Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Trong cuộc họp kéo dài đúng 90 phút, nơi các quan chức cấp cao Đức Quốc xã được phục vụ rượu và đồ nhắm, chủ đề chính được thảo luận là "Những bước hoạch định về tổ chức, hậu cần và vật chất cho giải pháp cuối cùng với người Do Thái ở châu Âu". Kết quả là kế hoạch diệt chủng người Do Thái (Holocaust) được lập ra.

Biên bản cuộc họp được đánh máy trên 15 trang giấy không đề cập rõ ràng đến hành vi giết người. Thay vào đó, họ sử dụng các cụm từ như "sơ tán", "giảm thiểu" hay "điều trị" và phân chia nhiệm vụ giữa các cơ quan chính phủ khác nhau với "những chuyên gia thích hợp".

"Bạn đọc biên bản và cảm thấy lạnh sống lưng", Deborah E. Lipstadt, học giả nổi tiếng nghiên cứu về nạn diệt chủng người Do Thái, cho biết. "Tất cả đều là ngôn ngữ ngụy trang. Nhưng sau đó, bạn nhìn vào danh sách các quốc gia và số lượng người Do Thái mà họ định giết. Họ nhắm tới 11 triệu người. Họ đã lên một kế hoạch lớn".

Những người sống sót trong thảm họa Holocaust tại trại tập trung Auschwitz-Birkenau của Đức Quốc xã ở Ba Lan vào năm 1945, sau khi nơi này được giải phóng. Ảnh: Reuters.

80 năm sau, cuộc họp định mệnh bên hồ Wannsee gây chú ý trong bối cảnh những người sống sót sau thảm họa diệt chủng năm xưa đang ngày càng ít dần. Chủ nghĩa bài Do Thái cũng như tư tưởng người da trắng thượng đẳng đang trỗi dậy mạnh mẽ ở châu Âu và Mỹ. Trên khắp thế giới, ngày càng xuất hiện nhiều cuộc tấn công nhằm vào người Do Thái và các dân tộc thiểu số khác.

Tại Đức, nơi nạn bài Do Thái cũng đang có chiều hướng gia tăng, giới chức đã công khai cảnh báo rằng chủ nghĩa cực hữu cực đoan và khủng bố là mối đe dọa lớn nhất với nền dân chủ.

Ngày nay, biệt thự ba tầng trên bờ hồ từng là nhà khách của Đức Quốc xã và là nơi tổ chức Hội nghị Wannsee trông bề ngoài hầu như không thay đổi. Suốt nhiều thập kỷ sau đó, chính quyền Tây Đức đã phải đau đầu trước câu hỏi phải làm gì với tòa nhà.

Trong khi những người sống sót thúc ép chính phủ biến nó thành nơi để tìm hiểu về thảm họa diệt chủng và ghi lại tội ác của phát xít, giới chức lại tỏ ra lưỡng lự. Một số người bày tỏ quan ngại rằng biệt thự sẽ trở thành nơi hành hương của những phần tử ủng hộ Đức Quốc xã. Số khác thì muốn san bằng nó để xóa sổ hoàn toàn mọi thứ thuộc về "ngôi nhà kinh hoàng này".

Joseph Wulf, thành viên phong trào kháng chiến Do Thái đã thoát khỏi cuộc đại diệt chủng và trở thành nhà sử học nổi tiếng sau chiến tranh, từng dẫn đầu một chiến dịch yêu cầu biến biệt thự thành khu tưởng niệm và viện lịch sử. Phía trên bàn viết của mình, ông ghim một dòng chữ bằng tiếng Do Thái tưởng nhớ 6 triệu người Do Thái đã bị Đức Quốc xã sát hại: "Hãy nhớ!!! 6.000.000".

Đề xuất của Wulf liên tục bị từ chối và trong một bức thư gửi cho con trai mình vào năm 1974, ông đã tỏ rõ nỗi tuyệt vọng: "Bạn có thể cung cấp cho người Đức bằng chứng cho đến khi kiệt sức", ông viết. "Đây là chính phủ dân chủ nhất từng tồn tại nhưng những kẻ sát nhân hàng loạt vẫn tự do đi lại, sở hữu những ngôi nhà nhỏ và trồng hoa trên chúng". Wulf tự sát vài tháng sau đó.

Những năm 1980, ngôi biệt thự trở thành nhà trọ cho các thanh niên trong những chuyến đi học xa. Chỉ sau khi nước Đức tái thống nhất, vào năm 1992, nó mới được biến thành một khu tưởng niệm.

Đối với nhiều người, kỷ niệm Hội nghị Wannsee có lẽ ít quan trọng hơn so với sự kiện giải phóng trại tử thần Auschwitz hay cuộc nổi dậy ở khu ổ chuột Warsaw, vốn tập trung vào các nạn nhân của khủng bố Đức Quốc xã. Nhưng đây là ngày hiếm hoi mà các thủ phạm gây ra họa diệt chủng Do Thái tập trung lại một chỗ, đồng thời cho thấy mức độ tàn khốc của bộ máy diệt chủng của phát xít Đức.

Người chủ trì cuộc họp hôm đó là Reinhard Heydrich, giám đốc quyền lực của cơ quan an ninh và lực lượng Waffen SS, "đội quân đồ tể" tàn bạo bậc nhất phát xít Đức. Heydrich được Hermann Goring, cánh tay phải của Hitler, giao phụ trách lên kế hoạch cho "giải pháp cuối cùng" và phối hợp thực hiện nó với các ban ngành khác trực thuộc chính phủ.

Những người được Heydrich mời họp đều là quan chức cấp cao trong chính quyền Đức Quốc xã. Hầu hết trong số họ ở độ tuổi ngoài 30, 9 người có bằng luật, hơn một nửa có bằng tiến sĩ.

Trong lúc họ tập trung quanh một chiếc bàn nhìn ra hồ Wannsee, tội ác diệt chủng vẫn diễn ra. Việc trục xuất và sát hại người Do Thái ở các vùng lãnh thổ phía đông đất nước đã bắt đầu từ mùa thu trước, nhưng cuộc họp ngày 20/1/1942 đã đặt nền móng cho một cỗ máy giết người hàng loạt có sự tham gia của toàn bộ bộ máy Đức Quốc xã và cuối cùng là hàng triệu người Đức trong các vai trò khác nhau.

Adolf Eichmann, quan chức đứng đầu bộ phận "trục xuất và các vấn đề liên quan đến người Do Thái" thuộc Bộ Nội vụ, người sau này sẽ đảm nhận việc đưa người Do Thái tới các trại tử thần, được yêu cầu lập biên bản cuộc họp. Chỉ một trong 30 bản sao của biên bản 15 trang cộp dấu "mật" còn được lưu lại đến ngày nay. Nó được lính Mỹ phát hiện trong hồ sơ của Bộ Ngoại giao Đức Quốc xã sau chiến tranh.

Biên bản của Eichmann đã tóm tắt phạm vi nhiệm vụ trong một bảng thống kê chi tiết về dân số Do Thái trên khắp châu Âu, không chỉ bao gồm Liên Xô mà còn cả Anh, Ireland và Thụy Sĩ.

"Việc di cư hiện được thay thế bằng cách di tản người Do Thái về phía đông như một giải pháp khả thi khác", biên bản có đoạn. "Trong quá trình giải quyết câu hỏi cuối cùng về người Do Thái này, khoảng 11 triệu người Do Thái sẽ được xem xét".

Tài liệu sau đó tiếp tục trình bày một số chi tiết trong giải pháp cuối cùng.

"Người Do Thái sẽ được điều đến lao động ở phía đông theo cách phù hợp", biên bản cho hay. "Phân theo các nhóm lớn, chia theo giới tính, những người Do Thái có khả năng lao động sẽ được cử đến các vùng này để xây dựng đường sá. Trong quá trình đó, chắc chắn một phần lớn sẽ bị loại bỏ nhờ sàng lọc tự nhiên. Những người cuối cùng còn lại phải được quan tâm phù hợp vì chắc chắn họ đại diện cho những bộ phận kháng cự mạnh nhất".

Biệt thự ở Wannsee, nơi các quan chức Đức Quốc xã lên kế hoạch Holocaust vào năm 1942. Ảnh: AP.

"Những người Do Thái sơ tán trước tiên sẽ được đưa theo từng nhóm đến cái gọi là các khu quá cảnh, từ đó họ sẽ được chuyển về phía đông", văn bản tiếp tục. "Liên quan đến cách thức thực hiện giải pháp cuối cùng ở các lãnh thổ châu Âu mà chúng ta đang kiểm soát hoặc có ảnh hưởng, chúng tôi đề nghị các chuyên gia liên quan trong Bộ Ngoại giao nên trao đổi với quan chức có trách nhiệm của Cảnh sát An ninh và SD".

Ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản không mang sắc thái chết chóc, nhưng ai cũng hiểu mục tiêu mà nó hướng đến: "Loại bỏ hoàn toàn người Do Thái ở châu Âu", như Joseph Goebbels, lãnh đạo cơ quan tuyên truyền của Hitler, viết trong nhật ký sau khi đọc biên bản.

15 người dự Hội nghị Wannsee đều trực tiếp tham gia vào kế hoạch diệt chủng người Do Thái. Một số chỉ huy hoặc tổ chức các đội giết người, số khác xây dựng cơ sở pháp lý cho tội ác này.

6 người trong số họ đã chết vào năm 1945. Chỉ có hai người hầu tòa vì vai trò trong kế hoạch Holocaust sau chiến tranh. Eichmann bị hành quyết ở Israel sau nhiều năm lẩn trốn ở Argentina. Wilhelm Stuckart, đồng tác giả của luật chủng tộc Nuremberg, được trả tự do vào năm 1949.

Ba người khác bị xét xử vì những tội danh không liên quan và được tuyên mức án nhẹ, trong khi 4 người không bao giờ bị kết tội. Gerhard Klopfer, một quan chức cấp cao trong bộ máy của Hitler, đã làm luật sư suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Khi Klopfer chết vào năm 1987, gia đình ông đưa ra một bản cáo phó, trong đó ghi rằng ông đã sống "một cuộc đời viên mãn, vì lợi ích của tất cả những ai thuộc phạm vi ảnh hưởng của ông".

80 năm sau Hội nghị Wannsee và 77 năm sau khi Thế chiến II kết thúc, các nhân chứng cho những hành động tàn bạo của Đức Quốc xã đang chết dần.

Khi tiến sĩ Lipstadt, 74 tuổi, lần đầu tiên giảng dạy về Holocaust hơn ba thập kỷ trước, bà rất dễ dàng tìm thấy những người sống sót để trò chuyện với các sinh viên của mình. "Bây giờ, tôi chỉ hy vọng có thể tìm thấy một người đủ sức khỏe để đến dự giờ học cùng chúng tôi", bà nói.

Vũ Hoàng (Theo NY Times)

Thượng Hải từng cứu người Do Thái khỏi nạn diệt chủng

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Đó là một biểu tượng trông hoàn toàn không đúng chỗ. Ở trung tâm Thượng Hải, gần cụm những cao ốc lấp loáng, tôi nhìn thấy một tòa nhà gạch nhuốm màu thời gian được trang trí với một Ngôi sao David.

Biểu tượng Do Thái này quá nhỏ, đến nỗi chỉ có vài người qua đường nhận thấy. Tuy nhiên, nó làm chứng cho một trong những câu chuyện phi thường nhất trong lịch sử Thượng Hải, vốn diễn ra trong khu Đề Lam Kiều (Tilanqiao) này.

Ngôi làng che giấu hàng ngàn người Do Thái

Khám phá nước Mỹ theo cách mới trên lối mòn cũ

Thị trấn ở Anh, cái nôi của những giáo phái bí ẩn kỳ dị

Chạy trốn đàn áp

Đối với hàng ngàn người tuyệt vọng trong thập niên 1930, đô thị Trung Quốc này là cứu cánh cuối cùng.

Khi ấy, hầu hết các quốc gia và thành phố trên thế giới đã hạn chế nhập cảnh đối với người Do Thái tìm cách chạy trốn sự đàn áp bạo lực của Đức Quốc xã. Tuy nhiên, Thượng Hải thì không.

Ốc đảo đa văn hóa này - bao gồm cư dân Anh, Pháp, Mỹ, Nga và Iraq - là một trong số rất ít nơi dân tị nạn Do Thái đảm bảo được chấp nhận, không cần xin thị thực.

Mặc dù Thượng Hải cách nhà của họ ở Đức, Ba Lan và Áo hơn 7.000 km, hơn 20.000 người Do Thái vô tổ quốc đã chạy đến thành phố lớn nhất Trung Quốc để trốn thoát nạn diệt chủng trong thời gian từ 1933 đến 1941.

Thượng Hải không chỉ là nơi trú ẩn an toàn. Nó cũng là thành phố hiện đại với một cộng đồng Do Thái Nga vững chắc, mà một thập kỷ trước đó đã xây dựng tòa nhà có Ngôi sao David: Giáo đường Ohel Moshe.

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một Ngôi sao David trên ngôi nhà gạch cũ ở Thượng Hải là dấu tích ghi nhận quá khứ đáng nhớ của người Do Thái tại thành phố này

Lúc đầu, cuộc sống ở Thượng Hải rất yên bình cho những cư dân mới nhất này. Những người tị nạn Do Thái được người dân Thượng Hải chào đón và họ đã tạo nên một cộng đồng mạnh mẽ với các trường học và khung cảnh xã hội sống động. Một số người tị nạn bắt đầu làm nha sĩ và bác sĩ, còn những người khác mở cửa hàng, quán cà phê và câu lạc bộ trong khu vực.

Sealand, 'Cuba ngoài khơi' phía đông nước Anh

Thành phố Hy vọng ở thiên đường du lịch Maldives

Baiae, thành phố La Mã xa hoa chìm xuống biển

Điều mà người tị nạn không thể lường được là họ chạy khắp thế giới để cuối cùng rơi vào nanh vuốt của đồng minh mạnh nhất của Đức Quốc xã.

Năm 1941, Nhật chiếm Thượng Hải. Theo hướng dẫn của Đức Quốc xã, quân đội Nhật đã tập hợp tất cả người Do Thái của thành phố và nhốt họ ở Đề Lam Kiều. Khu ổ chuột Do Thái ở Thượng Hải ra đời từ đó.

'Thiếu thốn và trầm uất'

Lịch sử đen tối này xoáy trong tâm trí tôi khi tôi dừng lại trước một tấm biển đá trong Công viên Hoắc Sơn (Huoshan) của Đề Lam Kiều, không gian xanh nhỏ và thanh bình với những lối đi quanh co qua cây cối sum suê.

Một nhóm cụ ông Trung Quốc ngồi trên băng ghế nhìn tôi với vẻ mặt khó hiểu khi tôi chụp ảnh tấm bảng.

Tuy lịch sử Do Thái của Đề Lam Kiều thu hút một lượng nhỏ du khách quốc tế, nhưng khu vực này vẫn nằm ngoài tuyến du lịch chính của thành phố.

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Như tấm bảng giải thích (bằng tiếng Anh, tiếng Quan Thoại và tiếng Do Thái), khu vực xung quanh Công viên Hoắc Sơn này là địa điểm của khu ổ chuột Do Thái.

Sức quyến rũ kỳ lạ của những thành phố đã mất

Cảng Hoàng Gia, ổ cướp biển trụy lạc, tàn bạo của Jamaica

Gặp 'người Samari nhân lành' của Kinh Thánh

Phía bắc giáp đường Chu Gia Chủy (Zhoujiazui Road), phía nam giáp đường Huệ Dân (Huimin Road), phía đông giáp đường Thông Bắc (Tongbei Road) và phía tây giáp đường Công Bình (Gongping Road), khu ổ chuột có kích thước khoảng 1 dặm vuông.

Hơn 15.000 người Do Thái sống bên trong những ranh giới đó vào đầu những năm 1940, và Công viên Hoắc Sơn có vai trò như một dạng phòng khách công cộng nơi nhiều người Do Thái tụ tập vào ban ngày.

Không giống như một số khu ổ chuột Do Thái ở châu Âu vào thời điểm đó, Đề Lam Kiều không bị rào lại. Tuy nhiên, đó là một nơi thiếu thốn và trầm uất, theo Dvir Bar-Gal, nhà báo Israel và chuyên gia về lịch sử Do Thái ở Thượng Hải, vốn đã hướng dẫn các tour du lịch đến Đề Lam Kiều từ năm 2002.

"Hãy tưởng tượng một bác sĩ, luật sư hoặc nhạc sĩ sống ở Vienna đột nhiên bị thất nghiệp ở khu ổ chuột của Thượng Hải," Bar-Gal giải thích.

"Vì vậy, đó không phải là nơi hạnh phúc. Nhưng họ cố gắng duy trì nếp sống Do Thái bằng cách thực hành các truyền thống như sân khấu và âm nhạc. Họ kiếm được chẳng bao nhiêu với những công việc này nhưng cuộc sống Do Thái đã được phát huy ở Đề Lam Kiều vào thời thập niên 1930."

Theo Bar-Gal, ngay cả trước cuộc xâm lược của Nhật, nhiều người tị nạn Do Thái ở Đề Lam Kiều sống trong nghèo đói so với cuộc sống thoải mái của họ ở châu Âu.

Điều kiện sống trở nên tồi tệ hơn rất nhiều sau khi lính Nhật Bản gom lại người Do Thái từ khắp Thượng Hải và bắt toàn bộ bọn họ phải sống trong phạm vi khu ổ chuột mới được thành lập này.

Người Do Thái bị cấm ra khỏi địa phận, thậm chí là để làm việc, trừ khi họ nhận được các sĩ quan Nhật cho phép, vốn hiếm khi xảy ra.

Bệnh tật và suy dinh dưỡng hoành hành những ngôi nhà tập thể đông đúc ghê gớm. "Nó đã từ một khu phố nghèo trở thành khu phố cực kỳ nghèo," Bar-Gal nói. "Nhiều người không có việc làm và sống trong nhà tập thể có nhiều giường với phòng tắm và nhà bếp chung. Họ không có sự riêng tư và hầu như không có thức ăn."

'Con tàu Noah'

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Ngày nay, nhiều những tòa nhà có từ thời khu ổ chuột Do Thái vẫn còn tồn tại, nhưng Đề Lam Kiều đã trở thành một khu đẹp đẽ ở Trung Quốc

Tuy nhiên, trong khi sáu triệu người Do Thái bị sát hại trong nạn diệt chủng và có tới 14 triệu quân, dân Trung Quốc thiệt mạng trong cuộc chiến với Nhật Bản từ năm 1937 đến năm 1945, thì đa số người tị nạn Do Thái ở Thượng Hải sống sót.

Kỳ tích này được nhà sử học David Kranzler mô tả là 'Phép lạ Thượng Hải', và theo Bar-Gal, họ sống sót vì người Do Thái không phải là mục tiêu chính của quân đội Nhật.

Năm 1945, khi Đệ nhị Thế chiến kết thúc với thất bại của Nhật và Đức Quốc xã, quân đội Nhật rút lui và hầu hết người Do Thái ở Thượng Hải nhanh chóng rời đi, chuyển đến những nơi như Mỹ, Úc và Canada.

Nhưng nếu Thượng Hải không nhận những người tị nạn này, nhiều người trong số hơn 20.000 người Do Thái này có lẽ đã không thể sống sót được trước các biệt đội tử thần của Đức Quốc xã.

Ngày nay, Đề Lam Kiều là một khu hoàn toàn Trung Quốc và hầu như không có ai là người nước ngoài.

Chưa tới 2.000 người Do Thái hiện đang sống ở Thượng Hải, giảm từ khoảng 4.000 người trước đại dịch virus corona, Bar-Gal cho biết.

Không ai trong số họ, theo như ông biết, là họ hàng của những người tị nạn đã từng sống trong khu ổ chuột này. Nhưng nhiều hậu duệ của những người đã ẩn náu ở đây - những người nếu không có khu ổ chuột này thì đã không được ra đời - đã đến thăm Đề Lam Kiều.

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Hồi thập niên 1930, Thượng Hải là một trong số ít những nơi trên thế giới cưu mang người Do Thái chạy trốn Phát xít Đức

Trước đại dịch, Bar-Gal thường cho du khách Do Thái thấy nơi sống của tổ tiên họ giữa nhiều ngôi nhà thấp, xiêu vẹo ở Đề Lam Kiều.

Ông có cảm giác nhớ trải nghiệm này, sau khi tạm ngưng các tour du lịch và rời Thượng Hải vào năm ngoái do bùng phát dịch.

Tuy nhiên, khi ông vắng mặt, câu chuyện về khu ổ chuột Do Thái khó tin này không hề nhạt nhòa, nhờ vào Bảo tàng Người tị nạn Do Thái Thượng Hải, nằm trong khuôn viên Giáo đường Ohel Moshe.

Nơi thờ phụng Do Thái này đóng vai trò là tụ điểm cộng đồng của Đề Lam Kiều trong Đệ nhị Thế chiến.

Sau đó, vào năm 2007, nó đã được chuyển đổi thành bảo tàng và được mở cửa trở lại vào tháng 12 năm ngoái, sau một đợt mở rộng lớn và được dành riêng để gìn giữ câu chuyện ít được biết đến về làm cách nào Thượng Hải trở thành như 'Con tàu Noah' thời hiện đại đối với người Do Thái, như trình bày trên trang web của bảo tàng.

Sự khoan dung của Thượng Hải

Phòng cầu nguyện của giáo đường có vai trò như là cổng vào bảo tàng, và không bị thay đổi do nó được sử dụng thường xuyên.

Các hiện vật cho thấy cộng đồng Do Thái ở Đề Lam Kiều đã hình thành như thế nào, cũng như những câu chuyện cá nhân gần gũi về người tị nạn Do Thái, theo Sophia Tian, giám đốc Phòng Triển lãm và Nghiên cứu của bảo tàng.

Tôi đặc biệt ấn tượng với câu chuyện của tiến sĩ Jacob Rosenfeld.

Là người tị nạn Do Thái, ông đến Thượng Hải từ Áo vào năm 1939 và sau đó gia nhập quân đội Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược Nhật, làm bác sĩ ngoài chiến trường và cứu sống nhiều binh sĩ Trung Quốc bị thương.

Sau khi được quân đội Trung Quốc trao một số huy chương, Rosenfeld trở về Áo vào năm 1949 để đoàn tụ với gia đình. Một hiện vật khác thể hiện hồi ức đầy cảm xúc của Jerry Moses, vốn chỉ mới sáu tuổi khi ông và gia đình chạy trốn từ Đức đến Thượng Hải vào năm 1941.

"Nếu người dân Thượng Hải không khoan dung như vậy, cuộc sống của chúng tôi sẽ khốn khổ," Moses được dẫn lời nói. "Ở châu Âu, nếu một người Do Thái trốn thoát, họ phải lẩn trốn, còn ở Thượng Hải này, chúng tôi có thể nhảy múa, cầu nguyện và làm ăn."

Bảo tàng cũng khuyến khích các tour đi bộ tự khám phá khu ổ chuột Do Thái bằng cách cung cấp các quyển hướng dẫn chi tiết giải thích và vẽ bản đồ các di tích lịch sử của người Do Thái ở Đề Lam Kiều, với các biển chỉ dẫn bằng tiếng Anh.

Lang thang trên các đường phố ở đây cho phép tôi tưởng tượng Đề Lam Kiều trông như thế nào hồi 80 năm trước, khi quân đội Nhật tràn ngập Thượng Hải.

Dấu tích còn lại

Công trình đầu tiên tôi bắt gặp là Nhà tù Đề Lam Kiều cũ đồ sộ.

Trong Đệ nhị Thế chiến, quân Nhật đã tống giam hàng chục người tị nạn Do Thái và những người Trung Quốc chống đối trong những bức tường đá dày ở đây.

Sự tàn bạo của người Nhật đã đem đến cho người Do Thái và người Trung Quốc một kẻ thù chung và trải nghiệm giống nhau. Kết nối này vẫn còn mạnh mẽ, theo Tian.

"Cộng đồng Do Thái đã thiết lập một mối quan hệ, sự hợp tác và tình cảm nhất định với người dân Thượng Hải," bà nói. Họ mang văn hóa châu Âu đến Thượng Hải và sống hòa hợp và hòa nhập với cư dân địa phương về văn hóa.

Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn
Vì sao do thái diệt chủng facebook.com ww2vn

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Khu vực nằm quanh các phố Hoắc Sơn và Chu Sơn từng là nơi hoạt động chính của cộng đồng người Do Thái ở Thượng Hải

Tiếp theo, trên đường Trường Dương (Changyang Road), tôi đi qua một trong những khu nhà ở của người tị nạn Do Thái trước đây. Bây giờ chủ yếu là căn hộ, bảy tòa nhà nhiều tầng này chứa hơn 3.000 người Do Thái vào đầu những năm 1940.

Gần đó, khu vực dọc theo đường Hoắc Sơn và Chu Sơn (Zhoushan) là nơi từng được gọi là Tiểu Vienna và là nơi thịnh vượng nhất trong khu Do Thái Đề Lam Kiều.

Vào cuối thập niên 1930, những con đường này là xương sống của cộng đồng Do Thái ở Thượng Hải, tràn ngập các cơ sở kinh doanh Do Thái và các sự kiện xã hội thường xuyên tại Vườn Sân thượng Mascot bên trên Nhà hát Broadway cũ.

Tòa nhà theo phong cách art deco duyên dáng đó, hiện đang hoạt động như một khách sạn nhỏ, là nguồn vui cho người Do Thái ở đây trước Đệ nhị Thế chiến.

Tình bằng hữu đó chính là chìa khóa để duy trì tinh thần của cộng đồng Do Thái ở Thượng Hải, nhiều người trong số đó lúc đó vẫn còn thân nhân trong cảnh hiểm nghèo ở châu Âu.

Vào lúc các doanh nhân có triển vọng trên khắp thế giới tìm cách làm giàu đã biến Thượng Hải từ một làng chài nghèo nàn trở nên thành phố lớn thứ năm thế giới, Đề Lam Kiều không đem đến cho người tị nạn Do Thái sự giàu có hay sang trọng, mà là một thứ quý giá hơn nhiều: sự an toàn.

Tuy nhiên, bây giờ, tám thập kỷ sau, thế giới đang nghe những câu chuyện làm thức tỉnh về sự sinh tồn vốn diễn ra ở đây.

Và nếu bạn tìm kiếm một Ngôi sao David đơn độc, hãy tìm một tấm bảng đá nhỏ và bước vào một giáo đường Do Thái thiêng liêng vẫn còn đứng đó, bạn có thể tìm hiểu câu chuyện đầy cảm hứng về làm thế nào mà Trung Quốc chứa chấp những người Do Thái đang kinh sợ, không có quyền và tuyệt vọng trên quê hương họ.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Travel.