Tại sao ta hoà hoãn với tưởng

a.                 Hoàn cảnh lịch sử

Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết tại Trùng Khánh. Theo Hiệp ước này, Tưởng nhường cho Pháp được quyền đem quân thay quân đội Tưởng ở miền Bắc nước ta với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Đổi lại, Pháp trả cho Tưởng các tô giới của Pháp ở Trung Quốc và đường xe lửa Vân Nam cũng như hàng hoá của Tưởng qua cảng Hải Phòng được miễn thuế. Hiệp ước Trùng Khánh giữa Tưởng và Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn: hoặc là cầm vũ khí kháng chiến chống Pháp không cho chúng đặt chân lên miền Bắc; hoặc là hoà hoãn với Pháp để gạt Tưởng và tranh thủ thời gian củng cố lực lượng.

Đứng trước thời khắc gay go, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã ra quyết sách lịch sử, sáng suốt: Hòa để tiến. Ngày 6-3-46, Chính phủ ta đã ký với đại biểu Pháp ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ.

b.                 Ta phải hòa với Pháp vì:

+ Ta tránh được tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều kẻ thù. Do Pháp và Tưởng bắt tay cấu kết với nhau chống lại ta, ký Hiệp ước Hoa Pháp (2/1946), theo đó quân Pháp ra Bắc để quân Tưởng rút về nước. Trong tình hình đó, nếu ta đánh Pháp ở miền Bắc khi quân Tưởng chưa rút về nước thì Tưởng sẽ đứng về Pháp đánh lại ta. Nếu hòa hoãn với Pháp ta chẳng những tránh được cuộc chiến đấu bất lợi mà còn thực hiện được mục tiêu đuổi quân Tưởng ra khỏi nước ta.

+ Việc nhân nhượng với Pháp, buộc chúng phải công nhận Việt Nam là quốc gia tự do, có Chính phủ tự chủ, có nghị viện, có quân đội và tài chính riêng, v.v. làm cơ sở pháp lý để ta tiếp tục đấu tranh với Pháp.

+ Ta có thêm thời gian hòa hoãn cần thiết để tiếp tục xây dựng, củng cố chính quyền và mọi mặt khác chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống Pháp lâu dài về sau.

+ Để tỏ thiện chí hòa bình, đáp ứng mong muốn của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới không muốn chiến tranh xẩy ra, do đó ta có thể tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới.


Page 2

Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân Tưởng tràn vào nước ta dưới danh nghĩa quân đồng minh thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật theo Hội nghị Pốtxđam (7/1945).

     Trên cơ sở phân tích âm mưu thủ đoạn của chúng đối với cách mạng Việt Nam, Đảng ta xác định: quân Tưởng tìm mọi cách để tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Song kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì vậy, Đảng ta quyết định thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Tưởng và tay sai của chúng ở miền Bắc (cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng, chấp nhận tiêu tiền quan kim, quốc tệ của chúng, mở rộng 70 ghế trong Quốc hội cho Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử,…) để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Nhằm gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù, ngày 11/11/1945 Đảng ta tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật, chỉ để một bộ phận hoạt động công khai dưới danh hiệu Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Những chủ trương và biện pháp trên đã từng bước vô hiệu hóa các hoạt động phá hoại, làm thất bại âm mưu “Diệt cộng cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt”, lật đổ chính quyền cách mạng Việt Nam của Tưởng Giới Thạch.

     Từ đầu năm 1946, thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch mưu tính kế hoạch đưa quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng. Ngày 28/02/1946, Hiệp ước Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng đã được kí kết. “Sự thỏa hiệp giữa hai thế lực thực dân vừa chà đạp lên chủ quyền dân tộc của nhân dân ta, vừa đặt cách mạng Việt Nam vào thế phải đối phó với âm mưu mới của hai lực lượng phản động”[1]. Đảng ta nhận định “vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”[2], “phải cân nhắc kĩ lợi hại, chọn cái nào ít hại nhất mà làm. Phải làm như thế không thì bị kẹp cả hai phía: bọn Pháp và bọn Quốc dân đảng”[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “không nên cùng một lúc đánh nhau tay năm, tay sáu với lũ cướp nước và bán nước. Đấm bằng cả hai tay một lúc là không mạnh”[4]. Chọn giải pháp thương lượng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc Tưởng rút quân về nước, tranh thủ hòa hoãn chuẩn mọi lực lượng cho cuộc chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi. “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”[5]. Thực hiện chủ trương đó, ngày 06/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kí với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ với các điều khoản chủ yếu: Pháp phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, quân đội và tài chính riêng nằm trong liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt Nam đồng ý để Pháp đưa 15.000 quân vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sẽ rút dần trong thời hạn 05 năm. Hai bên thực hiện ngừng bắn ở Nam Bộ, tạo không khí thuận lợi cho việc mở cuộc đàm phán chính thức tiếp theo tại Pari.

     Việc kí Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946) thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sự lựa chọn sáng suốt của Đảng theo phương châm “hòa để tiến” nhằm loại trừ bớt kẻ thù, tranh thủ thời cơ chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài về sau, từng bước đưa đất nước thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” một cách có lợi nhất. “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng nhân nhượng để giữ vững hòa bình…gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời gian để xây dựng lực lượng căn bản”[6]. “Sự kí kết đó có một kết quả hay là nước Pháp đã thừa nhận nước Việt Nam là một nước tự chủ”[7], tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “chọn thương lượng thay vì đánh nhau chính là bằng chứng hiểu biết về chính trị”, đồng thời tỏ rõ thiện chí hòa bình của cách mạng Việt Nam. Đánh giá về ý nghĩa quốc tế của bản Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bản Hiệp định sẽ dẫn chúng ta đến một vị trí quốc tế ngày càng vững vàng, đó là một thắng lợi chính trị lớn lao”[8].

     Gần 75 năm đã trôi qua, những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử to lớn của Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946) mãi còn nguyên giá trị. Đó là bài học về phát huy sức mạnh của chính quyền nhân dân, bài học về phân hóa và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, biết tận dụng đúng thời cơ cách mạng, biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có nguyên tắc, luôn đặt lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia lên trên hết,…Thấm nhuần quan điểm của V.I.Lênnin: “Nếu có lợi cho cách mạng, thì dù có phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp”, Hiệp định Sơ bộ đã thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt, chủ động, sáng suốt trong đường lối ngoại giao của Đảng thời kì 1945-1946, xứng đáng là “một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lênin-nít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch về sự nhân nhượng có nguyên tắc”.[9]

[1] Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên), Tiến trình Lịch sử cách mạng Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.2006, tr.305

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 8, tr.43-44

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tập 8, tr.160

[4] Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Chính trị quốc gia, H.2010, tr.103

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tập 8, tr.46

[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, Tập 12, tr. 23

[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, Tập 4, tr. 228

[8] Philippe Devillers, Tài liệu lưu trữ chiến tranh 1944-1947, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1993, tr. 218

[9] Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, H.1979, tr. 31

17. Tại sao Đảng chủ trương hòa vs quân Tưởng khi chúng vào m.Bắc nc ta?Sách lược đấu tranh ngoại giao trong thời kì 45 – 46 : Tránh đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù. Do đó, ta đã chủ trương hòa hỗn với qn Tưởng, vì:+ lực lượng Cm của ta bấy giở còn non yếu phải cùng lúc đối phó với nhiều kẻ thù. Sau CTTG thứ 2, vs danh nghĩa Đồng minh đến tước vũ khí của phát-xít Nhật, quân đội các nc đếquốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng VN và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính q` CM nhằm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt nc ta, bao gồm: 20 vạn quân Tưởng, quân đội Anh. Nhưvậy, trg nc ta, lúc bấy h, có 4 kẻ thù xâm lươc: Tưởng, Anh, P’ và Nhật và có các tc phản động. Vì vậy, tránh nguy cơ phải đối đầu vs n` kẻ thù, Đảng ta chủ trương hòa vs Tưởng, kiêntrì thực hiện ngtắc thêm bạn bớt thù. =Ta hòa với quân T để tập trung sức chống lại TD Pháp = tránh việc đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù.+ Pháp mới là kẻ thù nguy hiểm nhất, kẻ thù chủ yếu của CM lúc này, phải tập trung mũi nhọn đánh Pháp. Đảng đã phân tích âm mưu của các nc đế quốc đvs ĐD và chỉ rõ “kẻthù chính của ta lúc này là TD P’ xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đtranh vào chúng”. + Quân đội Tưởng chưa đủ mạnh để lật đổ chính quyền CM của ta.+ Hòa với qn Tưởng đê tránh điều bất lợi: các nước đồng minh vin cớ để tiêu diệt chúng ta.+Hòa với quân Tưởng để khoét sâu mâu thuẫn lợi dụng mâu thuẫn trong hàng lối kẻ thù giữa 2 tập đoàn đế quốc Anh- Pháp và Mĩ –Tưởng về quyền lợi Đông Dương =tránh nguycơ Pháp câu kết với Tưởng hòng tiêu diệt chúng ta. +Nhằm khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng, giữa những tên cầm đầu tập đoànquân Trung Hoa dân quốc và bọn Tưởng Giới Thạch.

18. N~ biện pháp Đảng đưa ra để hòa vs Tưởng

Nêu khẩu hiệu Hoa – Việt thân thiện, thực hiện phương pháp, chính sách tiêu cực đề kháng. Thực hiện biện pháp nhân nhượng quyền lợi về nhiều mặt:- Ktế: cung cấp lương thực, thực phẩm , phương tiện cho quân Tưởng khi chúng vào VN. - Ctrị: + nhường 70 ghế trg QH mà ko cần bầu cử và 4 ghế bộ trưởng trong CP cho tay saicủa Tưởng.+ Tháng 11 năm 1945, để gạt mũi nhọn tấn công của kẻ thù vào, Đảng rút vào hoạt động bí mật vs sách lược “tự giải tán” nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của chính quyền nhândân +Nhân nhượng về chính trị cho bọn Việt quốc, Việt cách.- Quân sự: ko gây xung đột đề kháng  lực lg vũ trang đóng xa quân Tưởng. Các lực lượng vũ trang của ta được lệnh tránh xung đột trực tiếp với quân đội Tưởng để tránh mắcvào cạm bẫy khiêu khích, kiếm cớ lật đổ chính quyền CM.Ngày 2821946, Hiệp ước Hoa – P’ giữa quân Tưởng vs quân P’ đc ký kết. Theo đó, P’ nhân nhượng 1 số q` lợi ktế cho chính q` Tưởng trên đất Trung Hoa, P’ trả lại các tô giới vànhượng địa ở TQ, Tưởng vận chuyện hàng hóa qua cảng Hải Phòng qua Hoa Nam TQ ko phải nộp thuế. Tưởng nhân nhượng P’ để rút quân về nc đối phó vs Quân gp’ ND TQ, P’ đcđưa quân ra m.Bắc. Như vậy, đã có sự mua bán giữa 2 lực lg đế quốc. Trc t` thế đó, Chủ tịch HCM và Đảng ta đã quyết định hòa vs P’, nhằm mđ: buộc quânTưởng rút ngay về nc, tránh t` trạng 1 lúc phải đối đầu vs n` kẻ thù, bảo tồn thực lực, tranh thù tg hòa hỗn để cbị cho 1 cuộc chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi.- Ngày 631946: Chủ tịch HCM thay mặt CP ta ký vs đại diện CP P’ bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định quy định như sau:+ P’ công nhận VN là QG tự do có CP riêng, quân đội riêng, nghị viện riêng, tài chính riêng nhưng vẫn nằm trg khối Liên hiệp P’.+ VN cho 15000 quân P’ ra Bắc thay Tưởng trg thời hạn 5 năm. + 2 bên ngừng bắn Nam bộ để đi tới đàm phán chính thức.- Từ ngày 671946 đến ngày 1091946 vs sự thiện chí và kiên trì đtranh của CP nc VN DCCH, cuộc hội nghị chính thức giữa ta và P’ đã họp ở Phơng-ten-nơ-blơ.Cuộc đàm phán chính thức ở Phơng-ten-nơ-blơ cũng ko thành do phía P’ cố bám giữ lập trường TD và trg khi đang đàm phán đã ráo riết thực hiện âm mưu mở rộng lấn chiếm trên đấtnc ta.- Ngày 1491946, Chủ tích HCM đã ký vs CP P’ bản Tạm ước, thỏa thuận 1 số điều về qh ktế giữa 2 nước, đình chỉ xung đột ở m.Nam. Đây là sự nhân nhượng cuối cùng.Sau khi ký Tạm ước 14-9, quân P’ vẫn ráo riết tiến công quân ta và khủng bố ND ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cười khiêu khích và lấn chiếm ở m.Bắc nước ta. Mặc dù TD P’bội ước, nhưng thực tế lsử đã cm t’ đúng đắn và cần thiết của các Hiệp định này. We hòa để từng bước củng cố nền độc lập vừa mới giành đc, có thêm tg để củng cố lực lg, cbị kc lâudài.21. Kc tồn dân là j? Vì sao phải kc toàn dân?