Mặt trận dân tộc thống nhất được đảng thành lập vào tháng 10 năm 1936 có tên gọi là gì

Lịch sử hình thành Mặt trận qua các thời kỳ cũng là lịch sử tập hợp ngày một rộng lớn sức mạnh dân tộc và sự trưởng thành từng bước của Đảng ta và Cách mạng Việt Nam. Kế tục truyền thống của Hội phản đế đồng minh trong cao trào Cách mạng (1930 - 1936) mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ tỉnh; Mặt trận Dân chủ Đông dương với Cao trào dân chủ (1936 - 1939) rộng mở trong cả nước chống Phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình và cao trào giải phóng dân tộc (1939 - 1945) đã góp phần quan trọng vào việc tổ chức, tập hợp lực lượng đấu tranh theo đường lối của giai cấp công nhân cách mạng.

Từ Hội Phản đế đồng minh (1930) đến Phản đế liên minh (1935), Mặt trận dân chủ Đông Dương (1938), Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế (1940) và Mặt trận Việt Minh (1941), những tên gọi và những nhiệm vụ từng thời kỳ có thay đổi nhưng mục tiêu cơ bản vẫn là tập hợp đông đảo quần chúng cách mạng, nhằm đánh đổ đế quốc Pháp - Nhật, góp phần rất quan trọng và to lớn cho sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Mặt trận dân tộc thống nhất được đảng thành lập vào tháng 10 năm 1936 có tên gọi là gì

Sau khi Cách mạng Tháng tám thành công, Thực dân Pháp núp dưới bóng quân Đồng Minh để tiếp tục xâm lược nước ta. Để bảo vệ chính quyền cách mạng làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và tay sai, Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật. Từ đó vai trò của Việt Minh trong đời sống chính trị của đất nước ngày càng được đề cao. Nhờ những hoạt động có hiệu quả của Việt Minh, khối đại đoàn kết toàn dân thực sự trở thành hậu thuẫn vững chắc chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ được chính quyền, chủ động chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Để đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của Mặt trận dân tộc thống nhất, năm 1946 Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) được thành lập, đây là bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất.

Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc.

Năm 1951 thống nhất hai tổ chức này thành Mặt trận Liên Việt, đã động viên toàn dân tộc đẩy mạnh kháng chiến làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa đến ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, công nhận chủ quyền, độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam lúc này là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam, song nhiệm vụ cách mạng của cả hai miền là đều có mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ở miền Bắc có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ở miền Nam có Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Liên minh các lực lượng Dân tộc, dân chủ và hòa bình miền Nam Việt Nam. Các tổ chức này đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang là tăng cường đoàn kết toàn dân ở cả 2 miền Nam - Bắc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đánh thắng đế quốc Mỹ, hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.

Đánh giá về MTTQ Việt Nam, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng nêu rõ: “MTTQ Việt Nam đã đoàn kết các giai cấp, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sỹ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, nhờ đó mà động viên mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ của dân tộc để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.

Mặt trận dân tộc thống nhất được đảng thành lập vào tháng 10 năm 1936 có tên gọi là gì

Sau khi thống nhất đất nước, từ ngày 31/01 đến ngày 04/02/1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội lần thứ nhất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức đã thống nhất 3 tổ chức Mặt trận: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam lại, lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là Đại hội lịch sử, biểu dương sức mạnh to lớn khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh dấu bước phát triển mới của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong giai đoạn Cách mạng mới. Từ khi thống nhất đất nước đến nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã qua 09 lần Đại hội cấp toàn quốc.  MTTQ tỉnh Bắc Giang đã qua 14 kỳ Đại hội, đã có 21 vị từng đảm nhiệm chức vụ Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ nhiệm Việt Minh, Hội Trưởng Hội Liên Việt, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Liên Việt và Ủy ban MTTQ tỉnh qua các thời kỳ.

Qua các lần Đại hội tên gọi các chương trình hành động tuy có khác nhau, mỗi kỳ Đại hội quyết định thực hiện một số cuộc vận động khác nhau, nhưng nội dung và mục tiêu cơ bản, trọng tâm và xuyên suốt được xác định vẫn là vấn đề xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn lịch sử khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong tập hợp đông đảo quần chúng trong mỗi thời kỳ cách mạng của đất nước, xây dựng và phát huy khối Đại đoàn kết toàn dân tộc, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”.

Ban Tuyên giáo-Dân Tộc, Ủy ban MTTQ tỉnh

Những chặng đường lịch sử vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (Kỳ 1) (15/11/2020)

Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18-11-1930,

Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam. Từ đó tới nay, tuy có những hình thức và tên gọi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn trung thành với lợi ích của nhân dân, tiêu biểu cho truyền thống đoàn kết dân tộc, là biểu tượng về lòng tự hào, tự tôn dân tộc, là trí tuệ, sức mạnh không gì lay chuyển nổi của các thế hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bài 1. Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cách mạng (1930 - 1945)

1. Hội Phản đế Đồng minh (11-1930 – 3-1935)

Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế Đồng minh. Đây là hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ khi thành lập đến tháng 3-1935, Hội Phản đế Đồng minh đã có nhiều đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

2. Hội Phản đế Liên minh (3-1935 – 10-1936)

Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng thông qua Nghị quyết về công tác Phản đế Liên minh. Nghị quyết xác định các nhiệm vụ cần thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội Phản đế Liên minh, đảng viên phải vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới cấp toàn Đông Dương, lôi kéo rộng rãi các tổ chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết cuộc vận động Phản đế Liên minh vốn có những khẩu hiệu chung tuyên truyền lớn lao với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hằng ngày. Phải ra báo và tài liệu riêng cho Phản đế Liên minh; cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các hình thức tổ chức Phản đế Liên minh của các đảng bộ.

3. Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (10-1936 – 3-1938)

Từ những năm 1936 chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Sau khi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ bảy trở về, Đoàn đại biểu Đảng ta cùng với Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị (tháng 11-1936) xác định mục tiêu chủ yếu và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam lúc này là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày”, đồng thời chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương tập hợp các lực lượng toàn Đông Dương vào cuộc đấu tranh chống đế quốc.

Mặt trận dân tộc thống nhất được đảng thành lập vào tháng 10 năm 1936 có tên gọi là gì
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22-12-1944. Ảnh tư liệu

4. Mặt trận Dân chủ Đông Dương (3-1938 – 11-1940)

Để phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1938 quyết định đổi tên thành Mặt trận Thống nhất Dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Nhờ có chính sách Mặt trận đúng đắn, có phương pháp vận động khôn khéo, phương pháp đấu tranh linh hoạt nên Mặt trận đã tập hợp, đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã hội như công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ, đồng thời còn bắt tay với các đảng phái cải lương, kể cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

5. Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế (11-1940 – 5-1941)

Ngày 1-9-1939 Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, tháng 9-1940 phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp thỏa hiệp với phát xít Nhật, thẳng tay đàn áp phong trào dân chủ chống chiến tranh của nhân dân ta. Tháng 11-1940 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế, nhằm tập hợp hết thảy những lực lượng phản đế, phản phong kiến ở Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và bè lũ tay sai phản lại quyền lợi dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, các tổ chức phản đế nhanh chóng được phát triển, Mặt trận được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân.

6. Mặt trận Việt Minh (thành lập từ tháng 5-1941)

Nhận thấy sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước có lợi cho cách mạng Việt Nam, ngày 28-1-1941 Nguyễn Ái Quốc về nước (sau hơn 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài). Tháng 5-1941 Người triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám. Hội nghị nhận định: Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc giải phóng, trước mắt tạm gác khẩu hiệu “cách mạng thổ địa” để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống Pháp, Nhật nhằm giải quyết nhiệm vụ sống còn của dân tộc lúc này là giải phóng dân tộc. Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh bao gồm các hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân.

Tháng 10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc thống nhất trình bày công khai đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình. Ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa. Tháng 10-1944 Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp toàn quốc Đại hội, đại biểu cho tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể trong nước để bầu cử ra “Một cơ cấu đủ lực lượng và uy tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”.

Mặt trận dân tộc thống nhất được đảng thành lập vào tháng 10 năm 1936 có tên gọi là gì
Lực lượng tự vệ Hà Nội những ngày tháng 8-1945. Ảnh tư liệu

Ngày 22-12-1944 Bác Hồ ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Thực hiện chỉ thị đó, một cao trào cách mạng đã xuất hiện ở nhiều nơi; khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh được thành lập. Tình hình chuyển biến mau lẹ, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào dũng cảm tiến lên dưới ngọn cờ của Việt Minh hãy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ở Tân Trào trong hai ngày 16 và 17-8-1945 đã nhiệt liệt tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản kiến nghị, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quyết định Quốc kỳ, Quốc ca. “Đại hội đã cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, sau này trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” do Lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chỉ trong vòng hai tuần lễ chính quyền địch hoàn toàn sụp đổ, Ủy ban Nhân dân lâm thời được thành lập khắp các địa phương trong cả nước. Ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

(Còn nữa)

Ban Tuyên giáo Trung ương -MTTQ Việt Nam