Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Thức ăn của dơi là

A. Sâu bọ

B. Hoa quả

C. Sâu bọ và hoa quả

D. Máu

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Con dơi tiếng anh là Bat. Chúng là một loài động vật di chuyển vào truyền truyền gắn với những câu chuyện ma mị, khát máu hay xuất hiện trên các bộ phim của hollywood như câu chuyện về “huyền thoại người dơi”. Gần đây khi đại dịch covid đang bùng nổ với sự xúc tiến virus một cách nhanh chóng, nhiều phỏng đoán dựa trên những khảo sát và thí nghiệm đã đưa ra thông số về nguồn lây xuất phát từ loài dơi. Vậy dơi là gì? Dơi là một loài động vật có vú duy nhất có khả năng biết bay,chúng thuộc bộ Chiroptera và phân ngành Chordate, cùng với đó là sự định hướng về âm học tức là định vị bằng tiếng vang, đã làm cho loài dơi có một trật tự rất phong phú và đông dân. Tính đến thời điểm hiện tại số lượng dơi chiếm tới 1/5 trên tổng số loài động vật có vú, với hơn 1.200 loài dơi khác nhau phân bố khắp vùng vành đai trên thế giới. Chúng thường được tách thành hai tiểu phân chính: Megabats và Microbats

Con dơi là con gì?

Dơi là một loài động vật hoang dã có vẻ ngoài khi bay rất giống nhau nhưng để nhận ra sự độc lạ giữa chúng là về kích cỡ. Kích thước của loài dơi nhờ vào vào biến thể về ngoại hình của từng con. Loài dơi nhỏ nhất là dơi mũi heo Kitti, mức độ chiều dài trung bình từ 29 – 34 mm và chúng được xếp vào những loài động vật hoang dã có vú nhỏ nhất hành tinh. Bên cạnh đó, loài dơi lớn nhất là họ cáo bay với độ bao trùm của bộ cánh lên đến 1,7 mét và khối lượng 1 kg tương tự 2,2 pound .

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Các loài dơi rất khác nhau về màu sắc và kết cấu lông, màu da của chúng không đồng nhất về một loại màu sắc. Với hơn 1.200 loài dơi khác nhau có thể thấy sự đa dạng về sắc là rất lớn. Nhìn chung màu da của nó chủ đạo vẫn là những gam màu tối như xám đen, hoặc nâu có những con có màu vàng cam và kết hợp với các đốm vàng và đỏ.

Bạn đang đọc: Con dơi là con gì? Dơi ăn gì, đẻ con hay đẻ trứng – IAS Links

Hình dáng khuôn mặt, đa phần làm tai và mõm có cấu trúc khác nhau giữa những họ mái ấm gia đình và đa phần là giữa những chi. Trong một số ít mái ấm gia đình, một đặc thù có cấu trúc chính có nhiều thịt được gọi là lá mũi bao quanh lỗ mũi . Hình dáng cánh của loài dơi thực ra là cánh tay của chúng, trong tiếng Hy Lạp cổ đại loài dơi có nghĩa là cánh tay do tại dơi có bốn ngón tay dài và một ngón tay cái, mỗi ngón được nối với nhau bằng một lớp màng như tất cả chúng ta thường thấy ở chân của vịt và ngỗng .

Đặc thù của loài dơi là kiếm ăn vào đêm hôm và ngủ vào ban ngày, khi ngủ chúng thường treo ngược thân mình lơ lững rồi bám vào vách thường hay vách núi và gấp gọn cánh bao quanh người như một bộ kén bảo phủ thân thể chúng. Loài dơi rất ưa bóng tối vì thế chỗ ngủ hay trú ẩn của chúng thường là những vách núi hay những hang động thậm chí còn là mái nhà của tất cả chúng ta .

Con dơi ăn gì?

Nguồn thức ăn của dơi tuỳ thuộc vào chủng loại của loài dơi nhưng thức ăn chính vẫn là côn trùng nhỏ. Nhờ năng lực bay nhanh vì thế những loài côn trùng nhỏ không phải là đối thủ cạnh tranh nặng kí của dơi, chúng tích lũy từ một mặt phẳng của những hồ chứa, thân và lá cây. Những loài dơi sống ven vành đai nhiệt đới gió mùa đa phần nguồn thức ăn là những hoa quả chín, và tất cả chúng ta hoàn toàn có thể thấy hằng ngày trên trong thực tiễn của đời sống như dơi ăn : nhãn, hay ổi hoặc là hồng … Đồng thời phấn hoa, mật hoa, chim cỏ, thằn lằn hay động vật hoang dã giáp xác cũng là nguồn thức ăn đa dạng và phong phú của loài dơi .

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Trong vùng đất Moscow, những người làm nông trại hay làm vườn đã có một đầu óc phát minh sáng tạo khi dụ những loài dơi này vào những ô đất và trách nhiệm của chúng là hủy hoại côn trùng nhỏ gây hại và thụ phấn cho cây . Ở 1 số ít nơi trên quốc tế người ta tìm thấy nhiều chủng loại dơi ăn thịt như : chim, ếch, thằn lằn và những con gà nhỏ – tổng thể điều này được gồm có trong chính sách thức ăn của dơi ăn thịt. Những chủng loại hay những thể này có sự khác nhau về ngoại hình so vơi những thành viên ăn sâu bọ : chúng có thân hình bành trướng hơn hẳn tích hợp cùng hàm răng sắc nhọn và năng lực kết liểu con mồi tốt nhờ bộ cánh rộng của nó .

Hàng năm người ta không tìm thấy những loài dơi Open vào mùa đông chính bới chúng đã chìm vào giấc ngủ đông, thời gian đi săn mạnh nhất của dơi rơi vào khoảng chừng điểm mùa thu, vì đây là quá trình mà chúng cần tích trữ món ăn hay tích trữ chất béo, vì trước khi lạnh, khi đó rất khó để tìm kiếm thức ăn. Một đặc thù khá mê hoặc khi dơi rơi vào trạng thái ngủ đông thì quy trình trao đổi chất hay nhiệt độ của khung hình giảm xuống sâu đáng kể đến mức chúng đóng băng theo nghĩa đen .

Dơi đẻ con hay đẻ trứng?

Như thông số kỹ thuật ở trên thì dơi là loài động vật hoang dã có vú vì thế chúng có hình thức sinh sản là đẻ con thay vì đẻ trứng và nuôi con bằng sữa mẹ .
Dơi con khi không được chăm nom thường sẽ rơi xuống đất .

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Thời kì sinh sản của chúng rơi vào đầu mùa hè khi nguồn thức ăn đa dạng chủng loại và rất đầy đủ. Khi sinh thì dơi con sẽ bám víu mẹ và loài dơi tăng trưởng rất nhanh vì vậy gây cản trở rất lớn tới dơi mẹ khi bay hoặc tìm kiếm thức ăn. Vì vậy mỗi năm dơi mẹ chỉ sinh một con và để thuận tiện thuận tiện nuôi chúng . Trong ba tuần lễ dơi hoàn toàn có thể tăng trưởng không thiếu nhưng chưa hoàn hảo, khi sinh ra chúng thường sống trong những hang động, cây cối hay cọc gỗ .

Vậy tất cả chúng ta đặt câu hỏi tại sao dơi lại có số lượng nhiều như vậy chiếm tới 1/5 trên tổng số loài động vật hoang dã có vú ? Như đã nói chủng loại dơi rất đa dạng và phong phú và phong phú lên đến hàng nghìn loài và tuy mỗi năm dơi mẹ chỉ sinh sản một con nhưng vận tốc sinh trưởng dơi con là rất nhanh và thời hạn từ khi đẻ tới khi trưởng thành để giao phối là rất ngắn vì vậy loài dơi có số dân rất đông .

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy TRÂU đánh con gì? | điềm LÀNH hay DỮ?

4/5 – ( 4 bầu chọn )

Source: https://kinhdoanhthongminh.net
Category: Ngày Đặc Biệt

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Bộ Dơi (danh pháp khoa học: Chiroptera) là bộ có số lượng loài nhiều thứ hai trong lớp Thú với khoảng 1.100 loài, chiếm 20% động vật có vú (đứng đầu là bộ Gặm nhấm chiếm 40% số loài). Từ Chiroptera trong tiếng Hy Lạp là ghép bởi 2 từ: cheir (χειρ) "bàn tay" và pteron (πτερον) "cánh". Như tên gọi, cấu tạo hai chi trước của chúng giống như bàn tay con người với các ngón tay được nối liền bởi màng da và tạo thành đôi cánh. (chính xác thì ở dơi cánh được tạo bởi màng da nối liền xương cánh tay và các ngón tay)

Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào
Bộ DơiThời điểm hóa thạch: 52–0 triệu năm trước đây

TiềnЄ

Є

O

S

D

C

P

T

J

K

Pg

N

Hậu Paleocen – gần đây

Dơi tai to Townsend, Corynorhinus townsendii

Phân loại khoa họcGiới (regnum)AnimaliaNgành (phylum)Chordata Nhánh Craniata Phân ngành (subphylum)VertebrataPhân thứ ngành (infraphylum)GnathostomataLiên lớp (superclass)Tetrapoda Nhánh SynapsidaNhánh ReptiliomorphaNhánh AmniotaNhánh Mammaliaformes Phân thứ lớp (infraclass)EutheriaLiên bộ (superordo)Laurasiatheria[1]Bộ (ordo)Chiroptera
Blumenbach, 1779
Thức ăn của dơi là gì dơi kiếm ăn vào thời gian nào

Phân bộ

Xem bài viết

Dơi là động vật có vú duy nhất có thể bay được. Một số loài thú khác như chồn bay, sóc bay... trông có vẻ như có thể bay nhưng thực ra chúng chỉ có thể lượn - trong một khoảng cách có giới hạn. Khoảng 70% số loài dơi ăn sâu bọ, số còn lại chủ yếu ăn hoa quả và chỉ có vài loài ăn thịt. Dơi cần thiết cho sinh thái bởi chúng đóng vai trò thụ phấn hoa hay phát tán hạt cây, sự phân tán của nhiều loài cây lệ thuộc hoàn toàn vào dơi. Loài dơi nhỏ nhất là dơi mũi lợn Kitti chỉ dài 29–33 mm, nặng khoảng 2 gam. Loài lớn nhất là dơi quả đầu vàng lớn với sải cánh dài 1,5 m và cân nặng khoảng 1,2 kg.

Hóa thạch loài Onychonycteris finneyi vào khoảng 52 triệu năm tuổi, thuộc thế Eocen của kỷ Paleogen trong đại Tân Sinh, được tìm thấy ở Wyoming (Mỹ) năm 2003.

Loài dơi cổ này có cách bay và ngoại hình khác với loài những loài dơi ngày nay. Onychonycteris có móng trên cả năm đầu ngón mỗi chi trước, trong khi các loài dơi hiện đại có nhiều nhất hai móng. Chúng cũng có chi sau dài hơn và cẳng tay ngắn hơn dơi ngày nay, thuận tiện cho việc bám lên cành cây. Đôi cánh ngắn, rộng không làm chúng bay nhanh và xa như dơi hiện đại. Mặc dù đập cánh nhưng Onychonycteris cũng chỉ lượn từ cây này sang cây khác, phần lớn thời gian chúng chỉ leo và bám trên cây.

 

Bộ xương của dơi

Các loài trong bộ này có nhiều nét chung với thú ăn sâu bọ và có thể coi như một nhánh Thú ăn sâu bọ thích nghi với vận chuyển bay. Chi trước biến đổi thành cánh da. Ngón tay, trừ ngón một rất dài và căng màng da mỏng không lông. Màng da nối không chỉ chi trước với chi sau và cả chi sau với đuôi. Cơ ngực lớn. Dơi còn đặc trưng với tư thế treo thân độc đáo (đu mình treo ngược).

Dơi phát siêu âm với tần số 50.000 - 70.000 Hz. Nhờ tiếp nhận siêu âm vào tai, dơi có thể ước lượng khoảng xa của chướng ngại vật. Tuy nhiên, bất cứ con dơi nào cũng không chỉ sử dụng duy nhất năng lực định vị thuần túy, mà còn kết hợp với sự quan sát từ đôi mắt trong khi bay lượn. Với loài dơi thường ăn hoa quả thì hệ thị giác của chúng rất phát triển, với vị trí ngay trên đầu. Riêng với loài ăn côn trùng lại có cặp mắt nhỏ hơn, thường được dùng để xác định cao độ so với mặt đất, nhận biết mức độ ánh sáng, phân biệt ngày đêm để chọn thời điểm đi săn thích hợp, đánh giá kích thước con mồi hay vật cản, cũng như định hướng lúc đang bay tìm mồi.[2]

 

"Bộ Dơi" trong Kunstformen der Natur của Ernst Haeckel, 1904

Theo phân loại truyền thống có 2 phân bộ dơi là:

  • Phân bộ Megachiroptera dơi lớn
  • Phân bộ Microchiroptera dơi nhỏ.

Cho dù được đặt tên như vậy nhưng không phải bất cứ loài dơi lớn nào cũng có kích thước lớn hơn các loài dơi nhỏ. Một số sự khác biệt chính giữa 2 phân bộ là:

  1. Những loài dơi nhỏ định vị bằng sóng âm, còn loài dơi lớn thì không.
  2. Loài dơi nhỏ không có móng ở ngón thứ hai của chi trước (cánh).
  3. Tai của dơi nhỏ không phải là một vòng khép kín.
  4. Dơi nhỏ không có lông dưới bụng.
  • Bộ Chiroptera (Bộ Dơi)
    • Phân bộ Megachiroptera (dơi lớn)
      • Pteropodidae (dơi quạ)
    • Phân bộ Microchiroptera (dơi nhỏ)
      • Siêu họ Emballonuroidea
        • Emballonuridae (dơi bao)
      • Siêu họ Molossoidea
        • Antrozoidae
        • Molossidae (dơi thò đuôi)
      • Siêu họ Nataloidea
        • Furipteridae
        • Myzopodidae
        • Natalidae
        • Thyropteridae
      • Siêu họ Noctilionoidea
        • Mormoopidae
        • Mystacinidae
        • Noctilionidae
        • Phyllostomidae (dơi mũi lá)
      • Siêu họ Rhinolophoidea
        • Megadermatidae (dơi ma)
        • Nycteridae
        • Rhinolophidae (dơi lá mũi)
      • Siêu họ Rhinopomatoidea
        • Craseonycteridae
        • Rhinopomatidae
      • Siêu họ Vespertilionoidea
        • Vespertilionidae (dơi muỗi)

Dơi con thường bị rơi xuống đất khi không được chăm sóc. Tuy nhiên dơi con có thể bám vào mẹ và cùng di chuyển, dơi con phát triển nhanh nên sẽ rất khó khăn nếu dơi mẹ phải mang một lúc nhiều con. Đó là lý do tại sao 1 năm dơi mẹ chỉ sinh 1 lần.Khả năng bay là bẩm sinh, tuy nhiên khi mới sinh đôi cánh của dơi quá nhỏ để bay, các loài dơi nhỏ (thuộc phân bộ Microchiroptera) bay được khi chúng được 6 đến 8 tuần tuổi trong khi các loài dơi lớn (thuộc phân bộ Megachiroptera) phải mất 4 tháng mới biết bay. Dơi trưởng thành khi được 2 năm tuổi. Tuổi thọ trung bình của dơi là khoảng 20 năm, tuy vậy số lượng dơi không được nhiều do tỉ lệ sinh thấp.

Trong văn hóa, dơi được tái hiện qua nhiều phim ảnh, tiểu thuyết, truyện tranh..., theo đó dơi thường được mô tả là một loài vật hút máu với hàm răng nhọn hoắt trắng ghê rợn, chúng hại người, súc vật, là hiện thân của ma cà rồng. Một số nhân vật hư cấu có liên quan đến dơi như Người dơi (Batman) của Mỹ là một anh hùng, Phi Thiên Biển bức Kha Trấn Ác - sư phụ của Quách Tĩnh hay Thanh Dực Bức vương Vi Nhất Tiếu trong tiểu thuyết của Kim Dung, Biên bức công tử trong tiểu thuyết của Cổ Long, Phan Văn Đỉnh trong Đặc vụ dơi..v.v...

Trong văn hóa đại chúng của người Á Đông, dơi thường được trang trí trong các họa tiết để tượng trưng cho sự may mắn vì chữ dơi tiếng Hán là Bức đồng âm với từ Phúc có nghĩa là may mắn. Thuật ngữ mặt dơi tai chuột chỉ về hình tướng dị hợm, quái đản, bất tài.

  1. ^ Eick; và đồng nghiệp (2005). “A Nuclear DNA Phylogenetic Perspective on the Evolution of Echolocation and Historical Biogeography of Extant Bats (Chiroptera)”. Molecular Biology and Evolution. 22: 1869. doi:10.1093/molbev/msi180. PMID 15930153. Several molecular studies have shown that Chiroptera belong to the Laurasiatheria (represented by carnivores, pangolins, cetartiodactyls, eulipotyphlans, and perissodactyls) and are only distantly related to dermopterans, scandentians, and primates (Nikaido et al. 2000; Lin and Penny 2001; Madsen et al. 2001; Murphy et al. 2001a, 2001b; Van Den Bussche and Hoofer 2004). “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |author= (trợ giúp)
  2. ^ “Loài dơi không bị mù như thiên hạ vẫn tưởng”.

  • Bộ Dơi tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Bat (mammal) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  • BBC Wales Nature: Bat article Lưu trữ 2011-02-08 tại Wayback Machine
  • UK Bat Conservation Trust
  • University of Michigan Museum of Zoology Lưu trữ 2003-12-12 tại Wayback Machine
  • Bats and Tarsier Lưu trữ 2012-04-15 tại Wayback Machine
  • Tree of Life
  • Microbat Vision
  • Bats of Australia
  • Bat Conservation International (US) Lưu trữ 2014-08-11 tại Wayback Machine
  • Organization for Bat Conservation (US)
  • Evolution of cranial morphology in bats in relation to diet (by Divulgare)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bộ_Dơi&oldid=68326643”