Tại sao du lịch góp phần đánh thức các ngành sản xuất thủ công có truyền

Theo Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội, trên địa bàn Thủ đô có khoảng 1.350 làng nghề, trong đó có 308 làng nghề truyền thống. Việc phát triển làng nghề cũng đang được kỳ vọng sẽ góp phần tích cực trong thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung.

Tuy nhiên, nếu chỉ có sự nỗ lực tự thân của các nghệ nhân, các hộ gia đình, cộng đồng của làng thì vẫn khó để phát triển làng nghề bền vững.

Là một làng cổ thuộc quận Hà Đông, Hà Nội, Đa Sỹ nổi tiếng với nghề rèn. Theo nhiều tư liệu, nghề rèn Đa Sỹ hình thành từ cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển thăng trầm, gắn liền với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, đến nay, nghề rèn vẫn giúp đời sống người dân địa phương ổn định, nhiều gia đình có kinh tế khá giả. 

Theo ông Hoàng Quốc Chính, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Đa Sỹ, làng nghề hiện có 1.163 hộ trực tiếp sản xuất, kinh doanh. Mỗi tháng, làng cung cấp ra thị trường từ 450 đến 500 tấn hàng. Bình quân doanh thu mỗi năm đạt trên 200 tỷ đồng. Đa Sỹ có 70% số hộ sản xuất rèn, 16% số hộ buôn bán nguyên liệu và thu mua sản phẩm, 14% làm các ngành dịch vụ và các nghề khác. Nghề rèn thu hút trên 80% lao động tham gia sản xuất. Thu nhập bình quân từ 7-10 triệu đồng/tháng/người. Tuy nhiên, đến nay, tốc độ phát triển của làng nghề đang chững lại.
Tại sao du lịch góp phần đánh thức các ngành sản xuất thủ công có truyền
Kết hợp hoạt động văn hóa thu hút du khách đến Làng Lụa Vạn Phúc.

Theo ông Chính, có nhiều nguyên nhân khiến hoạt động của làng nghề gặp khó khăn như sự ra đời của các loại máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất đồ mộc gia dụng, các sản phẩm chủ lực, nổi tiếng của làng nghề như tràng, bào, đục không còn chỗ đứng trên thị trường. Nhiều mặt hàng dao, kéo mạ trắng, chất lượng cao của một số nước như Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản dần chiếm lĩnh thị trường nội địa. 

Ở tại Đa Sỹ, một số hộ gia đình sản xuất các sản phẩm chạy theo số lượng, không chú trọng chất lượng, ảnh hưởng đến thương hiệu làng nghề. Nghệ nhân, thợ giỏi làm ra sản phẩm có uy tín nhưng chưa đăng ký thương hiệu, bị các thương lái lợi dụng kẽ hở làm giả mẫu mã sản phảm, hạ giá thành, làm cho hoạt động sản xuất của nhiều gia đình gặp khó khăn, sản phẩm làm ra không bán được. 

Hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm làng nghề chưa đạt hiệu quả cao. Đa số lao động tại làng không qua đào tạo nên khó tiếp thu công nghệ mới, vận hành máy móc. Nhiều chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh còn yếu về trình độ quản lý, kiến thức về kinh tế thị trường, lúng túng trong tiếp thị, liên kết liên doanh, mở rộng thị trường. Việc truyền nghề, dạy nghề hoặc trao đổi kinh nghiệm về kiến thức sản xuất kinh doanh rất hạn chế. 

Nguồn nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất làng nghề đang dần cạn kiệt hoặc nguồn cung không ổn định. Vấn đề ô nhiễm môi trường từ tiếng ồn, không khí, xử lý chất thải rắn cũng đặt ra nhiều thách thức với làng nghề. Vấn đề này không thể giải quyết căn bản nếu như địa phương không được quy hoạch mặt bằng làm nơi sản xuất tập trung.

Ông Phạm Khắc Hà, Chủ tịch Hội làng nghề dệt lụa Vạn Phúc cũng cho biết, hiện nay, Vạn Phúc không chỉ là một địa chỉ nổi tiếng trong nước và quốc tế gắn với sản phẩm lụa tơ tằm. Trong tình hình dịch bệnh COVID-19, việc phòng, chống dịch đi đôi với sản xuất và kinh doanh là những thách thức lớn đối với sản phẩm làng nghề. Nhiều doanh nghiệp và cơ sở sản xuất đã đưa sản phẩm của mình lên mạng xã hội, bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ. Họ tích cực tham gia các hội chợ triển lãm trong nước nhằm khai thác thị trường và nắm bắt thị hiếu của khách hàng, tạo mẫu mã, hoa văn và chủng loại sản phẩm hấp dẫn. 

Nhưng để làng nghề ngày càng phát triển bền vững, Vạn Phúc vẫn cần chính quyền các cấp có những chính sách ưu đãi, tạo điều kiện cho các làng nghề thủ công phát triển hậu COVID-19: Ưu đãi nguồn vốn vay, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất, nhất là nguồn nguyên liệu nhập khẩu, giúp đỡ tạo đầu ra cho sản phẩm, xây dựng mối liên kết các đơn vị du lịch với các làng nghề, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng nhu cầu của du khách.

Với làng nghề sơn mài Hạ Thái, Hà Nội, nghệ nhân Đỗ Trọng Đoàn cho biết, nhiều năm nay, sản phẩm sơn mài Hạ Thái được ưa chuộng ở cả trong nước và nước ngoài. 60% tổng sản phẩm của làng nghề được xuất khẩu ra thị trường thế giới như Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Hàn Quốc… 

Tuy nhiên, hiện tại, làng nghề Hạ Thái đang đối diện với không ít thách thức. Cụ thể, Hạ Thái có trên 300 hộ đang sản xuất kinh doanh với hơn 1.500 lao động nhưng đội ngũ nghệ nhân, người thợ tay nghề cao chỉ chiếm khoảng 30% số lao động. Hạ Thái cũng gặp khó khăn như nhiều làng nghề khác về chất lượng nguồn lao động, nguyên liệu đầu vào chưa ổn định, ô nhiễm môi trường...

Về vấn đề này, bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và làng nghề Hà Nội cho hay, bên cạnh những thành công và thuận lợi thì làng nghề truyền thống còn có nhiều khó khăn. Cạnh tranh sản phẩm ngày càng gay gắt. Chi phí sản xuất đầu vào ngày càng cao. Việc thay đổi liên tục về thiết kế mẫu mã hàng hóa để đáp ứng yêu cầu của thị trường đòi hỏi mở rộng mặt bằng, đầu tư thiết bị tiên tiến phục vụ cho sản xuất. Lao động trong làng nghề còn yếu về kiến thức, kỹ năng. Ô nhiễm môi trường đã tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Để phát huy tiềm năng vốn có của các làng nghề, phố nghề, bà Vinh đề nghị, địa phương phải tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển bền vững, tạo cơ hội, động viên người trẻ học, hành nghề, làm giàu, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc ngay trên quê hương của mình. Tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm nhằm lựa chọn sản phẩm đặc trưng tiêu biểu đáp ứng nhu cầu của du khách, khơi dậy sức sáng tạo của nghệ nhân, thợ giỏi, các nhà thiết kế. Các sở ngành xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ cho cơ sở sản xuất nông thôn, làng nghề khắc phục các khó khăn về vốn, mặt bằng sản xuất, công nghệ, thiết kế... 

Quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề nhằm thúc đẩy các hộ sản xuất và doanh nghiệp mạnh dạn mở rộng mặt bằng và đầu tư thiết bị tiên tiến cho sản xuất. Các địa phương chưa có cụm công nghiệp làng nghề nên cho các cơ sở sản xuất có nhiều lao động địa phương được hưởng cơ chế đặc thù, được thuê mặt bằng, chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất dịch vụ sản xuất để thuận lợi phát triển mở rộng quy mô...

N.Nguyễn

Trong xu thế hội nhập và mở cửa, làng nghề truyền thống đang dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc mỗi quốc gia. Mỗi làng nghề một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt, độc đáo không thể thay thế; một cách giới thiệu sinh động về đất nước và con người của mỗi vùng miền, địa phương. Phát triển du lịch làng nghề chính là một hướng đi đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và phát triển du lịch. Loại hình du lịch làng nghề ở Việt Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng. Nhận thức được ý nghĩa của làng nghề du lịch, trong bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ tập trung phân tích, giải thích và nêu rõ một số vấn đề làng nghề trong phát triển du lịch.

Tại sao du lịch góp phần đánh thức các ngành sản xuất thủ công có truyền

Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.6568

1. Làng nghề du lịch là gì?

Để hiểu về làng nghề du lịch, trước hết, tác giả giải thích khái niệm làng nghề. Có nhiều quan điểm khác nhau về làng nghề:

–  Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người dân trong làng đấy hoạt động theo nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Với quan niệm này thì làng nghề đó hiện nay còn không nhiều.

– Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công nhiều khi cũng là người làm nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác. Quan niệm này về làng nghề như vậy vẫn chưa đủ. Không phải bất kì làng nào có vài ba lò rèn hay vài hộ làm nghề mộc… đều là làng nghề. Để xác định làng đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỉ trọng lao động hay số hộ làm nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỉ trọng thu nhập từ ngành nghề so với tổng thu nhập của thôn (làng).

– Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính chất làng nghề; nó như một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, là một đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có tác dụng to lớn đối với đời sống kinh tế – văn hóa – xã hội một cách tích cực.

Làng nghề theo cách phân loại về thời gian gồm có: Làng nghề truyền thống và làng nghề mới.

Nếu hiểu theo một trong các quan điểm trên, thì dường như làng nghề du lịch không phải là một thuật ngữ chính xác, mà nếu có thì nó đang cố gắng biểu đạt về một nơi mà mọi người trong “làng” đều thực hiên hoạt động “nghề nghiệp ” du lịch. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả về khái niệm này, thì trong bài viết nghiên cứu trao đổi, Khai thác giá trị văn hóa làng nghề truyền thống trong việc phát triển du lịch cộng đồng, Tổng cục Du lịch, 2020, có giải thích rằng: “Làng nghề du lịch là một không gian lãnh thổ nông thôn, ở đó người dân không những tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm thủ công truyền thống mà còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch.”. Và làng nghề được chú trọng nhất là làng nghề truyền thống.

2. Đặc điểm và vai trò của làng nghề trong phát triển du lịch?

2.1. Đặc điểm của làng nghề.

Đặc điểm của làng nghề mà tác giả muốn cung cấp ở đây là đặc điểm của làng nghề truyền thống. Cụ thể:

Xem thêm: Mẫu hợp đồng du lịch, dịch vụ du lịch theo tour mới nhất 2022

– Làng nghề truyền thống tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện và tồn tại trong từng làng xã ở nông thôn. Các ngành nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân. Các gia đình nông dân trước hết vừa làm ruộng vùa làm thủ công nghiệp.

– Công nghệ, kỹ thuật sản xuất mang tính truyền thống. Nghĩa là có bước tiếp nối, truyền tải, kết tinh giá trị từ thế hệ này sang thế khác. Chất lượng sản phẩm của làng nghề không phụ thuộc vào công cụ sản xuất hiện đại, có năng xuất cao, theo dây truyền mà chủ yếu dựa vào kinh nghiêm, bí quyết, tài hoa của người thợ chế tác đồ thủ công.

– Đại bộ phận nguyên liệu của làng nghề truyền thống là tại chỗ. Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ các nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương, đặc biệt các nghề truyền thống sản xuất những sản phẩm tiêu dùng như: đan lát mây, tre( mũ, rổ, rá, sọt, cót..) sản xuất vật liệu xây dựng nguyên liệu thường có tại chỗ, trên địa bàn địa phương.

– Phần đông lao động trong các làng nghề truyền thống là lao động thủ công. Nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh sảo của đôi bàn tay, đầu óc tẩm mỹ và đầy tính sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân, phương pháp dạy nghề chủ yếu lao động nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh sảo.

– Sản phẩm của làng nghề truyền thống mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, địa phương, vùng miền.

– Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề truyền thống chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.

2.2. Vai trò của làng nghề trong phát triển du lịch.

Giữa hoạt động du lịch và làng nghề có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau. Phát triển du lịch tại các làng nghề truyền thống là một giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế xã hội làng nghề truyền thống nói chung theo hướng tích cực và bền vững. Ngược lại làng nghề truyền thống cũng là trung tâm thu hút khách du lịch và có tác động mạnh mẽ trở lại khách du lịch trong mục tiêu phát triển chung.

Làng nghề truyền thống là một không gian văn hóa – kinh tế – xã hội lâu đời, nó bảo lưu tinh hoa văn hóa từ đời này sang đời khác đúc kết bởi nghệ nhân tài hoa. Môi trường văn hóa làng quê với cây đa bến nước sân đình, các hoạt động lễ hội và phường hội, phong tục tập quán nếp sống đậm nét văn hoá truyền thống. Tất cả những điều đó luôn luôn gắn kết với sự hình thành và phát triển của làng nghề truyền thống. Và tạo ra nét văn hóa rất riêng của mỗi làng nghề truyền thống.

Xem thêm: Nguyên tắc, vai trò và chính sách phát triển ngành du lịch

Phong cảnh làng nghề cùng với những giá trị chứa đựng bên trong làng nghề truyền thống sẽ là điểm du lịch lý tưởng cho du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, mua sắm tại các làng nghề

Làng nghề truyền thống còn là nơi sản xuất ra những hàng thủ công mỹ nghệ có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu độc đáo cho mỗi vùng miền, địa phương. Vì vậy du khách đến với các điểm du lịch làng nghề truyền thống còn mong muốn chiêm ngưỡng, mua sắm các sản phẩm thủ công làm vật kỷ niệm trong chuyến đi của mình. Thực tế nhu cầu mua sắm của du khách là rất lớn, làng nghề truyền thống sẽ đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tinh tế và đa dạng
của du khách.

Với sự đa dạng các làng nghề đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống văn hóa, đồng thời là cơ sở để phát triển ngành du lịch vốn thừa hưởng những thế mạnh về văn hóa.

Du lịch làng nghề truyền thống đã góp phần phát triển loại hình du lịch “Du khảo đồng quê”. Đây là một loại hình du lịch có thể giúp cho du khách có được sự khám phá mới mẻ, sự trải nghiệm và sự gần gũi với thiên nhiên hoang sơ. Đặc biệt trong loại hình du lịch “ du khảo đồng quê” thì làng nghề truyền thống cũng góp phần quan trọng trong việc giúp cho du khách trải nghiệm, tham gia vào hoạt động sản xuất. Mỗi làng nghề truyền thống đều chứa đựng trong đó những yếu tố văn hoá của mỗi làng nghề. Và chỉ khi tham gia vào những tour du lịch như vậy thì du khách mới có thể cảm nhận được những yếu tố văn hoá của mỗi vùng miền .

Làng nghề không chỉ có vai trò trong phát triển du lịch mà còn có vai trò trong phát triển kinh tế xã hội, chẳng hạn: Phát triển làng nghề truyền thống góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành nghề phi nông nghiệp trong tỷ trọng kinh tế nông thôn. Tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động. Tăng thu nhập cho người lao động trong làng nghề có thu nhập bằng 2,1 – 2,3 lần lao động nông nghiệp thuần nông.

Góp phần hạn chế di dân tự do ra thành thị, giảm tệ nạn xã hội do không có việc làm gây ra. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn dỗi trong dân, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội.

Phát triển làng nghề truyền thống không chỉ mang lại lợi ích kinh tế góp phần phát triển hoạt động du lịch mà còn là cơ hội để quảng bá hình ảnh con người và đất nước Việt Nam