm, bản lĩnh hơn người, dám rũ bỏ những gì quen thuộc đã được thừa nhận, hướng tới những điều mới mẻ, chưa thành hình hài. TPST tạo hôm nay cũng là một hành trình mới mẻ, thậm chí chưa thể định hình rõ ràng. Nhưng mục tiêu của TPST là phát huy nguồn lực văn hóa, sáng tạo văn hóa với phát triển bền vững - hiểu một cách giản dị là nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Thật lạ kỳ khi có nhiều điểm tương đồng giữa nghìn năm trước với hôm nay. Năm xưa Lý Thái Tổ đã viết mục đích dời đô là để “vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Khó khăn là tất yếu. Nhưng nhắc lại chuyện nghìn xưa, để chúng ta suy nghĩ và hành động, cho nghìn sau…

Thăng Long, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, được ghi trong Đại Việt sử ký, không chỉ là “Rồng bay lên”, mà còn có nghĩa “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đây là một tên gọi hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy (581-618), Đường (618-907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:


Tên chính quy Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

1. Long Đỗ. - Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị (tức Sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

2. Tống Bình. - Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

3. Đại La. - Đại La hay Đại La Thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm Thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi Vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La. Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “... Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất...” (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241).



4. Thăng Long.
- Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”. Với cách viết thứ nhất, chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích (từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”). Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất. Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay) trong ánh Mặt trời lên cao”. Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”. Có điều đáng chú ý là các từ điển thông dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải (Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất bản sau có khác không), không thấy ghi từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển (tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208), ở chữ “Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng là danh từ chung và được giảng là “rồng bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ là một địa danh hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

5. Đông Đô. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô” (Toàn thư Sđd - tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô” (Cương mục - Tập 2, H. 1998, tr.700).

6. Đông Quan. - Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12 năm Mậu Tý (1408) Giản Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh Thành Đông Quan thì chắc phá được chúng” (Toàn thư , Sđd - Tập 2, tr. 244).

7. Đông Kinh. - Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427) Vua (tức Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 Vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là Thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông Kinh” (Toàn thư , Sđd. Tập 2, tr. 293).

8. Bắc Thành. - Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802), vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế) nên gọi Thăng Long là Bắc Thành (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - 11.1979, tr.12).

9. Thăng Long. - (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi Kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong dân gian cả nước, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “Long” là Rồng thành chữ “Long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà Vua, nay Vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” (Trần Huy Liệu - Chủ biên. Lịch sử Thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).

Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ Hoàng thành cũ, vì Vua không đóng đô ở Thăng Long, mà Hoàng thành Thăng Long lại rộng lớn quá.


10. Hà Nội
- So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử (dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới), thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa...

Trung văn đại từ điển, tập 19 (Đài Bắc 1967, tr.103) cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán (202 Tr.CN - 220 S.CN) nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên (hạng Vũ Kỷ), kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”. Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị. Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ (thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức), cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử (Lương Huệ Vương, thượng, 3) “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”. Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.


Tên không chính quy Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ Thành Thăng Long - Hà Nội.

1. Trường An - (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 Tr. CN - 8 S.CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ Kinh đô. Từ đó, cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ Kinh đô Thăng Long.

Thí dụ: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài. Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ Kinh đô Thăng Long.

2. Phượng Thành (Phụng Thành)

Vào đầu Thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng: Phượng Thành xuân sắc phú (Tả cảnh sắc mùa Xuân ở Thành Phượng). Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa Xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ Thành Thăng Long.

3. Long Biên. - Là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều (Thế kỷ III, IV, V, và VI) đóng trụ sở ở Giao Châu (tên nước ta thời ấy). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877), ghi lại bài thơ của Vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

Long Biên tài hướng Phượng Thành hồi Triệu đối do hy vĩnh biệt thôi! Dịch nghĩa: Nhớ người vừa tự Thành Long Biên về tới Phượng Thành Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay. Thành Long Biên ở đây, Vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877, Vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

4. Long thành. - Là tên gọi tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của Vua Quang Trung. Sau chiến thắng Xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long Thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long Thành).

5. Hà Thành. - Là tên gọi tắt của Thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai(?)...

6. Hoàng Diệu. - Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đôi khi trong các báo chí của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội. (Thành Hoàng Diệu).

Ngoài ra, trong cách nói dân gian còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ); Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh Đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ Kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). hoặc trong tác phẩm: Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến); Và đôi khi chỉ dùng một từ như “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ Kinh đô Thăng Long. Loại tên không chính quy của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều, được người đời sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây chưa hết...

Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long