Chân phù nề là hiện tượng chân bị sưng phồng, thường gặp ở mu bàn chân, mắt cá chân, cẳng chân. Nếu như tình trạng này kéo dài, có thể là cảnh báo một số bệnh lý mà bạn cần phải quan tâm. Show Nhận biết dấu hiệu bất thường của hiện tượng chân phù nề Sưng phù nề (hay phù thũng) có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của cơ thể nhưng thường được nhận thấy nhất vẫn ở bàn tay, cánh tay, bàn chân, mắt cá chân và chân. Phù xảy ra khi mạch máu nhỏ (mao mạch) trong cơ thể bị rò rỉ dịch. Khi đó, thận bắt đầu giữ lại nhiều natri và nước hơn bình thường để bù cho các chất lỏng bị mất. Điều này làm tăng lượng nước lưu thông trong cơ thể, gây ra các mô bị sưng lên. Tuy nhiên, phù nề cũng có thể là dấu hiệu của một tình trạng bệnh lý nghiêm trọng hơn như: Suy tĩnh mạch Suy tĩnh mạch là tình trạng van trong các tĩnh mạch ở chân bị suy yếu hoặc bị hư hỏng, không thể bơm đủ máu trở lại tim. Máu còn lại tăng áp lực trong các tĩnh mạch, gây phù. Đây là bệnh có nhiều triệu chứng và có thể gây nên biến chứng, thậm chí người bệnh có thể tử vong nếu bị tắc động mạch phổi do sự hình thành các cục máu đông. Do đó, nếu có biểu hiện đau nhức hoặc liên tục bị chuột rút ở bắp chân không rõ nguyên nhân thì cần đi khám chuyên khoa sớm. Ở giai đoạn đầu, bệnh nhân có thể bị giãn các tĩnh mạch lưới ở dưới da, tạo thành hình mạng nhện màu đỏ hoặc màu xanh ở bắp chân, khiến nhiều chị em rất mặc cảm. Ở giai đoạn nặng, máu bị ứ trệ ở chân sẽ khiến bệnh nhân có triệu chứng căng tức ở bắp chân, nặng chân, mỏi chân, đau tê vùng bắp chân, phù ở quanh mắt cá chân... và có các biểu hiện của hội chứng chân không nghỉ (phải rung hoặc gác chân mới có cảm giác dễ chịu...). Khi tình trạng bệnh nặng hơn, chân bị thay đổi màu sắc da, loạn dưỡng và chàm hóa da. Nhiều trường hợp không được điều trị, chân sẽ bị loét, vị trí loét thường gặp là cổ chân khi có thêm yếu tố thuận lợi. Thiếu hệ thống bạch huyết Hệ bạch huyết giúp cơ thể làm sạch chất lỏng dư thừa từ các mô. Nếu hệ thống này bị hư hỏng hoặc do phù bạch huyết xảy ra vì một căn bệnh nào đó như ung thư, nhiễm trùng... thì chúng sẽ không hoạt động chính xác, dẫn đến phù nề. Bệnh thận Khi bị bệnh thận, thận có thể không loại bỏ đủ chất lỏng và natri trong máu. Nước dư thừa và natri tăng áp lực trong mạch máu gây phù nề. Suy tim sung huyết Khi một hoặc cả hai buồng tâm thất mất khả năng bơm máu hiệu quả, máu có thể giữ lại trong chân, mắt cá chân và bàn chân, gây phù nề. Xơ gan Bệnh tạo sẹo trong gan, cản trở chức năng gan, gây ra những thay đổi về hormone và hóa chất điều tiết chất dịch trong cơ thể cũng như làm tăng áp suất trong mạch máu lớn (cổng tĩnh mạch), trong đó mang máu từ ruột, lá lách và tuyến tụy vào gan. Những vấn đề này có thể dẫn đến chất lỏng tích tụ ở chân và ổ bụng (cổ trướng). Phù mạch là phù ở lớp biểu bì sâu và mô dưới da. Thường là phản ứng trung gian của tế bào mast cấp tính do phơi nhiễm với chất gây nghiện, nọc độc, chế độ ăn uống, phấn hoa, hoặc vẩy da động vật. Phù mạch cũng có thể là phản ứng cấp tính đối với các thuốc ức chế enzym chuyển angiotensin, phản ứng mạn tính, hoặc di truyền hoặc một rối loạn mắc phải do phản ứng bổ sung bất thường. Triệu chứng chính là sưng, triệu chứng có thể nặng. Chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Điều trị bằng kiểm soát đường thở nếu cần, loại bỏ hoặc tránh những chất gây dị ứng, và dùng thuốc chống viêm (ví dụ, thuốc chẹn H1). (Xem thêm Tổng quan các rối loạn dị ứng và Atopi Tổng quan các rối loạn dị ứng và Atopi Rối loạn dị ứng (bao gồm cả bệnh atopy) và các chứng rối loạn quá mẫn khác là phản ứng miễn dịch không thích hợp hoặc quá mức đối với kháng nguyên ngoại lai. Các phản ứng miễn dịch không thích... đọc thêm ) Phù mạch là sưng (thường khu trú) mô dưới da do tăng tính thấm của thành mạch và thoát dịch trong lòng mạch. Các chất trung gian được biết đến làm tăng tính thấm của mạch máu bao gồm:
Các chất trung gian có nguồn gốc từ tế bào mast có xu hướng tác động đến các lớp bề mặt của tổ chức dưới da, bao gồm lớp giữa biểu bì và hạ bì. Ở đó, các chất trung gian gây nổi mày đay và ngứa, thường kèm theo phù mạch qua trung gian tế bào mast. Trong bệnh phù mạch qua trung gian bradykinin, lớp hạ bì thường không bị ảnh hưởng, do đó không nổi mày đay và ngứa. Trong một số trường hợp, cơ chế và nguyên nhân gây phù mạch không rõ. Một số nguyên nhân (như thuốc chẹn kênh calci, thuốc hạ huyết áp) không có cơ chế xác định; đôi khi một nguyên nhân (ví dụ, giãn cơ) với một cơ chế được biết đã bị bỏ qua trên lâm sàng. Phù mạch có thể là cấp tính hoặc mãn tính (> 6 tuần). Có các hình thức di truyền và mắc phải Phù mạch di truyền và mắc phải Phù mạch di truyền và mắc phải (thiếu hụt chất ức chế C1mắc phải) là do thiếu hụt hoặc rối loạn chức năng của chất ức chế C1, một protein điều hoà con đường hoạt hóa bổ thể cổ điển. Chẩn đoán... đọc thêm đặc trưng bởi một phản ứng bổ sung bất thường. Phù mạch cấp tínhPhù mạch cấp tính do trung gian qua tế bào mast gặp > 90% trường hợp. Các cơ chế trung gian qua tế bào mast bao gồm dị ứng cấp tính, qua trung gian IgE điển hình. Phù mạch qua trung gian IgG thường biểu hiện cấp tính nổi mề đay Mày đay Mày đay bao gồm các mảng thay đổi, dạng vòng, ban đỏ và ngứa trên da. Mày đay cũng có thể đi kèm với phù mạch, là kết quả của sự kích hoạt tế bào mast và tế bào đa nhân ái kiềm trong lớp trung... đọc thêm (sần khu trú và ban đỏ ở da). Nó có thể thường do các chất gây dị ứng giống nhau (ví dụ như thuốc, nọc độc, chế độ ăn uống, các chất gây dị ứng chiết xuất) gây ra nổi mề đay qua trung gian IgE cấp tính. Phù mạch cấp tính cũng có thể do các tác nhân trực tiếp kích thích các tế bào mast không IgE. Nguyên nhân có thể bao gồm opiates, các chất tương phản phóng xạ, aspirin và thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs). Các thuốc ức chế ACE gây ra khoảng 30% các trường hợp phù mạch cấp tính tại các khoa cấp cứu. Thuốc ức chế enzym chuyển angiotensin (ACE) có thể trực tiếp làm tăng nồng độ bradykinin. Mặt và đường hô hấp trên thường bị ảnh hưởng nhiều nhất, nhưng ruột có thể bị ảnh hưởng. Mày đay không xảy ra. Phù mạch có thể xảy ra sớm hoặc vài năm sau khi bắt đầu điều trị. Phù mạch mạn tínhNguyên nhân của phù mạch mạn tính (> 6 tuần) thường không được biết. Cơ chế qua trung gian IgE rất hiếm gặp, nhưng đôi khi cũng là nguyên nhân gây ra do ăn uống lâu ngày một loại thuốc không ngờ tới hoặc hóa chất (ví dụ penicillin trong sữa, thuốc không cần kê đơn, chất bảo quản, các chất phụ gia thực phẩm khác). Một vài trường hợp do sự thiếu hụt chất ức chế C1 di truyền hoặc mắc phải. Phù mạch tự phát là phù mạch xảy ra mà không có mày đay, mạn tính và tái phát, và không tìm được nguyên nhân. Phù mạch do di truyền và mắc phảiPhù mạch di truyền và phù mạch mắc phải Phù mạch di truyền và mắc phải Phù mạch di truyền và mắc phải (thiếu hụt chất ức chế C1mắc phải) là do thiếu hụt hoặc rối loạn chức năng của chất ức chế C1, một protein điều hoà con đường hoạt hóa bổ thể cổ điển. Chẩn đoán... đọc thêm là các rối loạn được đặc trưng bởi phản ứng bổ sung bất thường và gây ra bởi sự thiếu hụt hoặc rối loạn chức năng của chất ức chế C1. Các triệu chứng của phù mạch qua trung gian bradykinin. Triệu chứng và Dấu hiệuTrong phù mạch, phù nề thường không đối xứng và đau nhẹ. Nó thường xuất hiện ở mặt, môi và/hoặc lưỡi và cũng có thể xảy ra ở mu bàn tay hoặc bàn chân hoặc trên bộ phận sinh dục. Phù đường hô hấp trên có thể gây suy hô hấp và thở khò khè; thở khò khè có thể được nhầm với bệnh hen. Đường thở có thể bị tắc nghẽn hoàn toàn. Phù ruột có thể gây buồn nôn, nôn, đau bụng và/hoặc tiêu chảy. Hình ảnh của phù mạch Hereditary AngioedemaBức ảnh này cho thấy sưng môi ở một người bị phù mạch di truyền. Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Joe E, Soter N. Trong Current Dermatologic Diagnosis and Treatment, biên tập bởi I Freedberg, IM Freedberg và MR Sanchez. Philadelphia, Current Medicine, 2001. Phù mạch ở môiPhù mạch môi có thể không đối xứng, như trong bức ảnh này. DR P. MARAZZI/THƯ VIỆN ẢNH KHOA HỌC Phù mạch lưỡiBệnh nhân này bị sưng lưỡi do phù mạch. THƯ VIỆN HÌNH ẢNH KHOA HỌC Các biểu hiện khác của phù mạch tùy thuộc qua trung gian. Phù mạch qua trung gian tế bào mast
Phù mạch qua trung gian Bradykinin
Chẩn đoán
Chẩn đoán mày đay, xem . Bệnh nhân bị sưng khu trú nhưng không nổi mày đay được hỏi cụ thể về việc sử dụng thuốc ức chế men chuyển. Nguyên nhân của phù mạch thường rõ ràng, và các xét nghiệm chẩn đoán hiếm khi được yêu cầu vì hầu hết các phản ứng đều tự hết và không tái phát. Khi phù mạch là cấp tính, không có xét nghiệm nào đặc biệt hữu ích. Khi bệnh mãn tính, cần đánh giá kỹ lưỡng thuốc và chế độ ăn. Nếu không có nguyên nhân rõ ràng hoặc nếu các thành viên trong gia đình bị nổi mề đay, bác sĩ lâm sàng nên cân nhắc đo nồng độ chất ức chế C1 và nồng độ C4 để kiểm tra phù mạch di truyền hoặc phù mạch mắc phải. Mức C4 thấp giúp xác nhận chẩn đoán phù mạch di truyền (loại 1 và 2) hoặc thiếu chất ức chế C1. Erythropoietic (rối loạn chuyển hóa porphyrin) có thể có biểu hiện giống các dạng dị ứng của phù mạch; cả hai có thể gây phù nề và ban đỏ sau khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Hai bệnh có thể phân biệt được bằng cách đo nồng độ porphyrins trong máu và phân. Pearls & Pitfalls
Điều trị
Bảo vệ đường thở là ưu tiên cao nhất. Nếu phù mạch tại đường hô hấp, được tiêm dưới da hoặc IM như đối với sốc phản vệ trừ khi cơ chế rõ ràng là qua trung gian bradykinin (ví dụ, do sử dụng chất ức chế ACE hoặc do di truyền hoặc phù mạch mắc phải). Trong bệnh phù mạch qua trung gian tế bào mast, điều trị thường làm giảm nhanh phù mạch đường khí; tuy nhiên, trong phù mạch qua trung gian bradykinin, phù nề thường kéo dài > 30 phút sau đó giảm khi bắt đầu điều trị. Vì thế, đặt nội khí quản chỉ định cần thiết trong phù mạch qua trung gian bradykinin. Điều trị phù mạch bao gồm việc loại bỏ hoặc tránh các chất gây dị ứng và sử dụng các thuốc làm giảm các triệu chứng. Nếu nguyên nhân không rõ ràng, tất cả các thuốc không cần thiết phải dừng lại. Cho phù mạch qua trung gian tế bào mast, thuốc có thể làm giảm các triệu chứng bao gồm . Prednisone 30 đến 40 mg uống một lần/ngày được chỉ định trong các trường hợp phản ứng nặng hơn. Corticosteroid tại chỗ không có tác dụng. Nếu các triệu chứng trầm trọng, thuốc corticosteroid và thuốc kháng histamine có thể được tiêm tĩnh mạch (ví dụ methylprednisolone 125 mg và diphenhydramine 50 mg). Điều trị kéo dài có thể dùng thuốc chẹn H1 và H2 và đôi khi dùng corticosteroid. Những bệnh nhân có phản ứng qua trung gian với tế bào mast nặng cần được khuyên nên luôn luôn mang theo ống tiêm, epinephrine tự tiêm và thuốc kháng histamin uống, và nếu có phản ứng nghiêm trọng, sử dụng các phương pháp điều trị này càng nhanh càng tốt và chuyển bệnh nhân đến khoa cấp cứu. Ở đó, họ có thể được giám sát chặt chẽ và có thể điều trị nhắc lại hoặc điều chỉnh nếu cần. Cho phù mạch qua trung gian bradykinin, epinephrine, corticosteroids, và thuốc kháng histamine không có bằng chứng về hiệu quả. Phù mạch do dùng thuốc ức chế men chuyển thường được kiểm soát khoảng 24 đến 48 giờ sau khi ngừng thuốc. Nếu các triệu chứng nghiêm trọng, tiến triển hoặc dai dẳng, có thể được điều trị. Chúng bao gồm huyết tương tươi đông lạnh, thuốc ức chế C1, và có thể là ecardantide (thuốc ức chế kallikrein huyết tương, cần trong sản xuất Bradykinin) và icatibant (ngăn chặn bradykinin). Cho phù mạch tự phát, liều cao của thuốc kháng histamin đường uống không gây ngủ có thể điều trị. Những điểm chính
|