mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng :
Một là ý thức sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh đúng
hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách quan, có ý chí động cơ
hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức
kìm hảm, cản trở, thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh
không đúng hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu con người
không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật
chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động
của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một nguyên tắc
được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai
trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan, phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng
động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức,
của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy
tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước
thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ cái vật
tự nó (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của con người đồng thời sử
dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật để phục
vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con người.
Như vậy, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau và mối liên hệ đó tuân theo
các quy luật khách quan vốn có của nó. Nếu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta
tuyệt đối hóa, cường điệu hóa vai trò của một trong hai mặt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của xã hội và rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí hoặc bệnh bảo thủ trì trệ.
Bệnh bảo thủ trì trệ là khuynh hướng sai lầm cực đoan do cường điệu hóa vai trò của vật
chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan. Khuynh hướng bảo
thủ sẽ dẫn đến tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở
cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Trên thực tế, bệnh bảo thủ còn biểu hiện qua những
định kiến.
Bệnh chủ quan duy ý chí cũng là 1 khuynh hướng sai lầm, ngược lại với bệnh bảo thủ trì
trệ, nó thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan quá đề cao, cường điệu tính sáng
tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, điều kiện
khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự yếu kém về trí thức khoa học. Sai lầm của
bệnh chủ quan duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện
vọng chủ quan. Sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương chính sách và lựa chọn
phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt ý chí vào thực tế, lấy ảo tưởng chủ
quan thay cho hiện thực.
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ là một thực tế tồn tại trong thời kỳ khá dài
trước đổi mới (trước Đại hội lần VI tháng 12-1986). Trong giai đoạn này, tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài mà trong đó sai lầm do chủ quan duy ý chí và bảo thủ
có tác hại rất lớn.
Đánh giá về những sai lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Văn kiện Đại
hội VI đã nêu Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá
2
trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan,
nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết. Văn kiện Đại hội lần thứ VI cũng đã chỉ rõ
Đảng đã nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều
mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên. Do chủ quan duy ý
chí, trong nhận thức và hành động của Đảng trong giai đoạn này vi phạm các quy luật khách
quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể được Văn kiện ĐH Đảng lần VI đánh giá như sau :
chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian
tương đối dài nên đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
SX với tính chất và trình độ SX nên có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ hoặc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi
chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Bênh bảo thủ trì trệ được biểu hiện qua việc chậm đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời, trong công tác tổ chức thời kỳ này khuyết điểm lớn nhất là
sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo
và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính
hình thức.. Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ nên trong kinh tế, Đảng ta
đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp - một cơ chế "gắn liền
với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất
chủ quan, duy ý chí", có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ
cùng với việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế , bỏ qua không thừa nhận và
vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa ...
vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế do định kiến cho rằng những quy luật này
là chủ nghĩa tư bản, không được áp dụng vào chủ nghĩa xã hội dẫn đến việc SX chậm phát
triển, khủng hoảng kinh tế trên mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng
những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX
hàng hóa (quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản ).
Bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ có nguyên nhân từ sự yếu kém lạc hậu về
tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Sự giản đơn yếu kém
về lý luận thể hiện ở chổ : hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú
ý tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại,
thậm chí còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng
kết những cái mới từ sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
nguyên nhân của bệnh chủ quan là kém lý luận, lý luận và lý luật suông. Bệnh chủ quan duy ý
chí, bảo thủ còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của con người chi phối. Những
nguyên nhân khách quan ấy có thể kế như : do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, nền SX
nhỏ với trình độ SX lạc hậu, do hậu quả của chiến tranh kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến không
chỉ đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mà còn làm cho đội ngũ cán bộ - đảng viên không có
điều kiện để học tập nên trình độ KH công nghệ, tri thức không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, cơ chế quan liêu bao cấp, bệnh quan liêu ảo tưởng, kiêu ngạo cộng
sản cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh chủ quan duy ý chí.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh nghiệm từ
những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ, trì trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương hướng biện pháp đó là
:
3
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức, bước đi,
cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy
kinh tế, nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi
mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Để đảm bảo sự lãnh đạo
thành công trong công cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại hội Đảng lần đã xác định : Đảng
phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo
sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng . Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và tìhn hình
chính trị và ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tập trung trước hết
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền
đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống XH. Bên cạnh đó, với
quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ trương, chính sách
kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như : Đại
hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội
xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và
bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện
một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản
xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản
xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ
SX phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này
theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế",
tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thựcthực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình
chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Hai là đồng thời với việc đổi mới toàn diện về kinh tế và tư duy lý luận, việc tăng cường phát
huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển
KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Đây là biện pháp nhằm khắc phục nguyên nhân
sâu xa của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém về lý luận, lạc hậu về trình
độ, tri thức KH công nghệ. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh : phải lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững
Ba là tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát
triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi, đổi mới và kiện toàn tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong điều kiện mới, căn cứ vào sự vận động của
thực tiễn, của cuộc sống để kịp thời loại bỏ những hiểu biết lỗi thời, lạc hậu.
Bốn là phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới , trong đó,
VK ĐH Đảng lần VII đã chỉ rõ : Đảng làm giàu trí tuệ của mình bằng cách không ngừng nâng
4
cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không ngừng tổng kế kinh nghiệm thực tiễn phát triển
công tác lý luận của Đảng tiếp thu những thành quả trí tuệ của con người.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ
XHCN ngày càng củng cố và đất nước đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có
những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thắng lợi của công cuộc đổi mới có được là dựa trên
một nền tảng tư tưởng đúng, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà trong đó
sự quán triệt và vận dụng đúng quy luật, nguyên tắc khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn
dắt đúng đắn của Đảng./.
5
Vấn đề 2 : Phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, từ đó rút ra quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử cụ thể và vận dụng các quan điểm đó để phân tích, phê phán bệnh phiến diện,
bệnh giáo điều, đồng thời phân tích phương hướng đổi mới sau đây của Đảng ta : Đổi mới
toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình thức, cách làm phù hợp (Văn kiện Đại hội
IX, trang 81)
Bài làm: Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986), Đảng đã khởi
xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới trên toàn đất nước, trong đó phương hướng đổi mới được
Đảng xác định tại là phải đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi, hình thức, cách
làm phù hợp. Đây là một những vận dụng của Đảng vào thực tiễn Việt Nam dựa trên nguyên lý
của mối liên hệ phổ biến và được rút ra từ quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật, trong đó liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự liên quan tác động, ràng buộc,
quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng (SVHT)
hoặc giữa các SVHT với nhau. Mọi SVHT trong thế giới khách quan đều tồn tại trong những
mối liên hệ tác động lẫn nhau, sự vật này thay đổi kéo theo sự vật kia thay đổi và không có một
SVHT nào tồn tại một cách cô lập, tách rời, do đó mối liên hệ giữa các SVHT mang tính phổ
biến. Mối liên hệ này còn mang tính khách quan do đây là cái vốn có từ bên trong SVHT chứ
không phải do áp đặt từ bên ngoài, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới vật chất
của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển của chính SVHT. Các SVHT trong thế giới vật chất rất
đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ có
thể phân biệt các mối liên hệ thành các dạng như sau : liên hệ bên trong và bên ngoài, chung và
riêng, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, trực tiếp và gián
tiếp Sự phân loại này là tương đối vì mối liên hệ đó chỉ là bộ phận trong toàn bộ mối liên hệ
phổ biến nói chung, tuy nhiên sự phân biệt các mối liên hệ là cần thiết vì chúng có vai trò khác
nhau đối với sự vận động và phát triển của các SVHT.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ta 2 quan điểm về cách nhận thức, xem xét một
SVHT và hành động trong thực tiễn, đó là quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng, ta phải đặt chúng vào
mối quan hệ với các SVHT khác, xem xét các SVHT trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ
phận, các yếu tố các thuộc tính khác nhau của chính bản thân SVHT và giữa SVHT đó với
những SVHT khác (kể cả trực tiếp, gián tiếp). Thực chất của quan điểm toàn diện là trong khi
chú ý xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành của sự vật, tư duy phải
phát hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất, rút ra được cái
trọng tâm, trọng điểm, cơ bản, cốt lõi .. chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật, không xem
xét dàn trãi, đánh đồng các mối liên hệ . Từ quan điểm toàn diện khi sự xem xét các SVHT dẫn
đến nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực tiễn, có nghĩa là để cải tạo một SVHT bao giờ
chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác
nhau để biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật. Tuy nhiên như đã nói ở trên, đồng bộ
không có nghĩa là giàn đều, bình quân mà trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu
then chốt. Thực hiện quan điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện một chiều hoặc
chống chủ nghĩa chiết trung mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện do tỏ ra chú
ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện
6
cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, duy ý chí
Quan điểm lịch sử cụ thể là một quan điểm được rút ra từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
Quan điểm này đòi hỏi khi xem xét mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra hoặc khi đánh giá một
SVHT, để nhìn thấy được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta gắn nó với không gian và
thời gian cụ thể, với những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại của sự vật,
không được đánh giá chung. Tư duy của chúng ta chỉ có thể chân thực khi chúng ta theo sát sự
thay đổi của những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vật. Quan điểm hoàn cảnh lịch sử cụ thể đòi
hỏi khi vận dụng những nguyên tắc lý luận vào thực tiễn không được dừng lại ở những công
thức chung, sơ đồ chung mà phải tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể của sự vận dụng. Nói
cách khác, khi xem xét một luận điểm, một chân lý nào đó phải gắn với những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của luận điểm, của chân lý đó, bởi vì chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra
ngoài giới hạn tồn tại của nó, trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định của nó.
Lênin nói Bản chất linh hồn sống của Chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể một tình hình cụ thể,
điều kiện cụ thể.
Quán triệt quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, chúng ta cần khắc phục và nghiêm
khắc phê phán bệnh phiến diện và bệnh giáo điều.
Bệnh phiến diện đối lập với quan điểm toàn diện, nó xuất phát từ việc xem xét một SVHT
chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những SVHT
ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của sự việc ấy mà quên mất sự vận động của sự vật ấy, chỉ
thấy cây mà không thấy rừng. Ngoài ra, khi xem xét SVHT, mặc dù có chú ý đến nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ nhưng nếu ta đánh giá ngang nhau những mặt, những mối liên hệ đó thì ta
cũng rơi vào bệnh phiến diện.
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước ĐH Đảng lần VI-1986), Đảng ta đã mắc phải nhiều sai
lầm trong chủ trương, chính sách mà trong đó có nguyên nhân do bệnh phiến diện một chiều.
Văn kiện ĐH Đảng lần VI có nêu Trong nhận thức và hành động, . chúng ta chưa nắm vững
và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất (QHSX) với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất (LLSX). Vì vậy, Đảng ta chỉ tập trung xây dựng phát triển QHSX mà
không thấy được vai trò của LLSX dẫn đến xây dựng QHSX tiến vượt xa so với tính chất và
trình độ LLSX đưa đến không phát triển được. Văn kiện ĐH Đảng lần VI xác định : "Kinh
nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa
so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Khi xây dựng QHSX, trong thời kỳ trước
1986, chúng ta chỉ chú ý đến mối quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) mà không chú ý
đến mối quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm dẫn đến việc quốc hữu hóa
TLSX, mở rộng kinh tế quốc doanh và tập thể (sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể) nhưng
không tạo được động lực phát triển, không giải quyết tốt vấn đề lưu thông phân phối hàng hóa,
quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến sản xuất chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung cầu ngày càng
gay gắt (ĐH Đảng lần VI Trang 25) kinh tế không phát triển được. Để khắc phục bệnh phiến
diện một chiều, chúng ta cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét nghiên cứu SNHT, phải
biết kết hợp chặt chẽ giữa chính sách có dàn đều và chính sách có trọng điểm (V.I Lênin)
trong phát triển kinh tế.
Bệnh giáo điều cũng xuất phát từ quan điểm phiến diện và không tôn trọng quan điểm lịch
sử cụ thể, đó là việc tuyệt đối hóa lý luận coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất
di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý
đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo
7
điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho
rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví
dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các
thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà
không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự
có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động
lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng
nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa phương mình mà
không sáng tạo, chọn lựa Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở
Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ,
Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập
trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ Để khắc phục
bệnh giáo điều. ta cần từ bỏ lối nghiên cứu một cách kinh viện, thuần túy chỉ biết giải thích
bằng kinh nghiệm, chứng minh lý luận bằng lý luận cần chống đối lối tư duy bắt chước, sao
chép rập khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp những đặc điểm, truyền thống và điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước, của dân tộc tăng cường tổng kết thực tiễn bổ sung phát triển lý luận.
Để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng, Đại hội Đảng lần VI
đã đề ra công cuộc đổi mới trên cơ sở vận dụng nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác-LêNin, trong
đó có nguyên lý mối liên hệ phổ biến, quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sự. Phương
hướng đổi mới do Đảng đề ra là phải Đổi mới toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp (Văn kiện ĐH Đảng lần IX).
Thực tiễn cho thấy, trước sự khủng hoảng của hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa giai đoạn
này, nếu xã hội Việt Nam không có sự ổn định về mặt chính trị lẫn kinh tế thì đất nước có thể
gặp phải những biến động khó lường, trong đó đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa tăng
trưởng kinh tế và ổn định xã hội trên nguyên tắc bình đẳng, công bằng, dân chủ và văn minh
được biểu hiện như là yếu tố tất yếu của sự phát triển. Như vậy, để tránh sự bất ổn về chính trị
và thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, dựa trên quan điểm toàn diện, Đảng đã xác định đổi mới
phải là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế
chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Nếu chỉ đổi mới một lĩnh vực hoặc
một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt kết quả mong muốn.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng đã xác định mỗi một giai đoạn phải có bước đi thích hợp,
ví dụ như trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, việc cải tạo quan hệ SX XHCN phải chấp nhận
nhiều thành phần kinh tế. Văn kiện Đại hội VI xác định: Nay phải sửa lại cho đúng như sau:
Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất".
Đồng thời, trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới đó phải xác định đúng khâu then chốt
để tập trung sức giải quyết, làm cơ sở đổi mới các khâu khác, các lực lượng khác. Điều này
được khẳng định tại Văn kiện Đại hội Đảng lần VI : lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng
thời thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực khác
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong
việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại;.không có sự đổi mới đó thì
không có mọi sự đổi mới khác. Tuy nhiên, đứng trước nền kinh tế đang bị khủng hoảng trầm
trọng, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới
8
kinh tế, khắc phục khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới
các mặt khác của đời sống XH.
Bên cạnh việc đổi mới kinh tế, Đảng ta xác định nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân
trong đổi mới là ''phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt''. Trong việc đổi
mới tổ chức và cơ chế hành động của hệ thống chính trị, chúng ta đã đi bước thận trọng và
vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, với việc
nhìn thấy đây là việc rất cần thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai
lầm sẽ phải trả giá rất đắc có khi không cứu vãn được.
Song song với việc đổi mới hệ thống chính trị là việc thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ
cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống
khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng dân
chủ, dân quyền nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước
ta. Không chấp nhận chế độ đa nguyên đa Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, việc xác định bước đi đúng đắn phải song song với việc đổi mới
hình thức. và cách làm phù hợp tương ứng với từng giai đoạn, từng thời kỳ. Cụ thể như .
Phương thức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở từng bước được đổi mới. Hoạt động
của tổ chức đảng, đảng viên, hệ thống chính trị chuyển theo hướng gắn bó hơn với nhân dân,
tôn trọng lợi ích của nhân dân hiểu dân, trọng dân và học dân để vì dân. Đổi mới cách ra nghị
quyết của Đảng ở các cấp theo hướng dân chủ, thiết thực, dễ hiểu, khả thi gắn với chương trình
hành động thực hiện nghị quyết, có phân công trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra thực
hiện nghị quyết, Điều lệ Đảng; thông qua cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, làm trong
sạch Đảng và hệ thống chính trị
Hoặc lấy ví dụ cụ thể như trong lĩnh vực đất đai, từ sau ĐH Đảng lần VII (1991), chủ trương
đổi mới của Đảng trong quan hệ ruộng đất đã thích ứng dần với xu thế phát triển tất yếu của
một nền kinh tế đang từng bước đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường thông qua việc thể chế
hoá quan điểm của Đảng bằng Luật đất đai năm 1993, trong đó thừa nhận đất có giá và quy
định người sử dụng đất có 5 quyền và đến Luật Đất đai năm 2003, quyền của người sử dụng đất
ngày càng mở rộng hơn, bình đẳng hơn với các thành phần kinh tế, với đối tượng sử dụng đất
trong và ngoài nước . Điều này đã khẳng định bước tiến quan trọng trong quan điểm và chỉ đạo
của Đảng về vấn đề đất đai, thể hiện được quan niệm tiến bộ về cấu trúc quan hệ sở hữu đất đai,
sở hữu toàn dân không còn là hành vi pháp lý chính trị đơn thuần, mà điều cốt yếu là hướng đến
nội dung kinh tế thiết thực, khơi dậy các động lực kinh tế trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai.
Sự đổi mới này đã đem lại những thành công khá lớn trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất
nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đúng như đánh giá trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX): "Những đổi mới trong chính sách pháp luật về đất
đai hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, đặc biệt là
sản xuất nông nghiệp, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Tóm lại, tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp là sự vận dụng đúng đắn các nguyên lý, quan điểm của triết hoạch Mác LêNin và
là bài học kinh nghiệm qúy báu của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, là điều kiện
đảm bảo sự thành công của công cuộc đổi mới trong giai đoạn đã qua cũng như trong thời gian
tới.
9
Vấn đề 3 : Nội dung nguyên lý về sự phát triển, từ đó rút ra quan điểm phát triển và vận
dụng quan điểm đó để phân tích, phê phán các bệnh : bảo thủ trì trệ, bệnh giáo điều và để phân
tích nhận định sau đây của Đảng ta CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo
ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội (Văn kiện Đại hội IX, trang 65)
Bài làm: Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra
đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử thách và
cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa
như : bệnh giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí dẫn đến sự suy thoái, khủng
hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn khẳng định CNXH trên thế giới từ những bài học
thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều
kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội (Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận định này xuất phát từ
nguyên lý về sự phát triển và quan điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình
hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ thấp đến cao, từ
giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái mới tiến bộ ra
đời thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ biến vì trong thế giới khách
quan, không có sự vật hiện tượng (SVHT) nào đã đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận động, phát
triển không ngừng. Sự mất đi của 1 SVHT này là điều kiện ra đời của SVHT khác. Nguyên lý
này cũng khẳng định rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập trong chính bản thân sự vật hiện tượng hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại
bên trong SVHT, nó vạch ra cách thức của sự phát triển là vừa có tích lũy dần về lượng, vừa có
sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển chẳng qua là sự tăng giảm về lượng và chất (vừa có
tính liên tục, vừa có tính gián đoạn). Nguyên lý về sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải
chỉ có khuynh hướng đi lên mới được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được
diễn ra quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi
xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của đường xoáy tròn ốc. Trong xu hướng của
sự phát triển luôn có tính kế thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Quan điểm phát triển là phương pháp luận được rút ra từ của nguyên lý trên. Quan điểm
phát triển đòi hỏi để nhìn thấy được bản chất của SVHT, chủ thể phải xem xét các SVHT trong
trạng thái, xu hướng vận động, phát triển và dự đoán được các xu hướng biến đổi chuyển hóa
của chúng, nhìn thấy được cái mới, cái tiến bộ trong hiện tại cái cũ mặc dù cái mới nào lúc ra
đời cũng còn non yếu, bị cái cũ lấn áp để từ đó tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ lạc
hậu.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì
trệ và bệnh giáo điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là
tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng
lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua những định kiến. Bệnh bảo
thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi
thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở
những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự
10
vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh
giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng
được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn
đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2
thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối
quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của
địa phương khác vào địa phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa Ví dụ như trước đây ta
bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy
nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ ngành), hoặc về công
nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát
triển công nghiệp nhẹ Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý
chí là những căn bệnh chung của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở,
thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn
toàn đối lập với quan điểm bảo thủ trì trệ định kiến. và bệnh giáo điều. Trên cơ sở hiểu rõ quy
luật phát triển của sự vật một cách biện chứng, ta có thể khắc phục được bệnh bảo thủ trì trệ và
bệnh giáo điều thông qua việc từ bỏ lối nghiên cứu áp dụng lý luận một cách kinh viện, thuần
túy, chống lại tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn; từ bỏ những định kiến, đấu tranh với sức ỳ
trong nhận thức và hành động, tăng cường tổng kết thực tiễn từ quá trình vận động của các
SVHT để bổ sung phát triển lý luận. Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta
luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX
có viết : ... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai (trang 124)
Xét về khía cạnh tư tưởng, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái
đang có mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá
trình phát triển sự vật thường có sự biến đổi tiến lên nhưng cũng có cả những biến đổi thụt lùi.
Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy khoa học, ta có thể khái
quát được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đồng thời thấy được tính
quanh co phức tạp của quá trình phát triển, bước lùi của một sự vật hiện tượng trong giai đoạn
nào đó cũng là tất yếu trên con đường phát triển. Nhận thức đúng được xu hướng phát triển, ta
có thể tránh được những bi quan dao động trước sự thất bại tạm thời của cái mới, tạo được niềm
tin vào sự thắng lợi của cái mới, cái tiến bộ.
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là căn cứ
vào quan điểm phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất
thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang
ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta cũng như các
nước XHCN vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã nhận định :
CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và
sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật
tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Nhận định này phát xuất từ tình hình thực tế điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách
căn bản; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời lâm vào giai đoạn thoái trào
do tác động từ sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, CNTB tỏ ra còn khả năng
phát triển và đang có những âm mưu, thủ đoạn mới nhằm xóa bỏ hoàn toàn CNXH,
Sau
11
cách mạng tháng 10 Nga (năm 1917) nhiều nước đi vào con đường xây dựng CNXH và đã
được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự Nhưng bên cạnh đó, CNXH cũng
vấp phải những sai lầm nghiêm trọng mà hậu quả của nó là tình trạng trì trệ, khủng hoảng
KTXH trầm trọng, những điểm ưu việt thuộc bản chất của CNXH không thể hiện đầy đủ hoặc
không được thể hiện và thực hiện trong thực tế. Nhận thức được những sai lầm đó các nước
XHCN đã và đang tiến hành cải tổ, đổi mới coi như một tiến trình cách mạng nhằm khắc phục
khủng hoảng đưa XH tiến lên. Nhưng bên cạnh đó, một số nước tiếp tục mắc phải những sai
lầm nghiêm trọng mới (xa rời học thuyết Mác Lê nin, chấp nhận đa nguyên đa Đảng, thực hiện
dân chủ thiểu cận nhích gần đến trình trạng vô chính phủ, kẻ địch lợi dụng ) làm mất ổn định
chính trị, làm biến chất chế độ theo hướng tư bản chủ nghĩa mà điển hình là sự tan rã của Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu. Ngược lại với sự thoái trào tạm thời của CNXH, trước mắt
CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của KH và công
nghệ, cải tiến phương pháp quản lý thay đổi cơ cấu SX, điều chỉnh các hình thức sở hữu và
chính sách XH (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH). Bên cạnh đó,
quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan, ngày càng lôi kéo nhiều nước
tham gia và nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, do bản chất của CNTB vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công nên cần phải
thấy rằng mặc dù CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường
song không thể khắc phục nổi những mâu thuẩn vốn có, đặc biệt là mâu thuẩn giữa tính chất
XH hóa ngày càng cao của lực lượng SX với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu SX,
mâu thuẩn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển(VK ĐH Đảng IX,trang
64). Trong quá trình toàn cầu hóa, mâu thuẩn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp
tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản
lớn tiếp tục phát triển. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẩn đó và cuộc đấu tranh
của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của CNTB (Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH)
Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại
mới ngày càng chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi
mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi
mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và đang đạt những chuyển biến
tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII (12-1978) Đảng
cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định
hướng XHCN và từ đó đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không
ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc trên thế giới. Đối với nước ta, những thành
tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên
nhiều(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con
đường thẳng tấp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, quá trình quá độ tiến lên XHCN là
một quá trình dài đầy khó khăn, thử thách có những giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhưng cũng
có lúc thoái trào, có bước tiến nhưng cũng có bước lùi.nó có tiến, có thoái, quanh co khúc
khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
của ĐCS VN nhận định CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử
thế giới đang trãi qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử (trang 8)
Tóm lại, sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu
thuẩn, vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận giúp ta tránh
12