Xuồng ba lá là gì

Chèo xuồng ba lá dọc con kênh xanh, hai bên là những rặng dừa nước tỏa bóng mát. Khung cảnh mang đến cảm giác bình yên đến lạ, xoa dịu cả tâm hồn.

Nếu cảm thấy chán cuộc sống nơi phố thị phồn hoa, vào cuối tuần, bạn có thể rủ “đồng bọn” hoặc gia đình về vùng miền Tây sông nước chèo xuồng ba lá. Đây chắc chắn là một trải nghiệm tuyệt vời không thể nào quên được.

Xuồng ba lá - phương tiện di chuyển chủ yếu của miền sông nước

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất phù sa trù phú, quanh năm được bồi đắp bởi “chín con rồng lớn”. Nơi đây có nhiều sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, có những con đường nhỏ nối dài vào sâu trong những xóm làng. Phương tiện đi lại chủ yếu của người dân là ghe xuồng, các vùng đất thấp nối với nhau bằng cầu tre, cầu khỉ.

Xuồng ba lá là gì

Ca dao có câu:

“Dẫu xuồng ba lá lênh đênh

Cầu tre lắt lẻo, gập ghềnh khó đi…” 

...là như thế đó. Xuồng ba lá được xem là phương tiện chính yếu ở vùng đất mà lũ kéo dài tới 6 tháng mỗi năm như miền Tây. Nó gắn bó với con người nơi đây từ thuở thiếu thời cho đến lúc tuổi xế chiều.

Từ một phương tiện thông dụng ở miệt sông nước, xuồng ba lá dần được người dân khai thác, đưa vào phục vụ du lịch. Điều này tạo nên những trải nghiệm chân thật hơn, gần gũi hơn cho du khách gần xa hơn là những gì trong sách vở hay văn chương từng viết.

Xuồng ba lá là gì

Đến với miền Tây, bạn sẽ được thử cảm giác chèo xuồng ba lá quanh những rặng dừa. Nguồn: www.yong.vn

Chèo xuồng ba lá - trải nghiệm hòa mình với thiên nhiên

Hiện nay, tại An Giang, Bến Tre, Đồng Tháp,... đã tổ chức nhiều tour du lịch miệt vườn. Trong đó có hoạt động chèo xuồng ba lá quanh các con kênh rạch ngoằn ngoèo làm du khách không khỏi thích thú.

Chiếc xuồng nhỏ vừa phải, chở được 4-5 người len lỏi qua từng rặng dừa nước, bờ kênh. Cô gái chèo xuồng ba lá hát vài câu vọng cổ, ngọt ngào như ru con người ta trở về thời thơ ấu. 

Xuồng ba lá là gì

Ngồi trên xuồng, bạn được dịp khám phá vùng đất mới. Nguồn: baoangiang.com.vn

Giữa sự đông đúc, khói bụi và cái nóng của thành thị thì “về quê” ngồi dưới bóng cây ăn trái xanh mát, người mùi hương của ruộng đồng, tham gia bắt cá dưới sông hay chèo xuồng ba lá thì còn gì tuyệt vời hơn!

Đặc biệt, bạn có thể trải nghiệm cảm giác tự tay chèo xuồng dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của những cô thôn nữ. Ngồi trên mặc nước đung đưa theo nhịp, du khách cũng có thể thoải mái chụp ảnh, quay phim, quẫy tay dưới dòng nước mát lạnh đục màu phù sa... Chiếc xuồng nhỏ sẽ đưa bạn len lỏi qua vùng quê yên bình, đậm chất miền Tây sông nước để cảm nhận hết cái đẹp tuyệt mĩ mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng. 

Xuồng ba lá là gì

Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho miền Tây một không gian quá đỗi bình yên. Nguồn: luhanhquocte.net

Ở quê mùa nào cùng đẹp. Nhưng có dịp du lịch, trải nghiệm chèo xuồng ba lá vào những tháng hè, bạn sẽ được nhìn thấy những vườn trái cây sai trĩu quả như: sầu riêng, chôm chôm, măng cụt, mận,...

Xuồng ba lá là gì

Trải nghiệm chèo xuồng dưới hàng cây sai quả. Nguồn: foody.vn

Giao thông phát triển đến các vùng quê miền Tây, cũng từ đó mà đường xá được mở ngày càng nhiều. Nhưng không vì thế mà con người miệt sông nước quên đi phương tiện đã gắn bó từ thời thơ ấu - chiếc xuồng ba lá. 

Chèo xuồng ba lá - mãi là hoạt động văn hóa tươi đẹp mà miền Tây muốn giới thiệu đến bạn bè gần xa trong nước và cả bạn bè quốc tế.

Hồi đầu năm nay, một anh bạn ở Hãng phim TFS của Đài Truyền hình Sài Gòn “a-lô” cho tôi từ Cà Mau, nhờ tôi tìm giúp một cô gái đội nón lá, mặc áo bà ba, quần lãnh đen, chèo xuồng ba lá. Anh ta đang quay phim tài liệu gì đó. Sau này mới biết, cảnh chèo xuồng mà anh muốn quay là để minh hoạ cho mấy câu thơ:

Ở đây là rừng và biển kề ở đó

Sóng dựng trước vàm trắng xoá trùng khơi

Dáng em nghiêng chèo trong mưa bay lất phất

Áo bà ba cất giấu một chân trời.

Xuồng ba lá là gì
Xuồng ba lá là phương tiện lưu thông phổ biến một thời ở vùng sông nước Cà Mau. Ảnh tư liệu

Cà Mau thì người quen của tôi còn nhiều. Nhưng rốt cuộc, mất gần một tuần, tôi cũng không giúp được anh ta. Cô gái thì có, nón lá thì có, áo bà ba cũng có luôn, nhưng chiếc xuồng ba lá kiếm không ra. Xuồng composite na ná như xuồng ba lá thì cũng kiếm được, nhưng không có bổ chèo. Cặp chèo đước bây giờ không phải dễ kiếm. Đành thua. Nếu có một người dân Cà Mau nào đó vượt biên qua Mỹ, nghe được chuyện này chắc họ sẽ sửng sốt tự hỏi: “Cà Mau mà không có xuồng ba lá thì người ta sống cách nào?”.

Miền Tây Nam Bộ là vùng nhiều sông rạch hạng nhứt nước ta. Thế giới cũng không mấy nơi có như vậy. Về khoản sông rạch thì Cà Mau là nhứt miền Tây Nam Bộ. Nhớ chừng chừng thì đâu giữa những năm 1980, tôi có đưa ông nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường xuống tới xóm Mũi. Sau một ngày đường, khi tới nhà chú Ba Nhớ, phát biểu cảm tưởng đầu tiên của ông nhà văn Huế là, sông rạch Cà Mau phức tạp hơn lộ xe của thành phố Sài Gòn. Ở Sài Gòn, lỡ có đi lạc thì còn hỏi để biết đường về. Lạc trong mê cung sông rạch Cà Mau, chỉ có… chết!

Ngày nay, lộ xe đã đi tới mọi nơi trong tỉnh Cà Mau. Thành tựu đáng kinh ngạc này cũng chỉ mới có được chừng hơn ba chục năm trở lại đây thôi. Gần ba trăm năm trước đó, cư dân vùng đất này chỉ di chuyển bằng con đường duy nhứt: thuỷ lộ. Cho nên, ai đã đến đất này, muốn làm người Cà Mau, thì có hai thứ phải biết, là chèo chống và bơi lội.

Không kể những ghe tàu vận chuyển đường xa, có trọng tải lớn, việc đi lại trên sông rạch và đồng ruộng Cà Mau ngày trước gần như chỉ có một loại phương tiện duy nhứt, là xuồng ba lá. Xuồng ba lá có đủ các hạng: nhỏ nhứt là be bảy, rồi đếm dần lên tới be mười. Nhưng chưa hết, còn có be mười kèm, là kèm lên thêm trên hai bên be xuồng hai miếng ván nữa để tăng sức chở. Loại be mười kèm này ước có thể chở được trên dưới một tấn.

Khi một chiếc xuồng be lớn tới tuổi hư rã, người ta có thể lấy ba tấm ván o bế lại để đóng một chiếc xuồng nhỏ hơn. Cứ vậy cho tới khi nó không còn làm xuồng được nữa, thì trở thành cái bàn học cho trẻ con trong những mái trường làng, hay thậm chí thành... máng cho heo ăn. Nói việc này để biết, ván đóng xuồng ba lá không hề có ở rừng Cà Mau. Do không có nên nó luôn là vật hiếm, luôn được tận dụng. Ván để đóng xuồng ba lá được khai thác từ những loài cây của rừng mưa nhiệt đới như miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hay bên Campuchia. Vên vên, một loài cây nằm trong nhóm họ dầu, là loại gỗ tốt nhứt để đóng xuồng ba lá, vì nó chịu bền trong nước. Có một loại gỗ nữa, rẻ tiền hơn, không bền bằng vên vên, nhưng chịu nước cũng khá tốt, là gòn rừng, một loài cây trong nhóm họ gạo.

Khi những chiếc máy đuôi tôm đầu tiên du nhập vào Cà Mau thì chiếc vỏ lãi còn chưa ra đời. Xuồng ba lá trở thành chiếc xuồng có gắn động cơ đầu tiên. Cũng chẳng phải cải tiến gì nhiều, chỉ cần cưa bớt cái mũi xuồng phía sau cho láp máy đừng vướng, gắn thêm cái bổ máy bằng gỗ, là xong. Về sự kiện này, nếu so với đời sống người thành thị, thì chiếc xuồng ba lá từ “xe đạp” đã lên đời thành “honda”. Nhưng trước khi được lên đời với chiếc máy đuôi tôm, chiếc xuồng ba lá cũng đã được “săn sóc” rất kỹ lưỡng. Việc o bế, trang bị cho chiếc xuồng được nhiều người coi như một thú chơi điệu nghệ: xuồng phải “uống” dầu trong (nhựa cây dầu); sạp xuồng phải từ mũi chí lái; cặp chèo đước phải dịu, bắt nước; quai chèo phải bằng lưới ni-lông; khoang tát nước không có đồ tát nước (xuồng rất khô), cả dây cột xuồng cũng phải được “trang bị” đủ dài.

Trên miền sông nước Cửu Long có đủ thứ xuồng chớ không chỉ có xuồng ba lá: xuồng cui, xuồng tam bản, xuồng năm quăng... Nếu nhờ một người ở đồng bằng sông Cửu Long giùm kể tên các loại xuồng, e rằng khó tìm được ai thống kê đầy đủ. Là do ghe xuồng ở mỗi vùng thường khác nhau, đôi khi khoảng cách cũng không phải xa lắm. Dân Cà Mau đi xuồng ba lá, nhưng dân Cần Thơ thì đi xuồng tam bản, loại xuồng ghép từ nhiều miếng ván, thân ngắn, dày, chắc, nặng.

Vậy tại sao dân Cà Mau chỉ đi xuồng ba lá?

Cà Mau là vùng đất định dạng sau cùng của đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, đất ở đây còn thấp hơn, còn tranh chấp mặn - ngọt. Để giữ nước ngọt làm ruộng, lập vườn, người ta phải đắp đập, xuồng đi tới đập phải kéo qua. Xuồng ba lá nhẹ, dễ kéo. Tam bản nặng, không kéo nổi. Nhưng Cần Thơ thì chẳng có đập ngòi gì, vì đâu cũng nước ngọt, tam bản đi thông thương, lại đằm, không chao lắc. Xem kỹ thì cũng không có gì khó hiểu. Cũng vì lẽ này mà chiếc cầu kéo đập mới xuất hiện đầu tiên trên đất Cà Mau.

Ngày xưa, chèo xuồng trên những dòng sông Cà Mau, dọc triền sông là những rặng dừa nước ngút ngàn. Thỉnh thoảng lại gặp một khoảng trống, đó là bến nước của từng nhà. Ở mỗi bến nước đều có một cái rạp lợp lá de ra mé nước làm nơi đậu xuồng. Mọi cuộc ra đi và trở về của con người ở đây đều bắt đầu và được chờ đợi từ những bến sông này. Sự chờ đợi ấy đôi khi là một kết cuộc hân hoan, nhưng cũng có những kết cuộc ngậm ngùi. Người ra đi cũng có người trở về, nhưng có người không. Những cuộc chia xa nhiều khi rồi quay lại, nhưng không ít khi là mãi mãi. Bởi thế nên người viết bài này cũng đã có lần buộc viết ra mấy câu thơ:

“Giá mờ sương ấy con chim két

Đừng bi bô trộm trái vườn sau

Bến nước em chèo đi mất biệt

Dây xuồng đâu buột khổ đời nhau”.

Nguyễn Trọng Tín