Nghĩa vụ là gì lấy ví dụ

Khái niệm nghĩa vụ dân sự? Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự và Lấy ví dụ về nghĩa vụ dân sự? Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự?


Nghĩa vụ dân sự là việc các bên phải thực hiện các công việc hay trách nhiệm đối với nghĩa vụ đó và được phát sinh trong các quan hệ khác nhau được pháp luật quy định cụ thể tại Bộ Luật Dân sự 2015 quy định, Vậy để hiểu thêm về nghĩa vụ dân sự là gì và trả lời các thắc mắc về vấn đề Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự? Lấy ví dụ về nghĩa vụ dân sự? Dưới đây Công ty Luật Dương Gia chúng tôi cung cấp các thông tin chi tiết về vấn đề này.

Bạn đang xem: Nghĩa vụ là gì

Cơ sở pháp lý: Bộ Luật Dân Sự 2015

Nghĩa vụ là gì lấy ví dụ

Nghĩa vụ là gì lấy ví dụ

Luật sư tư vấn luật Dân sự miễn phí trên toàn quốc: 1900.6568

1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự

Nghĩa vụ, theo nghĩa chung nhất là việc mà theo quy định của pháp luật hay vì đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không được thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia. hay nói cách khác Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)

2. Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự và Lấy ví dụ về nghĩa vụ dân sự?

Bộ luật Dân sự (BLDS) quy định về nghĩa vụ dân sự (NVDS) tại Điều 280 như sau:

“Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.

Từ quy định trên có thể thấy: NVDS là một loại quan hệ, trong đó phải có ít nhất là hai bên (bên có quyền, bên có nghĩa vụ) mỗi bên có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu của bên có quyền, nếu không thực hiện, thực hiện không đúng yêu cầu thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định. Tiếp đó, NVDS là một loại quan hệ pháp luật dân sự, do vậy cũng mang những đặc điểm chung của loại quan hệ này. Bên cạnh đó, NVDS vẫn có những nét đặc thù, riêng biệt cụ thể:

Thứ nhất, NVDS là một loại quan hệ tài sản: Quan hệ tài sản được hiểu là mỗi quan hệ giữa các bên thông qua một lợi ích vật chất cụ thể mà các bên cùng hướng tới. Từ Điều 280 BLDS có thể thấy hành vi thực hiện nghĩa vụ có thể là sự chuyển dịch tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản) giữa các bên hoặc là một loại quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi (vd: Bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc ủy quyền…). Tuy nhiên dù có là một quan hệ chuyển dịch tài sản hay là quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi thì về bản chất NVDS là một quan hệ tài sản.

Thứ hai, NVDS là mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa các bên chủ thể: Đặc điểm trên cho thấy tính cưỡng chế thi hành của loại quan hệ này. NVDS khác với Nghĩa vụ tự nhiên ở chỗ nó được Nhà nước công nhận và được đảm bảo thi hành bởi pháp luật. Mặc dù nghĩa vụ dân sự là quan hệ giữa các bên nhằm hướng tới một lợi ích nhất định, tuy nhiên lợi ích mà các bên hướng tới không được trái với ý chí của nhà nước và nhà nước sẽ kiểm soát việc sự thỏa thuận cũng như việc thực hiện NVDS thông qua việc quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với từng loại NVDS.

Thứ ba, hành vi thực hiện NVDS của chủ thể có nghĩa vụ luôn mang lại lợi ích cho chủ thể có quyền: Xuất phát từ mục đích của các bên chủ thể khi tham gia quan hệ NVDS là hướng tới một lợi ích nhất định (vật chất hoặc tinh thần) do đó, thông qua hành vi thực hiện NVDS mà lợi ích của các chủ thể sẽ đạt được.

Thứ tư, NVDS là một loại quan hệ đối nhân (quyền đối nhân): Quan hệ đối nhân là quan hệ mà trong đó một bên chủ thể có quyền đối với một bên xác định , hoặc cả hai bên đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với nhau. Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ NVDS vừa đối lập lại vừa có mối quan biện chứng với nhau. 

Ví dụ, trong quan hệ hợp đòng cho vay, bên có quyền đòi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có thể người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người bảo lãnh đã được các bên xác định trước). với các đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. và Đồng thời cũng qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu. Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy quyền dân sự trong quan hệ pháp luật về sở hữu là quyền tuyệt đối theo quy định của pháp luật

3. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự 

Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó quy định một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, và thực hiện công việc trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) theo quy định của pháp luật, căn cứ xác định nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 275. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ Bộ Luật dân sự 2015 được quy định như sau:

3. 1. Hợp đồng.Xem thêm: Mama Boy Là Gì - 5 Dấu Hiệu Nhận Biết Một Mama'S Boy

Hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 “là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc mua bán, và trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thuê, mượn tài sản hoặc về việc thực hiện một công việc, Căn cứ theo đó làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong hợp đồng. Với tính chất này, khi các bên thỏa thuận nhằm làm phát sinh, làm thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau thì đây sẽ là căn cứ hình thành nghĩa vụ theo quy định của pháp luật

3. 2. Hành vi pháp lý đơn phương

Đối với các Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi của cá nhân thể hiện ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt của bản thân nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Khi một người thực hiện một hành vi pháp ký đơn phương thì có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba theo quy định

3.3. Thực hiện công việc không có ủy quyền.

Thực hiện công việc không có ủy quyền được hiểu là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người mà có công việc được thực hiện trong các trường hợp khác nhau theo quy định của pháp luật

3.4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

Chiếm hữu sử dụng tài sản đó là việc Khi một người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của người đó kể từ khi người đó có khoản lợi trong tay. và nghĩa vụ phát sinh Từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc được lợi thì phải hoàn trả khoản lợi mà mình đã thu được theo quy định

3.5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

Đối với hành vi gây thiệt hại đó là Thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. nghĩa vụ phát sinh Trong quan hệ này, bên gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bên bị thiệt hại.

3.6. Căn cứ khác do pháp luật quy định.

Các nghĩa vụ phát sinh khác theo các Trường hợp này do pháp luật khác quy định, để tránh sự bỏ sót phát sinh trong thực tiễn. Đó là những căn cứ pháp lý do pháp luật quy định điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ về tài sản giữa các chủ thể trong quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự quy định

Một trong những nguyên tắc để thực hiện được quyền và nghĩa vụ từ sự thỏa thuận hoặc pháp luật của các bên, đối tượng là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện cần phải xác định được một cách rõ ràng. Điều này hoàn toàn là sự phù hợp, khi đối tượng không thể xác định thì các bên chủ thể không thể tác động vào đó để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình. Đồng thời, các bên chủ thể càng không thể tạo ra các quyền và nghĩa vụ một cách cụ thể.

Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung Đặc điểm của nghĩa vụ dân sự? Lấy ví dụ về nghĩa vụ dân sự? và các thông tin pháp lý khác dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành

Trong các giao dịch dân sự vớ các hình thức khác nhau mà các bên chủ thể đưa ra thỏa thuận giữa hai bên để xác lập quyền và nghĩa vụ tượng đương với nhau và các bên sẽ bị ràng buộc để thực hiện nghĩa vụ đó. Vậy pháp luật quy định như thế nào về nghĩa vụ. Để hiểu thêm về Nghĩa vụ là gì? Căn cứ phát sinh và đối tượng của nghĩa vụ?

Cơ sở pháp lý:

Bộ Luật Dân Sự 2015

Nghĩa vụ là gì lấy ví dụ

Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Nghĩa vụ là gì?

Trong cuộc sống hằng này cụm từ nghĩa vụ không còn xa lạ với chúng ta, nghĩa vụ là việc đòi hỏi mỗi công dân phải thực hiện hành vi cần thiết do Nhà nước yêu cầu, nếu không tuân thủ thực hiện đúng thì Nhà nước buộc phải áp dụng biện pháp như giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế. Xem xét khái niệm nghĩa vụ dưới nhiều góc độ, theo nghĩa chung nhất, nghĩa vụ là việc mà theo quy định của pháp luật hay đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc nhiều hành vi nhất  định vì lợi ích của bên kia.

Theo đó chúng ta có thể hiểu đơn giản về nghĩa vụ đó là việc phải làm theo trách nhiệm thực hiện các công việc của mình, Bộ luật dân sự 2015 có quy định nghĩa vụ là việc mà một hoặc nhiều chủ thể phải tiến hành như: chuyển giao quyền, trả tiền, giấy tờ có giá trị thực hiện hoặc không thực hiện công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Xem xét nghĩa vụ dân sự ở trạng thái là một quan hệ pháp luật, nghĩa vụ có một số đặc điểm sau:

Đặc điểm đầu tiên của nghĩa vụ dân sự đó chính là một loại quan hệ tài sản theo đó thì các quan hệ tài sản được hiểu là mỗi quan hệ giữa các bên thông qua một lợi ích vật chất cụ thể mà các bên cùng hướng tới. Từ Điều 280 Bộ Luật dân sự 2015 có thể thấy hành vi thực hiện nghĩa vụ có thể là sự chuyển dịch tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản) giữa các bên hoặc là một loại quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi (vd: Bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc ủy quyền…). Tuy nhiên dù có là một quan hệ  chuyển dịch tài sản hay là quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi thì về bản chất nghĩa vụ dân sự là một quan hệ tài sản.

Đặc điểm thứ hai đó chính là thực hiện nghĩa vụ dân sự được xem là mối quan hệ pháp lý đối với quyền và nghĩa vụ tương ứng ràng buộc giữa các bên chủ thể: Đặc điểm trên cho thấy tính cưỡng chế thi hành của loại quan hệ này. Nghĩa vụ dân sự  khác với Nghĩa vụ tự nhiên ở chỗ nó được Nhà nước công nhận và được đảm bảo thi hành bởi pháp luật. Mặc dù nghĩa vụ dân sự là quan hệ giữa các bên nhằm hướng tới một lợi ích nhất định, tuy nhiên lợi ích mà các bên hướng tới không được trái với ý chí của nhà nước và nhà nước sẽ kiểm soát việc sự thỏa thuận cũng như việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua việc quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với từng loại nghĩa vụ dân sự.

Ngoài ra, đặc điểm thứ ba đó chính là thực hiện nghĩa vụ dân sự hành vi thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ luôn mang lại lợi ích cho chủ thể có quyền đó xuất phát từ mục đích của các bên chủ thể khi tham gia quan hệ nghĩa vụ dân sự là hướng tới một lợi ích nhất định (vật chất hoặc tinh thần) do đó, thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ dân sự mà lợi ích của các chủ thể sẽ đạt được.

Xem thêm: Quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự

Đặc điểm cuối cùng của nghĩa vụ quân sự đó là việc thực hiện nghĩa vụ dân sự là một loại quan hệ đối nhân (quyền đối nhân): Quan hệ đối nhân là quan hệ mà trong đó một bên chủ thể có quyền đối với một bên xác định , hoặc cả hai bên đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với nhau. Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự vừa đối lập lại vừa có mối quan biện chứng với nhau.

Ví dụ, trên thực tế, đối với quan hệ các bên trong quan hệ hợp đòng cho vay, bên có quyền đòi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có thể người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người bảo lãnh đã được các bên xác định trước). với các  đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. và Đồng thời cũng qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu. Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy quyền dân sự trong quan hệ pháp luật về sở hữu là quyền tuyệt đối theo quy định của pháp luật

2. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự:

Có nhiều căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, theo đó tại Điều 275 Bộ luật dân sự đã liệt kê các căn cứ sau:

Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự đầu tiên đó là hợp đồng dân sự. Nghĩa vụ dân sự được phát sinh khi các chủ thể thiết lập với nhau một hợp đồng dân sự và hợp đồng đó chỉ phát sinh nghĩa vụ nếu là một hợp đồng có hiệu lực (các bên giao kết hợp đồng phải tuân theo các điều kiện mà pháp luật quy định đối với mỗi bên hợp đồng.

Căn cư thứ hai đó là việc thực hiện hành vi pháp lý đơn phương. Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đây là một loại giao dịch dân sự, trong đó chỉ biểu hiện ý chí đơn phương của một bên, vì vậy, có làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ dân sự hay không còn phụ thuộc vào sự tiếp nhận ý chí này của những người khác (những người sẽ là chủ thể phía bên kia của giao dịch dân sự đó), hành vi pháp lý đơn phương phải là sự thể hiện ý chí không trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Căn cứ thứ ba đó là việc thực hiện công việc không có ủy quyền. Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó hoàn toàn vì lợi ích của người khác khi người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà phản đối.

Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa người thực hiện công việc với người được thực hiện công việc, trong đó người được thực hiện công việc có nghĩa vụ thanh toán các chi phí hợp lí mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc đồng thời phải trả thù lao cho người thực hiện công việc.

Căn cứ thứ tư đó là việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Việc hiếm hữu, sử dụng tài sản của một người chỉ được pháp luật thừa nhận và bảo đảm nếu người đó là chủ sở hữu của tài sản hoặc là người được chủ sở hữu tài sản chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu hay người đó là người được phép chiếm hữu hay người đó là người được phép chiếm hữu, sử dụng tài sản trong các trường hợp do pháp luật. Ngoài những trường hợp này, người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật có nghĩa vụ phải trả tài sản, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.

Xem thêm: Căn cứ phát sinh và thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng rẽ

Thứ năm đó là xác định dựa trên hành vi gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật. Khi một người thực hiện một hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của người khác sẽ làm phát sinh một quan hệ luật dân sự trong đó người có những hành vi nói trên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho phía bên kia (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)

Cuối cùng đó là các căn cứ khác do pháp luật quy định. Ngoài các căn cứ kể trên, nghĩa vụ dân sự có thể được phát sịnh trong trường hợp luật định, chẳng hạn xác lập từ một bản án, quyết định của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự:

Tại Điều 276. Đối tượng của nghĩa vụ bộ Luật dân sự 2015 quy định:

1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.

2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định.

Theo đó, đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì tài sản là vật có thể vật hiện hữu (vật có thực) hoặc hình thành trong tương lại, có thể là động sản hoặc bất động sản, có thể là vật chia được hoặc vật không chia được, có thể là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có thể là vật được xác định theo chủng loại hay được được xác định là vật đồng bộ. Tùy theo tính chất của từng loại tài sản cụ thể trong quan hệ dân sự mà chủ thể có thể thoải thuận để xác định nội dung của quan hệ nghĩa vụ.

Ngoài ra trong trường hợp cụ thể như đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định thì chia ra làm đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm và đối tượng của nghĩa vụ là công việc không được làm. Như vậy  kết quả của công việc phải làm có thể được biểu hiện dưới một dang vật cụ thể nhưng cũng có thể không biểu hiện dưới dạng một vật cụ thể nào (các loại dịch vụ). Thông thường, các quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là công việc phải làm thường là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mang tính dịch vụ như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gửi giữ tài sản….Bên cạnh đó công việc không được làm là đối tượng của nghĩa vụ trong trường hợp các bên từ công việc đó xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ không được thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định.