Tế bào biểu mô vảy là gì năm 2024

Ung thư hầu họng đề cập đến ung thư amidan, đáy lưỡi và một phần ba sau của lưỡi, vòm miệng mềm, thành sau và thành bên của họng. Ung thư biểu mô tế bào vẩy chiếm hơn 95% ung thư họng miệng. Thuốc lá và rượu là những yếu tố nguy cơ chính. Vai trò của nhiễm vi rút gây u nhú ở người (papillomavirus: HPV) là một yếu tố nguy cơ đang ngày càng gia tăng. Các triệu chứng bao gồm đau họng và/hoặc khó nuốt. Điều trị bằng xạ trị, hóa trị hoặc cả hai, nhưng phẫu thuật cắt bỏ trước thường được sử dụng nhiều hơn. Tỷ lệ sống thêm cao hơn nhiều ở những bệnh nhân HPV dương tính.

Giống như hầu hết các bệnh ung thư ở đầu cổ, ung thư họng miệng phổ biến hơn ở nam giới lớn tuổi, với tuổi trung bình là 61. Thuốc lá và rượu vẫn là những yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư hầu họng. Bệnh nhân hút thuốc nhiều hơn 1,5 bao/ngày có nguy cơ ung thư gấp 3 lần và bệnh nhân uống 4 ly/ngày có nguy cơ tăng gấp 7 lần. Những người vừa uống rượu, vừa hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư họng miệng họng gấp 30 lần.

Các triệu chứng ung thư hầu họng hơi khác nhau tùy thuộc vào vị trí phụ, nhưng thông thường bệnh nhân có biểu hiện đau họng, khó nuốt, nuốt đau, loạn vận ngôn và đau tai. Khối ở cổ, thường là nang, là triệu chứng thường gặp của bệnh nhân bị ung thư họng miệng. Do các triệu chứng của ung thư hầu họng giống với triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên thông thường, nên bệnh nhân thường đến khám bác sĩ chuyên khoa muộn sau nhiều tháng.

  • Nội soi thanh quản
  • Mổ nội soi và sinh thiết
  • Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh để chẩn đoán giai đoạn

Tất cả các bệnh nhân phải được làm nội soi thanh quản trực tiếp và sinh thiết trước khi bắt đầu điều trị để đánh giá tổn thương ban đầu và tìm các tổn thương thứ phát. Bệnh nhân chẩn đoán ung thư thường chụp CT cổ có tiêm thuốc cản quang và hầu hết các bác sĩ lâm sàng thường cho chụp PET vùng cổ và ngực.

Chẩn đoán HPV DNA dương tính, được xác định bằng phản ứng chuỗi polymerase, là chẩn đoán của HPV. Nhuộm hóa mô miễn dịch cho p16 (một loại protein nội bào có trong hầu hết các loại ung thư dương tính với HPV nhưng cũng có trong một số loại ung thư âm tính HPV) được sử dụng để xác định mối liên quan giữa HPV.

Các tiêu chuẩn phân loại của ung thư vòm họng liên quan đến HPV thường liên quan đến sự xuất hiện của hạch bạch huyết và tiên lượng tốt hơn các khối u này so với các khối u âm tính. (Xem bảng và .)

Tỷ lệ sống sót chung 5 năm ở bệnh nhân bị ung thư hầu họng là khoảng 60%. Tuy nhiên, tiên lượng thay đổi tùy theo nguyên nhân. Bệnh nhân có HPV dương tính có tỷ lệ sống thêm 5 năm > 75% (và tỷ lệ sống thêm là 3 năm gần 90%), trong khi các bệnh nhân HPV âm tính có tỷ lệ sống thêm 5 năm < 50%. Tỷ lệ sống sót cao hơn với ung thư HPV là do sinh học khối u thuận lợi và gặp ở dân số trẻ khỏe mạnh hơn. Biểu hiện cao của p16 dường như cải thiện tiên lượng cho cả hai khối u HPV dương tính và HPV âm tính.

  • Phẫu thuật, điều trị bằng laser vi phẫu qua đường miệng ngày càng phổ biến
  • Xạ trị, có hoặc không có hoá trị liệu

Phẫu thuật được sử dụng làm phương pháp điều trị chính của ung thư hầu họng, nhiều hơn so với trước đây. Vi phẫu thuật bằng tia laser qua đường miệng (TLM) ngày càng được sử dụng phổ biến để cắt bỏ khối u của amidan và ung thư đáy lưỡi, giúp tránh được các tàn tật của phẫu thuật mở. Phẫu thuật bằng robot qua đường miệng (TORS) là một phương pháp ngày càng phổ biến trong điều trị các tổn thương họng miệng. Trong TORS, một robot phẫu thuật có nhiều cánh tay thích hợp, được điều khiển bởi bác sĩ phẫu thuật tại bàn điều khiển. Các cánh tay của robot và một camera nội soi được đưa vào khoang miệng của bệnh nhân (được mở bằng một cái banh giữ). Phẫu thuật robot cho phép quan sát tốt hơn các cấu trúc và gây ra ít biến chứng so với phẫu thuật mở. Tuy nhiên, các chỉ định sử dụng TORS chưa được xác định rõ ràng. Khi TORS được sử dụng trên những bệnh nhân có khối u giai đoạn tiến triển hơn, xạ trị sau phẫu thuật hoặc hóa trị thường được thực hiện.

Xạ trị, đôi khi kết hợp với hóa trị (chemoradiation), có thể được sử dụng làm trị liệu ban đầu hoặc sau phẫu thuật. Theo truyền thống, xạ trị đã được sử dụng cho ung thư giai đoạn sớm và hóa trị liệu được sử dụng cho ung thư gia đoạn tiến triển. Xạ trị điều biến liều (IMRT) ngày càng được sử dụng phổ biến như là một cách để bảo vệ các mô lành xung quanh và giảm các tác dụng phụ lâu dài.

Vì họng miệng giàu tổ chức lympho, do đó di cẳn hạch lympho ở cổ diễn ra phổ biến và cần phải xem xét kỹ lưỡng với tất cả các bệnh nhân mắc ung thư họng miệng. Nếu di căn hạch bạch huyết vùng cổ không giải quyết được sau khi xạ trị vùng cổ hoặc hoá xạ trị, thì việc vét hạch cổ sau điều trị được cho phép.

Điều trị là như nhau bất kể tình trạng HIV. Điều trị bổ sung lại đối với các khối u liên quan đến HPV đang được nghiên cứu để xem liệu các phương pháp điều trị ít gây hại có thể đạt được hiệu quả điều trị bệnh hay không.

  • Hầu hết các trường hợp ung thư họng miệng là do nhiễm virut papilloma ở người (HPV).
  • Các triệu chứng của ung thư vòm họng phụ thuộc vào vị trí của khối u; khối ở cổ là một triệu chứng phổ biến.
  • Chẩn đoán ung thư hầu họng bằng nội soi thanh quản, nội soi phẫu thuật và các nghiên cứu hình ảnh để phân giai đoạn.
  • Điều trị ung thư vòm họng bằng phẫu thuật bằng laser vi phẫu hoặc phẫu thuật bằng robot khi có thể là phương án thay thế cho phẫu thuật mở.
  • Sử dụng liệu pháp bức xạ, đôi khi kết hợp với hóa trị liệu cho các bệnh ung thư tiến triển, như là phương pháp điều trị chính hoặc sau phẫu thuật.

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Tế bào biểu mô (+) là gì?

Tế bào biểu mô nhận chất dinh dưỡng thông qua thẩm thấu từ màng đáy, không có mạch máu nuôi dưỡng; Tế bào biểu mô là loại mô có khả năng tái tạo nhanh và mạnh; Lớp biểu mô có các nhiệm vụ như bảo vệ mô liên kết bên dưới, hấp thu, chế tiết, vận chuyển các chất...

Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy là gì?

Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy là một tiểu phần của kháng nguyên khối u TA‐4 được mô tả lần đầu tiên bởi Kato và Torigoe vào năm 1977, lấy từ mô ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung, là một glycoprotein có trọng lượng phân tử 48 kDa và bao gồm ít nhất 14 tiểu phần, có thời gian bán hủy trong máu là khoảng 2,2 ...

Ung thư biểu mô tuyến phổi sống được bao lâu?

Ung thư phổi nói chung và ung thư biểu mô tuyến phổi nói riêng có khả năng gây tử vong cao với: Tỷ lệ sống sót chung sau 5 năm là trong khoảng từ 12 đến 15%. Đối với ung thư phổi giai đoạn đầu, tỷ lệ sống sót sau 5 năm trong khoảng từ 70-85%. Nếu ung thư di căn xa, khả năng sống sót sau 5 năm ít hơn 5%.

Tế bào biểu mô gái là gì?

Khái niệm tế bào gai ly gai: là những tế bào biểu mô hình tròn, kích thước lớn, nhân to tròn chiếm gần 2/3 tế bào, viền nhân và viền màng tế bào rõ, nguyên sinh chất bắt màu bazơ, tạo thành vòng sáng halo quanh nhân.

Chủ đề