Trong tác phẩm cùng tên lão Hạc hiện lên là người như thế nào

Đề bài: Cuộc đời và tính cách nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao
Nam Cao. Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Tham gia vào dòng văn học 1930-1945 tuy là muộn so với các nhà văn khác nhưng bằng cách “khơi những nguồn chưa ai khơi” Nam Cao đã ghi vào lòng độc giả những ấn tượng riêng và có một vị trí đứng vững chắc. Ông viết rất nhiều tác phẩm như “Sống mòn”, “Một bữa no”, “Đời thừa”... nhưng không thể không kể tới tác phẩm “Lão Hạc”. Nhân vật Lão Hạc trong truyện là một nhân vật đã để lại trong người đọc ít nhiều suy nghĩ. Lão Hạc là một lão nông nghèo nhưng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng quý. Nhân vật Lão Hạc là nhân vật điển hình, đại diện cho mỗi tầng lớp người nông dân rơi vào hoàn cảnh trớ trêu nhưng toát lên những vẻ đẹp tâm hồn sáng trong. Lão Hạc có một cuộc đời hết sức bi thảm. Vợ lão mất sớm, một mình lão gà trống nuôi con. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Lão ngày ngày, vò võ mong mỏi con về, đơn độc, chỉ có con chó Vàng - kỉ vật của con bầu bạn cùng. Lão sống qua ngày, trong cái đói nghèo và đơn độc. Và chính vì đói, vì nghèo như thế, nên cuối cùng, lão phải bán đi người bạn duy nhất của lão, chỗ dựa cuối cùng của lão – cậu Vàng. Để giữ được tấm lòng thanh sạch của mình, lão phải ăn bả chó tự tử, chết như một con chó. Cuộc đời của lão Hạc là một cuộc đời đơn độc, quay quắt trong cái đói nghèo, bị cái đói nghèo đày đọa. Nam Cao đã thông qua cuộc đời của lão Hạc để tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến, dồn đẩy người nông dân tới bước đường cùng bằng tiếng nói đanh thép, nhưng không kém phần chua xót. Tuy ở một hoàn cảnh đáng buồn như vậy, nhưng lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu. Với cậu Vàng – kỉ vật của con trai lão, lão yêu quí nó như “một bà mẹ hiếm hoi yêu quý đứa con cầu tự”. Lão cưng nựng, vỗ về, vuốt ve nó; cho nó ăn cơm như nhà giàu ăn cơm bát; lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng, lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí có phần hơn lão... Lão cũng coi nó như một người bạn, ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là một con người. Lão đối với một con chó, một loài vật mà ông giáo cho là sinh ra để người ta giết thịt lại nhân hậu, yêu thương đến vậy thì với con người, lão con đối xử đến như thế nào nữa? Tấm lòng của lão quả thật khiến chúng ta cảm phục. Đối với cậu Vàng, lão yêu quí như vậy, thì đối với anh con trai của lão, thì tình cảm ấy còn được nhân lên gấp vạn lần. Chỉ vì nhà nghèo, không cưới được vợ cho con, làm con uất chí, bỏ đi đồn điền cao su mà lão tự dằn vặt mình mãi. Để cưới vợ, anh con trai đòi bán mảnh vườn, nhưng lão không cho không phải vì lão muốn giữ mảnh vườn cho lão, mà lão nghĩ nếu cưới vợ về, vườn bán rồi thì ở đâu mà làm ăn sinh sống, và rồi có bán thì cũng làm sao mà đủ tiền. Lão nghĩ thế, nhưng anh con trai có thấu cho lão?Anh bỏ đi đồn điền cao su, để lại lão ở nhà vò võ chờ con.Lão nghĩ tốt, lo cho tương lai con, nhưng khi con trai bỏ đi, lão lại tự dằn vặt mình, đày đọa tinh thần mình.Những câu nói lão nói với cậu Vàng, nhưng lại chất chưa biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương cho anh con trai. Lão nói với cậu Vàng đấy, nhưng lại như nói với con mình.Lão làm việc gì, lão suy nghĩ gì cũng là hướng về con trai mình. Tiền bòn vườn lão để dành, không tiêu tới để khi con trai về, lão nhẩm tính sẽ có gần trăm đồng bạc, thêm vào cho con cưới vợ và làm kế sinh nhai.Thế nhưng, lão lại ốm. Một cơn ốm kéo dài buộc lão phải tiêu tới số tiền đó. Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau lòng.Lão ăn vào tiền của con trai lão – số tiền mà khi con trai về lão định trả con. Điều này làm lão khổ tâm hết sức. Hành động của lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ cũng là để giữ hộ cho con lão : “của mẹ nó thì nó hưởng”. Mọi suy nghĩ, việc làm của lão đều hướng tới con trai. Thậm chí, cái chết của lão cũng là vì con.Lão chết để mở ra đường sống cho con lão, lão chết một cái chết trong sạch để lại tiếng thơm cho con vì lão sống ngày nào là ăn vào tiền, vào đường sống của con ngày ấy. Xưa nay, không ít người cha, người mẹ hi sinh cơm ăn, áo mặc vì con, hi sinh một phần thân thể vì con nhưng hi sinh cả mạng sống của mình như lão Hạc lại là một trường hợp hiếm thấy. Tình yêu con của lão Hạc thật đặc biệt. Không ồn ào, sôi nổi, không thể hiện qua hành động hay lời nói, lão lặng lẽ yêu con trong tâm tưởng, mọi hành động của con lão đều cho là do lão. Là do lão đẩy con tới những hành động ấy rồi tự dằn vặt mình, tự gánh lấy những suy nghĩ, hành động để chuộc lại lỗi lầm. Quả thật, tình yêu thương con của lão khiến chúng thật vô cùng cảm động. Lão Hạc mang một tấm lòng tự trọng cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ánh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A!Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à?”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão ăn bả chó cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị tha hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo... Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết con hơn. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.Tấm lòng nhân đạo của Nam Cao đã được thể hiện rất rõ. Thông qua cuộc đời bi thảm, nhưng phẩm chất thì sáng trong của lão Hạc, Nam Cao quả đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và chính điều này đã đưa ông lên một vị trí vững chắc trong dòng văn học 1930-1945. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc. Đây là một nhân vật điển hình, đại diện cho tầng lớp những người nông dân trong xã hội cũ: tuy đói nghèo nhưng có những phẩm chất cao đẹp. Nam Cao đã rất thành công trong cách xây dựng nhân vật. Thông qua cái nhìn ông giáo – một nhà trí thức, Nam Cao đã gián tiếp thể hiện tấm lòng của mình với người nông dân và đặt ra vấn đề “đôi mắt”: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương...”. Tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật rất rõ nét. Tâm lý nhân vật lão Hạc được thể hiện qua những hành động, lời nói của lão, nhiều đoạn đối thoại mà như độc thoại. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng nhiều khẩu ngữ, làm câu chuyện chân thực, sinh động, gần gũi với người nông dân.

Nhân vật lão Hạc quả thật đã để lại trong lòng người đọc ít nhiều suy nghĩ. Qua đó cũng thể hiện tài năng,tấm lòng của Nam Cao. Phải là một cây bút xuất sắc, một nhà văn thấu hiểu, am tường về người nông dân tới tận cùng, dành cho họ những tình cảm yêu mến, trân trọng cảm thông sâu sắc mới viết nên một truyện ngắn hay như thế. Với một nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, Nam Cao đã khẳng định được tên tuổi của mình. Ông đã “khơi được những nguồn chưa ai khơi” và ghi lại trong lòng độc giả những tình cảm yêu mến.

Bài 2:
1. Mở bài: - Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. - “Lão Hạc” là truyện ngắn tiêu biểu của ông viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng. Trong thiên truyện ngắn đặc sắc này, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật lão Hạc – một trong số những nhân vật đẹp nhất trong thế giới nghệ thuật của ông để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Đó là một người nông dân trong xã hội cũ tuy nghèo khổ, bất hạnh nhưng tâm hồn lại tỏa sáng những phẩm chất cao quí.

2. Thân bài:

* Hoàn cảnh sáng tác + Chủ đề:

- Nam Cao sáng tác truyện ngắn “Lão Hạc” vào năm 1943, trong hoàn cảnh sống dở chết dở của nhiều tầng lớp nhân dân. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực đen tối của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn khẳng định, ca ngợi nhân phẩm cao quí của những con người nghèo khổ.

* Khái quát về nhân vật:

- Lão Hạc là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Ở truyện ngắn này, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đi sâu vào phát hiện bi kịch tinh thần của người nông dân nghèo khổ. Bằng con mắt “cố tìm mà hiểu”, Nam Cao đã phát hiện ra một cuộc đấu tranh bảo vệ nhân phẩm của lão Hạc, từ đó hoàn thiện bức chân dung tinh thần của người nông dân nghèo khổ này.

a. Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ và bất hạnh:

- Lão Hạc không phải là hạng cùng đinh, nhưng lão cũng không thoát khỏi sự rượt đuổi của nghèo đói. Vì đói nghèo mà cuộc đời lão gặp biết bao nhiêu bất hạnh, khổ đau. Cái nghèo đã cướp mất đứa con trai duy nhất của lão. Vì không có tiền cưới vợ nên con trai lão phẫn chí bỏ đi biệt xứ. Vợ chết, con trai bỏ làng ra đi, lão Hạc trong tuổi già cô đơn sống thui thủi với con Vàng – con chó do con trai lão nuôi. Rồi bệnh tật, mất mùa, thấp nghiệp đã dồn lão vào cái đói, thực sự “đói deo đói dắt”. Cuối cùng không còn đường sống, lão Hạc đã tìm đến cái chết bằng bả chó. - Nam Cao đã miêu tả chi tiết cái chết thảm khốc, dữ dội của lão Hạc: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh một cái, nảy lên...Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết của lão Hạc là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách điển hình. Cái chết thê thảm, đau đớn của lão Hạc là cái chết tự nguyện nhưng cũng là do sự dồn đẩy của cái đói. Miêu tả một cái chết như thế, Nam Cao đã gieo vào lòng người đọc nỗi ám ảnh khinh hoàng về số phận bi thảm, bế tắc của người nông dân trong xã hội cũ. Nam Cao đã đứng về phía những người nghèo khổ, tố cáo xã hội đã dồn đẩy con người đến ức tuyệt vọng, đã bức tử sự sống của họ. b. Nhưng nếu Nam Cao chỉ xây dựng nhân vật lão Hạc như thế thì ông chưa thể trở thành nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Cái lớn của ngòi bút Nam Cao chính là chỗ nhà văn không chỉ miêu tả cuộc đời khốn khổ, bế tắc của lão Hạc mà còn phát hiện ra biết bao vẻ đẹp tâm hồn cao quý ở lão.

* Ở người nông dân nghèo khổ này, ta thấy sáng ngời một tình yêu thương con sâu nặng:

- Vợ mất, một mình lão sống trong cảnh “gà trống nuôi con”. Thương con trai côi cút, lão dành hết mọi tình cảm cho con. Chứng kiến nỗi tuyệt vọng của con khi bị người yêu phụ bạc lão đau đớn, dằn vặt, xót xa. Thương con nhưng lực bất tòng tâm, lão đành bất lực nhìn hình hài cốt nhục của mình được người ta mua bằng ba đồng bạc: “Thẻ của nó người ta giữ, hình của nó người ta đã chụp rồi, nó lại đã lấy tiền của người ta, nó là người của người ta rồi chứ đâu còn là con tôi?”. Trong lời nói nghẹn ngào của lão Hạc, ta cảm nhận được nỗi đau xót khôn cùng của người cha thương con mà không lo nổi hạnh phúc cho con. Đây là nỗi đau đớn dằn vặt của người cha vì nghèo mà đã để mất con. - Lão Hạc luôn ám ảnh về cái lỗi của người cha sinh con trong phận nghèo để con phải chịu bất hạnh. Điều đó cho ta hiểu tại sao rơi vào tình trạng cùng đường, lão vẫn chỉ nghĩ đến con. Lão hầu như quên đi những nhu cầu tối thiểu của bản thân: “Lão chế được món gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc”. Lão không dám xâm phạm vào tài sản của con dù chỉ là một chút. Lão chắt bóp, tằn tiện cũng là để vun vén cho con. Lão tự nhủ: “Cái vườn này là của con ta”, rồi lão lẩm bẩm tính: “Thế nào rồi đến lúc con lão về, lão cũng có được một trăm đồng bạc” để cho con làm vốn liếng. Thì ra trĩu nặng trong tâm trí lão Hạc vẫn là chuyện đứa con trai. Thì ra mọi tính toán, suy nghĩ của lão đều hướng về tương lai con. - Khi nghèo đói có thể khiến lão sẽ tiêu lẹm vào tài sản của con, lão đã âm thầm dọn đường cho bài toán cuộc đời mình. Lão bán con Vàng, viết giấy gửi mảnh vườn cho ông giáo rồi tìm đến cái chết bằng bả chó. Chọn đường quyên sinh để giữ cho con ba sào vườn là một sự lựa chọn nghiệt ngã, đau đớn. Không phải lão không quí sinh mạng của mình; lão đã rất bền bỉ để gắng sống, lão đã cố duy trì sự sống bằng mọi cách. Trong mòn mỏi, lão vẫn cố chờ con trai trở về. Người cha ấy muốn sống thế mà lại phải tìm đến cái chết. Tại sao lại như vậy? Bởi lão biết nếu lão cố duy trì sự sống, sống một cách lương thiện thì trước sau gì cũng phải tiêu lẹm vào tài sản của con. Vì tương lai của con, lão sẵn sằng hi sinh sự sống của mình. Sự hi sinh ấy thật cao cả song cũng thật xót xa cay đắng. - Cha mẹ thương con là thế đấy! Đó là một tình cảm mang tính bản năng, không có gì lạ. Song tình thương con của lão Hạc vẫn khiến người đọc cảm động đến rơi nước mắt. Bởi thế nếu coi truyện ngắn “Lão Hạc” là bài ca về tình phụ tử thì cũng không có gì là khó hiểu.

* Trong cái nhìn của nhà văn Nam Cao, lão Hạc không chỉ là người cha giàu đức hi sinh mà còn là người nông dân nhân hậu và lương thiện:

- Đặt nhân vật lão Hạc trong mối quan hệ với con Vàng – con chó do con trai lão nuôi –nhà văn đã làm ngời sáng nét đẹp tâm hồn ấy. Giữa lão Hạc với con Vàng không đơn thuẩn chỉ là mối quan hệ giữa người chủ và vật nuôi. Trong tuổi già cô đơn của lão Hạc, con Vàng là người bạn chia sẻ với lão những niềm vui, nỗi buồn. Không chỉ có vậy, con Vàng còn là kỉ niệm của con trai, là chút tài sản tinh thần quí giá. Bởi vậy, bao nhiêu tình thương đối với người con, lão đều dành hết cho con Vàng: Lão âu yếm gọi là “cậu Vàng như một bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. Thỉnh thoảng lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Không chỉ có thể, lão còn cho nó “ăn cơm trong cái bát như một nhà giàu”. Khi lão uống rượu “lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng, như người ta gắp thức ăn cho con trẻ”. Trong cái tình của lão đối với con Vàng dường như có cả tình cha con. - Khi lâm vào cảnh túng quẫn, cùng đường, lão đã tự đấu tranh với chính mình. Trước khi bán con Vàng, lão đắn đo do dự khiến ông giáo phát bực mình: “Làm quái gì một con chó mà lão phải băn khoăn quá thế?”. Cái băn khoăn này của lão Hạc là biểu hiện đẹp nhất của một trái tim nhân hậu. - Sau khi bán chó, lão Hạc đã thực sự sống trong bi kịch. Nam Cao đã miêu tả thật chi tiết nỗi ân hận băn khoăn day dứt của lão Hạc khi bán con Vàng: "Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Bằng những nét miêu tả về ngoại hình, Nam Cao đã cụ thể hóa những giằng xé trong nội tâm nhân vật. Nỗi đau đớn hiện hình trên khuôn mặt già nua khô héo rồi vỡ òa thành nước mắt và bật thành tiếng khóc hu hu. Đi sâu vào những giằng xé trong nội tâm nhân vật ta mới hiểu tại sao lão Hạc day dứt đau đớn đến thế khi bán con Vàng. - Kỉ niệm là một chuyện song điều cắn rứt lương tâm lão nhất chính là: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó”. Lão tự nhận là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn nhất trong cuộc đời lão. Tâm hồn lão Hạc phải thật trong sáng và đẹp đẽ đến như thế nào thì mới có cảm giác đau đớn vì đã lừa một con chó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu và trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm. Phải đau đớn đến dường nào mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy! Đọc những câu văn được coi là hay nhất của tác phẩm nà y, không ít người đã im lặng kính cẩn trước nỗi đau của lão Hạc. Trong tâm hồn lão Hạc, bên cạnh nỗi đau không làm tròn bổn phận với con, còn mang thêm nỗi đau vì trót lừa một con vật. Lòng lão Hạc thật trong sáng và lương thiện!

* Lão Hạc không những giàu tình yêu thương mà còn giàu lòng tự trọng:

- Lão tự trọng trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn. Lão nghèo nhưng không hèn, không vì miếng ăn mà khụy lụy. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, từ chối gần như là “hách dịch”. Lão tự trọng đến mức không còn gì để ăn song lão vẫn gửi ông giáo 30 đồng để lo ma chay, để không phải liên lụy đến hàng xóm láng giềng. Khi không còn đường sống, lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết chứ nhất định không chịu “đói ăn trộm, túng làm liều” theo gót Binh Tư đi ăn trộm. Cái chết của lão Hạc tuy xót xa cay đắng song đã khẳng định sự chiến thắng của nhân phẩm con người.

b. Đánh giá:

- Như vậy, truyện ngắn “Lão Hạc” không chỉ là bài ca về tình phụ tử cao đẹp mà còn là bài ca về vẻ đẹp nhân phẩm con người. - Nhân cách ngay thẳng, không gục ngã trước sự xô đẩy của hoàn cảnh đã làm cho nhân vật lão Hạc trở nên đặc biệt, độc đáo trong thế giới nhân vật của Nam Cao trong văn học. - Nhiều nhân vật của Nam Cao vốn là những người hiền lành, lương thiện ấy vậy mà họ đã bị hoàn cảnh khuất phục như Chí Phèo ( “Chí Phèo”), Lộ (“Tư cách mõ”), bà lão (“Một bữa no”). Trong số đó có cả nhân vật trí thức như thầy giáo Thứ (“Sống còn”), nhà văn Hộ (“Đời thừa”). Nhưng lão Hạc lại không như các nhân vật khác của Nam Cao. Lão tuy nghèo nhưng giàu lòng tự trọng, tự trọng đến mức khảng khái. Dù bị cái đói dồn vào chân tường như lão vẫn không chịu khụy ngã. Kì diệu thay, hoàn cảnh khắc nghiệt đã không thể biến một lão Hạc lương thiện thành một lão Hạc dám làm điều xấu để mong có miếng ăn mà tồn tại. Con người ấy sẵn sàng hủy diệt sự sống của mình để bảo toàn nhân cách. Bởi vậy cho dù cuộc đời lão Hạc kết thúc thật buồn song trong lòng người đọc lại ánh lên niềm tin vào nhân cách những con người nghèo khổ.

c Nghệ thuật:

- Bằng ngòi bút hiện thực, đặc biệt bằng một giọng văn trữ tình, thấm đượm ý nghĩa triết lí, nhà văn Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật lão Hạc. Đó là một lão nông nghèo khổ nhưng nhân cách vô cùng trong sạch. Với những nét đẹp tâm hồn cao quý, nhân vật lão Hạc đã trở thành hình tượng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. - Lão Hạc là nhân vật hiếm hoi của Nam Cao đã làm xao xuyến ngay cả ngòi bút lạnh lùng của chính nhà văn. Khi viết về lão Hạc, nhiều chỗ ngòi bút của Nam Cao không còn giữ được sự khách quan, nhà văn đã xen vào tác phẩm những lời trữ tình để bày tỏ sự đồng cảm với nhân vật. Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện niềm tin mãnh liệt và cả lòng kính trọng vào nhân phẩm con người, nhất là những người nghèo khổ. Ông đã nhìn họ bằng một cái nhìn cái mới mẻ, thấm đẫm tinh thần nhân đạo. - Đặt nhân vật lão Hạc dưới điểm nhìn của dư luận, Nam Cao đã đặt ra vấn đề đôi mắt cần có để nhìn người nông dân. Dưới con mắt của vợ ông giáo, lão Hạc chỉ là một người gàn dở, có tiền mà chịu. Trong cái nhìn của Binh Tư – một kẻ sống bằng nghề ăn trộm thì lão Hạc cũng “ghê ra phết”. Nhưng với đôi mắt của tình thương, đôi mắt “cố tìm mà hiểu” qua lời của ông giáo, Nam Cao đã phát hiện ra bao phẩm chất cao đẹp ở người nông dân khốn khổ này. Nam Cao xứng đáng là người bạn tri ân của người nông dân, là bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực nhân đạo.

3. Kết bài:


Có những tác phẩm đọc xong một lần là quên ngay, nhưng có những tác phẩm, những nhân vật tiếp xúc một lần là ta nhớ mãi, nó soi rọi vào tâm hồn ta nguồn ánh sáng kì diệu, thay đổi cách ta nhìn, ta nghĩ. Nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao là một trong những nhân vật như thế.

Video liên quan

Chủ đề