1. Vương quốc Campuchia- Đất nước Campuchia như một lòng chảo khổng lồ, vàlà một trong những nước có lịch sử lâu đời và phát triểnnhất ở Đông nam Á.Địa bàn sinh sống ban đầu là phía Bắc nước Campuchia ngày nay, trên cao nguyên Cò Rạt và mạn trung lưu sông Mê Công. Show
-Tộc người chiếm đa số là ngườiKhơ-me, sống ở phía bắc Campuchia, giỏi săn bắn, đào ao, đắp hồ trữ nước,biết khắc chữ Phạn,chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. -Đến thế kỉVI, vương quốc của người Khơ–me được hình thành, gọi lànước Chân Lạp. -Thế kỷ IXđếnXVlà hời kỳ phát triển củavương quốc Campuchia dưới thời Ăng-co huy hoàng. Họ quần cử ở bắc Biển Hồ, kinh đô Ăng-co được xây dựng ở Tây Bắc Biển Hồ. * Thời kì hình thành. - chủ nhân: người Khơme - địa bàn: ban đầu ở phía Bắc, trên cao nguyên Cò Rạt và mạn trung lưu sông Mê Công - thời gian: thế kỉ VI * Thời kì phát triển - thời đại Ăngco - Thời gian: 802 - 1432 - Địa bàn: Tây Bắc Biển Hồ - Biểu hiện: + Về kinh tế: chủ yếu là nông nghiệp. Ngoài ra, còn biết đánh cá ở Biển Hồ, khai thác lâm thủy sản và săn bắt thú trên rừng. Thủ công nghiệp cũng khá phát triển, có nhiều thợ khéo tay, đặc biệt là các nghề làm đá trang sức, chạm khắc trên đá… + Các vua Cam-pu-chia thời Ăng-co không ngừng mở rộng quyền lực ra bên ngoài, chinh phục các nước láng giềng, trở thành cường quốc trong khu vực. + Văn hóa: Sáng tạo ra chữ viết riêng của mình trên cơ sở chữ Phạn của Ấn Độ. Văn học dân gian và văn học viết với những câu chuyện có giá trị nghệ thuật. + Kiến trúc, nổi tiếng nhất là quần thể kiến trúc Ăng-co Vát, Ăng-co Thom. * Thời kì suy vong: - thời gian: XIII-XIX - Nguyên nhân: + Nhiều lần bị Xiêm xâm lược + Nội bộ lục đục, tranh giành quyền lực + Chiến tranh liên miên, công trình kiến trúc hao người tốn củaàđất nước suy kiệt - 1863, bị Pháp xâm lược. * Văn hoá: - Chữ viết: sáng tạo chữ Khơme trên cơ sở chữ Phạn. - Văn học: văn học dân gian; văn học viết, thể loại phong phú, phản ánh tình cảm con người với thiên nhiên, đất nước và cộng đồng. - Tôn giáo: ban đầu theo đạo Hin-đu đến thế kỉ XII đạo Phật du nhập và có ảnh hưởng lớn. - Kiến trúc: mang đậm phong cách kiến trúc Hin-đu giáo và Phật giáo: Angco Vat, Angco Thom. TTO - Theo báo cáo “Chỉ số tự do kinh tế 2018”, đặc khu hành chính Hong Kong (Trung Quốc) tiếp tục giữ danh hiệu “nền kinh tế tự do nhất thế giới”. Bí quyết đạt được nhờ Hong Kong tăng cường minh bạch và củng cố chính quyền liêm chính.
Khách hàng xem một dự án bất động sản mới ở Hong Kong - Ảnh: Reuters Báo cáo "Chỉ số tự do kinh tế 2018" được Quỹ Heritage ở Washington (Mỹ) công bố hôm 2-2 (giờ địa phương). Báo cáo đánh giá chung rằng kinh tế thế giới phát triển ở mức độ tự do vừa phải và năm 2017 là năm thứ sáu liên tiếp chỉ số tự do kinh tế bình quân thế giới tiếp tục tăng. Điểm bình quân đạt 61,1/100, mức cao nhất trong lịch sử xếp hạng và cao hơn 3 điểm so với lần công bố chỉ số đầu tiên vào năm 1995. Tổng điểm của Việt Nam tăng 0,7 điểm nhờ Việt Nam nỗ lực cải cách chính sách thuế, tăng cường chính phủ liêm chính và gia tăng hiệu quả của bộ máy pháp luật Ghi nhận của báo cáo “Chỉ số tự do kinh tế 2018” Kinh tế càng tự do,thu nhập càng cao Báo cáo "Chỉ số tự do kinh tế 2018" xếp hạng 180 nền kinh tế, trong đó 102 nền kinh tế đã cải thiện chỉ số tự do kinh tế, 75 nền kinh tế giảm chỉ số này và 3 nền kinh tế giữ nguyên chỉ số. Có 6 nền kinh tế được xếp hạng "tự do" (từ 80 điểm trở lên) và 90 nền kinh tế thuộc hạng "cơ bản tự do" (70 - 79,9 điểm) hoặc hạng "tự do vừa phải" (60 - 69,9 điểm). Như vậy có 96 nền kinh tế đã tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các cá nhân và doanh nghiệp tư nhân. Dù vậy, vẫn còn 63 nền kinh tế được đánh giá là "cơ bản không tự do" (50 - 59,9 điểm) và 21 nền kinh tế thuộc hạng tự do kinh tế "bị áp chế" (dưới 50 điểm). Báo cáo ghi nhận ở các nền kinh tế thuộc hạng "tự do" và "cơ bản tự do", thu nhập bình quân đầu người cao hơn hai lần so với bình quân các nước và cao hơn năm lần so với các nền kinh tế thuộc hạng "bị áp chế". 10 nền kinh tế thuộc top 10 lần lượt là Hong Kong (Trung Quốc), Singapore, New Zealand, Thụy Sĩ, Úc, Ireland, Estonia, Anh, Canada và Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE). 10 nền kinh tế đứng cuối bảng gồm CHDCND Triều Tiên, Venezuela, Cuba, Congo, Eritrea, Guinea Xích đạo, Zimbabwe, Bolivia, Algeria và Djibouti. Việt Nam xếp hạng 141/180 với 53,1 điểm, mức tổng điểm thấp hơn điểm bình quân khu vực và thế giới. Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22). Báo cáo nhận xét tổng điểm của Việt Nam đã tăng 0,7 điểm so với năm trước nhờ nỗ lực cải cách chính sách thuế, tăng cường chính phủ liêm chính và gia tăng hiệu quả của bộ máy pháp luật. Ngược lại, Việt Nam vẫn còn thấp điểm về các chỉ số tự do thương mại, quyền tư hữu và tự do lao động. Vì sao Hong Kong? Trong báo cáo "Chỉ số tự do kinh tế 2018", đặc khu Hong Kong tiếp tục giữ danh hiệu nền kinh tế tự do nhất thế giới suốt 24 năm qua với 90,2 điểm, thậm chí còn tăng 4 điểm so với năm trước nhờ các yếu tố như sau: tiếp tục cải thiện chính quyền liêm chính, phát triển tự do kinh doanh và tự do tiền tệ, bù lại chỉ số về quyền tư hữu có giảm. Báo cáo ghi nhận tại Hong Kong, khuôn khổ pháp lý chất lượng cao đã tạo nền tảng bảo vệ hiệu quả các quyền tư hữu và thúc đẩy mạnh mẽ nhà nước pháp quyền. Chính quyền ngày càng liêm chính nhờ không khoan dung với nạn tham nhũng và tăng cường tính minh bạch. Hiệu quả của pháp luật và chính sách mở cửa thương mại toàn cầu đã tạo môi trường kinh doanh năng động. Hong Kong duy trì liên kết kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc đại lục qua các lĩnh vực tài chính và thương mại. Viện nghiên cứu Fraser của Canada đánh giá kinh tế Hong Kong tự do nhất thế giới, có tính cạnh tranh cao nhất thế giới và thuế thấp thứ ba thế giới nhờ ba yếu tố: 1/ bộ máy chính quyền tinh gọn (dân số 7,4 triệu), do đó chi tiêu công không tốn kém nhiều; 2/ các quy định pháp luật về kinh tế rất linh hoạt và hiệu quả; 3/ Hong Kong đã thực hiện nhiều chính sách mở cửa thị trường thương mại. Chính quyền đặc khu Hong Kong đã hoan nghênh báo cáo "Chỉ số tự do kinh tế 2018" vừa công bố. Vụ trưởng Tài chính Hong Kong Trần Mậu Ba (Paul Chan) cam kết chính quyền Hong Kong sẽ tiếp tục bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi, thương mại tự do và cởi mở, chế độ thuế thấp và đơn giản, quản lý theo pháp luậtvà tư pháp độc lập... Chỉ số tự do kinh tế được Quỹ Heritage công bố hằng năm từ năm 1995. Chỉ số đánh giá bốn nhóm lĩnh vực gồm luật pháp, quy mô chính phủ, hiệu quả điều tiết và thị trường tự do. Bốn nhóm này gồm 12 tiêu chí kinh tế: quyền tư hữu, hiệu quả tư pháp, chính phủ liêm chính, gánh nặng thuế, chi tiêu công, tình hình tài chính, tự do kinh doanh, tự do lao động, tự do tiền tệ, tự do thương mại, tự do đầu tư và tự do tài chính. Dữ liệu nghiên cứu được các tổ chức quốc tế uy tín thu thập như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, bộ phận phân tích của tạp chí kinh tế The Economist (Anh). Chỉ số tự do kinh tế xếp theo thang điểm 100. Số liệu ở đâu ra?Nguồn số liệu của biểu đồ trên được ghi là từ Báo cáo triển vọng kinh tế tháng 10/2018 của Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF). Điểm đáng ngờ đầu tiên, dễ thấy nhất là một báo cáo được công bố vào tháng 10/2018 sẽ không thể có số liệu GDP bình quân đầu người của cả năm 2018. Trong thực tế, mỗi năm IMF công bố hai báo cáo triển vọng kinh tế, một vào tháng 4 và sau đó cập nhật vào tháng 10. Số liệu sử dụng trong các báo cáo này có tần số hàng năm (annual), không phải hàng tháng hay hàng quí. Truy cập vào cơ sở dữ liệu của Báo cáo triển vọng kinh tế tháng 10/2018, chúng tôi nhận thấy không quốc gia nào công bố số liệu của cả năm 2018, chỉ một số quốc gia có số liệu chính thức của cả năm 2017. Đối với những năm không có số liệu chính thức, IMF sẽ đưa ra ước tính.
Đối với số liệu GDP bình quân đầu người 11 quốc gia Đông Nam Á, Campuchia chỉ có số liệu chính thức đến năm 2012 và các số liệu từ năm 2013 trở đi là số ước tính; Số liệu của Lào và Việt Nam bắt đầu ước tính từ năm 2017, … Số liệu GDP chính thức của các quốc gia đều có đến hết năm 2017 tuy nhiên việc tính GDP bình quân đầu người còn cần đến qui mô dân số và không phải quốc gia nào cũng tổ chức tổng điều tra dân số hàng năm. Như vậy có thể khẳng định, số liệu năm 2018 sử dụng trong biểu đồ ở trên chắc chắn là số ước tính, không phải số chính thức. Bộ dữ liệu của IMF cho thấy mỗi quốc gia có 5 loại số liệu GDP bình quân đầu người khác nhau. Để cho ra biểu đồ giống như trên, tác giả đã sử dụng số liệu GDP được qui đổi ra USD rồi chia cho qui mô dân số. Số liệu GDP bình quân đầu người ước tính năm 2018. Nguồn số liệu: Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới tháng 10/2018 của IMF. Theo cách tính này của IMF, GDP bình quân đầu người ước tính năm 2018 của Việt Nam là 2.553 USD, thấp hơn so với Lào là 2.690 USD. Nước có GDP bình quân đầu người cao nhất là Singapore, với 61.230 USD. Và xin nhấn mạnh lại một lần nữa, tất cả những số liệu năm 2018 này đều là số do IMF ước tính. Tuy nhiên, mặt bằng giá cả ở các quốc gia khác nhau là khác nhau, do vậy, sức mua của cùng một số tiền ở các quốc gia khác nhau là khác nhau. Điều này có nghĩa là hai người có cùng thu nhập nhưng ở hai quốc gia khác nhau sẽ có sức mua và mức sống rất khác nhau. Chẳng hạn, với 30 USD tại Việt Nam, một người có thể mua được 3 chiếc áo sơ mi nhưng cũng với 30 USD tại Mỹ, một người sẽ chỉ có thể mua được 1 chiếc áo, đó là bởi giá cả tại Mỹ cao hơn ở Việt Nam…. Theo ước tính chính thức của IMF, mặt bằng giá cả chung tại Mỹ cao hơn ở Việt Nam khoảng 2,9 lần, tức là một người cầm 1.000 USD ở Việt Nam sẽ có thể mua được lượng hàng hóa/dịch vụ tương đương với một người cầm 2.900 USD tại Mỹ. Việc điều chỉnh GDP và GDP bình quân đầu người theo mặt bằng giá cả tại các quốc gia so với Mỹ như trên được gọi là điều chỉnh theo ngang giá sức mua (Purchasing Power Parity – PPP), con số thu được sau khi điều chỉnh có đơn vị là đô la quốc tế (international dollar). Sau khi điều chỉnh theo ngang giá sức mua, bảng xếp hạng GDP đầu người khu vực ASEAN có một số thay đổi. Myanmar từ vị trí cuối bảng (thứ 11) nhảy lên vị trí thứ 9 - điều này chứng tỏ mặt bằng giá cả của Myanamar rất thấp; Campuchia từ vị trí áp chót (thứ 10) tụt xuống cuối bảng. Dù vậy, Việt Nam vẫn đứng dưới Lào, thứ tự 8 vị trí đầu bảng không có gì thay đổi. GDP bình quân đầu người ước tính năm 2018 đã điều chỉnh theo ngang giá sức mua (GDP). Nguồn số liệu: Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới tháng 10/2018 của IMF. Nhìn về lịch sử, GDP bình quân đầu người của Việt Nam và Lao theo khá sát nhau, nhưng con số của Lào thường nhỉnh hơn của Việt Nam đôi chút. Gần đây nhất, từ năm 2011 đến năm 2016 (năm cuối cùng có số liệu chính thức, không phải ước tính), GDP bình quân đầu người của Lào đều cao hơn của Việt Nam, thể hiện bằng đường màu xanh ở trên đường màu vàng trong biểu đồ dưới đây. Nguồn số liệu: Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới tháng 10/2018 của IMF. VN tăng trưởng 'vượt trội' cùng Lào, CampuchiaNguồn hình ảnh, Getty Images Chụp lại hình ảnh, Thủ tướng Campuchia Hun Sen (trái), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith tại Hội nghị Campuchia-Lào-Việt Nam hồi tháng Ba Việt Nam nằm trong nhóm tám nước tiêu biểu của Đông Nam Á trong tăng trưởng, theo một báo cáo gần đây nhất của Viện Toàn cầu McKinsey (Tập đoàn tư vấn chiến lược kinh doanh quốc tế McKinsey). Báo cáo điểm tên 18 nền kinh tế mới nổi tiêu biểu trong khu vực, trong đó, có 8 đại diện từ ASEAN. Các nền kinh tế được cho là vượt trội nếu chỉ số GDP hàng năm bình quân đầu người đạt ít nhất 3.5% trong 50 năm hoặc 5% trong 20 năm. Trong đó, Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan là những quốc gia "xuất chúng lâu dài" vì đạt mức chuẩn 50 năm và nhóm Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar là các quốc gia "xuất chúng gần đây" vì đạt mức chuẩn 20 năm. Ngân hàng Thế giới khen kinh tế Việt Nam ADB: ‘Kinh tế VN bứt phá trong năm 2018’ "Mức tăng trưởng xuất sắc của các nước ASEAN không gây bất ngờ cho nhiều nước trong khu vực," Oliver Tonby, Giám đốc điều hành và Chủ tịch văn phòng McKinsey tại châu Á cho biết. Nhưng các nước ASEAN sẽ phải đối mặt với thách thức duy trì đà tăng trưởng và thu hẹp khoảng cách GDP giữa hai nhóm nước trên. Báo cáo của McKinsey đánh giá sự phát triển của tám nước Đông Nam Á và khuyến khích rằng nếu nền kinh tế ASEAN có thể tăng trưởng ở 4,1% hàng năm từ giờ cho đến 2030, thì GDP của khu vực sẽ gấp đôi, đến 5 ngàn tỷ USD, đóng góp cho 5% GDP của toàn thế giới. Và điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào bốn hùng cường của ASEAN là Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái Lan. Đừng so với Lào, Campuchia làm gì, hãy nhìn sang Singapore, Nhật BảnLãnh đạo Cục Hàng không Việt Nam cho biết, nếu so với các nước trong khu vực, số lượng hãng hàng không của Việt Nam vẫn rất khiêm tốn. Đừng so với Lào và Campuchia làm gì, hãy nhìn sang các nước trong khu vực như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc… Giai đoạn từ năm 2014 - 2018, thị trường vận tải hàng không Việt Nam liên tục tăng trưởng mạnh mẽ, trung bình giai đoạn là 20,5% về hành khách, 13,2% hàng hoá. Năm 2019, thị trường hàng không Việt Nam đón nhận thêm hãng hàng không mới Bamboo Airway. Tốc độ tăng trưởng của thị trường năm 2019 tiếp tục được duy trì ở mức hai con số với mức độ tăng trưởng 11,8 về hành khách và 3% về hànghóa so với năm 2018. Tổng vận chuyển hành khách đạt 78,3 triệu khách và vận chuyển hàng hóa đạt hơn 1,25 triệu tấn. Đội tàu bay năm 2019 cũng đạt trên 250 tàu bay đăng ký quốc tịch Việt Nam, trong đó, Vietnam Airlines đã đón tàu bay thứ 100, Vietjet đã có trên 80 tàu, Bamboo Airways dù mới khai thác được 1 năm những cũng đã có 14 tàu bay, dự kiến sẽ lên 22 tàu ngay trong năm 2020.
Dự báo, năm 2020, tổng thị trường đạt 86,8 triệu khách, tăng 10,8% so với năm 2019; đạt xấp xỉ 1,4 triệu tấn hàng hóa, tăng 11% so với năm 2019. Thị trường hàng không Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng 2 con số trong 5 - 10 năm tới, đặc biệt sẽ bùng nổ mạnh mẽ khi sân bay Long Thành đi vào khai thác. Nói về vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển thị trường và sự ra đời của nhiều hãng hàng không mới trong thời gian tới, lãnh đạo Cục Hàng không khẳng định quản lý nhà nước chắc chắn sẽ phải chặt chẽ nhưng mục tiêu vẫn là thúc đẩy chứ không phải kìm hãm sự phát triển. “Nếu so với các nước trong khu vực, số lượng hãng hàng không của mình vẫn rất khiêm tốn. Đừng so với Lào và Campuchia làm gì, hãy nhìn sang các nước trong khu vực. Thái Lan hiện có 16 hãng, Singapore (1 thành phố, 1 sân bay) 6 hãng, Malaysia 10 hãng, Indonesia 20 hãng, Philippines 12 hãng, Nhật Bản 23 hãng, Hàn Quốc 12 hãng” - lãnh đạo Cục Hàng không dẫn chứng. Dự báo sự tăng trưởng đột biến! Thị trường hàng không Việt Nam đã có cả chục năm tăng trưởng mạnh mẽ. Sau khi Luật Hàng không dân sửa đổi được ban hành, từ năm 2007 - 2018, thị trường hàng không tăng 4 lần. Tốc độ tăng trưởng này được đánh giá là nhanh nhất trên thế giới. Theo lãnh đạo Cục này, tốc độ tăng trưởng của hàng không phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng trưởng GDP. Nếu GDP tăng 1 thì tăng trưởng hàng không từ 2 - 2,5 lần, điều này có nghĩa là nếu GDP còn tăng trưởng 6 - 7% thì hàng không chắc chắn sẽ tăng trưởng trên 2 con số. Về mặt dân số, tại một số thị trường phát triển trên thế giới, tổng thị trường vận tải hàng không của họ thường gấp 2 - 3 lần dân số. Như Mỹ có 300 triệu dân, thị trường hàng không của Mỹ hiện là hơn 1 tỷ hành khách. Tại Việt Nam, dân số đang là gần 100 triệu. Nếu tính ở mức độ trung bình, chỉ gấp 2 lần dân số, thì thị trường cũng phải là 200 triệu khách/năm. Trong khi đó, hiện tại thị trường của ta mới đạt 80 triệu khách năm, điều này có nghĩa là dư địa còn cực kỳ lớn. “Hàng không Việt Nam hiện đang phải kìm nén năng lực khai thác, kìm nén nhu cầu khai thác. Đặc biệt, tại Tân Sơn Nhất, dù nhu cầu là rất lớn việc tăng trưởng sản lượng hành khách thông qua gần như không thể do vấn đề hạ tầng” - lãnh đạo Cục Hàng không nói và cho biết trong 5 năm tới, sau khi nhà ga hành khách T3 Tân Sơn Nhất đi vào khai thác và Cảng Hàng không quốc tế Long Thành ra đời thì chắc chắn sẽ tạo sự tăng trưởng đột biến. (Theo Dân trí) Mục lục
Số liệu thống kêSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|