Qua 4 Nam chiến tranh phá hoại miền Bắc Mỹ đã rút ra bài học gì trong cuộc tham chiến tại Việt Nam

Tàu tuần tiễu của Tiểu đoàn 100, Trung đoàn 171 bảo vệ cầu Long Biên, tháng 5-1967. Ảnh: TL

Ngày 7 và 8-2-1965, Mỹ tiến hành cuộc tập kích mang tên “Mũi lao lửa I”, sử dụng 169 lần chiếc máy bay đánh phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, khu vực Vĩnh Linh. Ngày 11-2, chúng tiến hành cuộc tập kích “Mũi lao lửa II”, sử dụng 100 lần chiếc máy bay đánh phá thị trấn Hồ Xá, khu vực Vĩnh Linh, thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, các đơn vị tàu và Đại đội 24 pháo cao xạ thuộc Khu Tuần phòng 2 đã phối hợp với lực lượng phòng không ba thứ quân bắn rơi 22 chiếc máy bay Mỹ và bắn bị thương nhiều chiếc khác.

Bị thiệt hại nặng nề trong hai cuộc tập kích “Mũi lao lửa” I và II, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn quyết định mở chiến dịch “Sấm rền”, mở rộng đánh phá các mục tiêu quân sự, kho tàng, đầu mối giao thông, thị trấn, thị xã từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20 hòng đánh sập tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam... Bằng ý chí, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, bộ đội Hải quân cùng với quân dân miền Bắc đã đề cao cảnh giác, chiến đấu dũng cảm, bắn cháy và bắn bị thương nhiều máy bay của địch, bảo vệ các mục tiêu. Trận ngày 2-3-1965, Mỹ cho 160 lần chiếc máy bay vào đánh phá Căn cứ sông Gianh. Các đơn vị bảo vệ căn cứ và Đại đội 24 pháo cao xạ cùng các tàu của Phân đội 5, 6 thuộc Khu Tuần phòng 2 đã kiên cường đánh trả, bắn rơi 6 máy bay của địch…

Khi địch mở rộng đánh phá các Trạm ra đa 530 ở Đèo Ngang, Trạm 550 ở Bạch Long Vĩ, các trạm ra đa của bộ đội Phòng không ở Hà Tĩnh, đánh phá cầu Hàm Rồng, tỉnh Thanh Hóa, chúng đã bị quân dân ta kiên quyết đánh trả, bắn rơi nhiều chiếc. Trong đó, khẩu đội cao xạ Trạm ra đa 530 bắn rơi 2 chiếc; tàu T120 và T136 của Phân đội 1, 2 tham gia chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng đã bắn rơi 5 chiếc. Ngày 29-3-1965, Tiểu đoàn 152 ở đảo Bạch Long Vĩ đánh trả 70 lần chiếc máy bay Mỹ, đã bắn rơi 5 chiếc. Ngày 31-3-1965, Trạm ra đa 530 cùng Đại đội 24 pháo cao xạ bắn rơi 5 máy bay của địch…

Cùng với đánh trả máy bay địch, bộ đội Hải quân đã kiên cường đánh trả các tàu chiến của chúng xâm phạm, phá hoại trong vùng biển của ta. Đầu năm 1965, biên đội tàu T161 và T171 thuộc Phân đội 5, Tàu T126 Khu Tuần phòng 2 đã bắn bị thương 3 tàu địch xâm phạm vùng biển Quảng Bình; tàu T187 và T124 bắn cháy 2 tàu địch ở cách Cửa Hội 40 hải lý...

Từ tháng 4-1965 đến cuối năm 1966, bộ đội các tàu, các căn cứ, đài trạm của Hải quân cùng với quân, dân ta kiên cường đánh trả các đợt tập kích đánh phá của địch, làm cho chúng bị tổn thất nhiều máy bay, tàu chiến. Tháng 8-1965, Bác Hồ gửi thư khen và tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Quân chủng; hàng chục tập thể, cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Chiến công các hạng.

Cuối tháng 4-1966, máy bay địch mở rộng đánh phá ra vùng mỏ Đông Bắc, bộ đội Hải quân phối hợp với các lực lượng vũ trang ở khu vực đánh trả quyết liệt máy bay địch. Các tàu Hải quân ở khu vực Hạ Long đã bắn rơi 23 máy bay địch, bắn bị thương 38 chiếc và phối hợp cùng lực lượng đơn vị bạn bắn rơi nhiều chiếc khác. Cũng trong thời gian này, tàu của Hải quân đã tham gia nhiều trận chiến đấu bảo vệ TP. Hải Phòng.

Ngày 27-3-1967, Bộ Quốc Phòng ra quyết định hợp nhất Bộ Tư lệnh Hải quân và Quân khu Đông Bắc thành Bộ Tư lệnh Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc. Các cơ quan chức năng cũng được củng cố tổ chức biên chế phù hợp với việc hợp nhất.

Đầu năm 1967, Quân chủng Hải quân điều động lực lượng tàu của Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 100 thuộc Trung đoàn 171 tàu tuần tiễu lên tham gia trực sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Tại đây, bộ đội các tàu Hải quân đã cùng với quân dân ta chiến đấu nhiều trận, đánh trả quyết liệt các đợt tập kích của máy bay địch. Trận ngày 5-5-1967, hơn 300 lần chiếc máy bay Mỹ lao vào đánh phá Hà Nội; hơn 20 tàu tuần tiễu của Hải quân đã hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với quân, dân Hà Nội tiêu diệt 8 chiếc.

Ngày 14-5-1967, các tàu Hải quân bắn rơi 5 máy bay Mỹ, bảo vệ các mục tiêu được giao. Ngày 19-5 các lực lượng bắn rơi 8 máy bay lập công mừng sinh nhật Bác Hồ, trong đó Tàu T187 bắn rơi 1 chiếc.

Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tháng 4-1972, đế quốc Mỹ mở chiến dịch “Lai nơ Bếch cơ I” dùng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc Việt Nam. Ngày 18-12-1972, Mỹ tiếp tục mở chiến dịch “Lai nơ Bếch cơ II” tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược, huy động hàng trăm lượt máy bay B52 và F111 đánh phá ác liệt đối với Thủ đô Hà Nội, TP. Hải Phòng hòng đè bẹp ý chí của dân tộc ta, buộc ta phải chấp nhận những điều khoản do Mỹ đưa ra song quân dân ta đã làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” lẫy lừng, buộc chúng phải chấp nhận sự thất bại cay đắng. Trong chiến thắng này, bộ đội Hải quân đã góp phần tích cực trong chiến đấu bảo vệ TP. Hải Phòng và Thủ đô Hà Nội.

HQVN (Còn nữa)

HQVN -

Chiến công chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường là một chiến công to lớn của quân dân miền Bắc nói chung và của Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục tiến lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến công này đã đi vào lịch sử như một kỳ tích chiến đấu, làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật chống giặc giữ nước của dân tộc ta, đồng thời đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.

Nghiên cứu thủy lôi địch để tìm phương pháp rà phá.

Trước thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh và quân các nước chư hầu của Mỹ vào miền Nam; đồng thời âm mưu mở rộng cuộc chiến tranh leo thang phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Đầu năm 1967, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai trên chiến trường miền Nam và ngày càng đẩy mạnh việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Máy bay, tàu chiến Mỹ đêm ngày đánh phá các mục tiêu trên đất liền một cách điên cuồng, gây nhiều tội ác đối với nhân dân ta. Đồng thời, chúng thả thủy lôi, bom từ trường xuống các bến cảng, cửa sông ven biển, các khu tập kết chuyển tải hàng hóa và các bến phà trên sông, biển miền Bắc. Chúng thả nhiều đợt, mỗi đợt thực hiện theo một phương thức mới, kết hợp nhiều loại thủy lôi, bom mìn, có sự cải tiến và mức độ ngày càng nguy hiểm hơn.

Đợt một, từ ngày 26-2 đến 20-5-1967. Lúc đầu chúng thả 106 quả thủy lôi xuống 4 cửa sông lớn là sông Mã, sông Lam, sông Gianh và sông Nhật Lệ thuộc địa bàn Quân khu 4. Riêng ở Hải Phòng, chúng thả ở các luồng lạch xung quanh thành phố với ý đồ vừa thăm dò dư luận, vừa xem khả năng phản ứng của ta. Tiếp đó, chúng dùng máy bay A6A, AD6, F4, F7, F8… liên tục thả hàng ngàn quả thủy lôi MK- 50 (loại thủy lôi cảm ứng âm thanh) và MK-52 (loại thủy lôi cảm ứng từ trường), hình thành những tuyến chướng ngại trên khắp các cửa sông, biển miền Bắc.
Do đặc điểm các dòng sông ở miền Bắc có luồng chảy hẹp, uốn lượn ngoằn ngoèo và bị hỏa lực dày đặc của các lực lượng phòng không 3 thứ quân của ta đánh trả quyết liệt, nên máy bay địch không thể bay thấp để thả thủy lôi trúng luồng. Những quả thủy lôi rơi trúng luồng cũng ít phát huy tác dụng vì bị ta phát hiện, rà phá, tháo gỡ. Do vậy, trong đợt hai, từ tháng 6-1967 đến tháng 10-1968, địch đã sử dụng bom từ trường DST-36 để thay thế các loại thủy lôi. Đây là loại vũ khí rất nguy hiểm, có tác dụng chiến đấu cả ở trên cạn và dưới nước. Khi được thả từ máy bay xuống, bom từ trường chìm sâu dưới đất nên rất khó phát hiện và có phát hiện được cũng rất khó đưa lên, nhất là ở dưới nước, nên mức độ nguy hiểm của nó lớn hơn rất nhiều. Với âm mưu cắt đứt hoàn toàn các tuyến giao thông thủy bộ của ta, địch thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường DST-36 xen lẫn với bom phá dưới các cửa sông, bến phà, bến cảng, cửa biển. Những khu vực trọng điểm chúng thả với mật độ dày hơn. Trong cả hai đợt, từ tháng 2-1967 đến tháng 10-1968, đế quốc Mỹ thả 74.718 quả bom mìn các loại, trong đó có gần 7000 quả thủy lôi và bom từ trường phong tỏa 24 cửa sông, biển lớn nhỏ từ Cửa Tùng ( Vĩnh Linh) đến của Văn Úc (Hải Phòng). Riêng khu vực xung quanh cảng Hải Phòng chúng đã thả trên 1.500 quả, sông Gianh 2.000 quả, cửa Ròn 1.500 quả… Vào giai đoạn cuối địch thả những loại thủy lôi, bom từ trường đã được cải tiến như DST-36 Modl, DST-36 Mod2, DST- 36 Mod3 (chủ yếu là cải tiến đầu nổ MK42 theo các Modl1, Mod2, Mod3) để ta khó tháo gỡ, làm mất tác dụng chiến đấu của vũ khí thủy lôi, bom từ trường của chúng.

Nhằm làm gián đoạn giao thông giữa Hải Phòng, thành phố cảng lớn nhất của miền Bắc với các tỉnh, địch đã ném bom phá sập cầu Rào, cầu Niệm và thả dày đặc bom từ trường DST-36 xuống dưới lòng sông, bịt các cửa sông, bến phà xung quanh thương cảng, gây khó khăn cho vận chuyển hàng hóa viện trợ của nước ngoài vào cảng và từ cảng không thể chuyển đi nơi khác, với ý đồ biến thành phố cảng thành hòn đảo cô lập với nội địa. Không những thế, đế quốc Mỹ còn liên tục cho máy bay giám sát các tàu chở hàng của Liên Xô, Cu Ba và các nước XHCN anh em trên đường từ biển vào cảng Hải Phòng; chúng đã bắn tên lửa, rốc két vào hai tàu chở hàng của Liên Xô đang đậu ở Cảng, gây thiệt hại về vật chất và làm thương vong một số sỹ quan, thủy thủ của đội tàu, bất chấp sự phản đối của dư luận.

Để chủ động đối phó với nguy cơ địch sử dụng thủy lôi phong tỏa vùng biển miền Bắc, ngay từ đầu năm 1966, Đảng ủy Quân chủng Hải quân ra Nghị quyết lãnh đạo Quân chủng chủ động xây dựng kế hoạch chống địch phong tỏa đường thủy. Đến đầu tháng 4-1966, kế hoạch chống địch phong tỏa cơ bản hoàn thành và được Bộ Tư lệnh Quân chủng thông qua.
Ngày 1-6-1966, Thường vụ Quân ủy Trung ương xác định vấn đề chống phong tỏa các cảng là một nhiệm vụ cấp thiết và chỉ đạo Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân tích cực nghiên cứu kế hoạch, chuẩn bị đối phó.

HQVN

Video liên quan

Chủ đề