Hướng dẫn học môn luật hiến pháp năm 2024

Địa chỉ trụ sở: Tòa nhà Viettel, Số 285, Đường Cách Mạng Tháng 8, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0309532909 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Thành phố Hồ Chí Minh cấp lần đầu vào ngày 06/01/2010.

Luật Hiến pháp là một ngành độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời là một môn học bắt buộc trong các cơ sở đào tạo Luật. Đây là môn học luật chuyên ngành đầu tiên mà sinh viên luật được học trong chương trình đào tạo. Môn học Luật Hiến pháp cung cấp những kiến thức cơ bản, nền tảng, nguyên tắc để người học tiếp tục học tập, nghiên cứu các môn luật chuyên ngành tiếp theo.

Việc biên soạn cuốn sách “Hướng dẫn môn học luật Hiến pháp” nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, học tập, tìm hiểu Luật Hiến pháp của người học. Cuốn sách tập trung phân tích lý giải một cách khoa học các khái niệm, các vấn đề lý luận về hiến pháp cùng nội dung các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành về Luật Hiến pháp. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, học tập, tìm hiểu, cuốn sách được chia ra thành 10 vấn đề.

Các vấn đề được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, súc tích, Trong mỗi vấn đề có các câu hỏi hướng dẫn học tập để người đọc, người học có thể kiểm tra kết quả học tập của mình cũng như sự trang bị cho mình những kiến thức cốt lõi về Luật Hiến pháp

Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng).....

3. Mục tiêu môn học: giới thiệu những khái niệm cơ bản về Hiến pháp, Luật Hiến pháp; lịch sử lập hiến Việt Nam và một số chế định của Luật Hiến pháp Việt Nam như chế độ chính trị; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; chế độ bầu cử; vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, hình thức hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Chính quyền địa phương.

4. Phương pháp giảng dạy: dạy lý thuyết kết hợp với thảo luận

5. Phương pháp đánh giá:

Điểm đánh giá bộ phận: được đánh giá thông qua hoạt động thuyết trình và thảo luận tại lớp theo nhóm sinh viên và cá nhân;

Điểm thi kết thúc học phần: sinh viên làm bài thi tự luận, không được sử dụng tài liệu, thời gian 90 phút.

Điểm học phần = (Điểm đánh giá bộ phận 30%) + (Điểm thi kết thúc học phần 70%).

  1. Nội dung môn học:

Bài 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LỊCH SỬ LẬP HIẾN VIỆT NAM

  1. Khái quát về Luật Hiến pháp Việt Nam

Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.

1. Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ xã hội cùng loại:

 Chế độ nhà nước (chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ, quốc phòng – an ninh, đối ngoại).  Địa vị pháp lý cơ bản của công dân (quan hệ nhà nước – công dân).  Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

2. Phương pháp điều chỉnh: mỗi loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng  Nhà nước có cách tác động phù hợp. Cụ thể:

 Phương pháp bắt buộc: “Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội” (khoản 2 điều 87 Hiến pháp 2013).  Phương pháp cấm đoán: “Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (điều 5 Hiến pháp 2013).  Phương pháp cho phép: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” (điều 24 Hiến pháp 2013).  Phương pháp định hướng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4 Hiến pháp 2013).

3. Quy phạm pháp luật Hiến pháp: bộ phận cấu thành nhỏ nhất trong hệ thống cấu trúc luật Hiến pháp. Đặc điểm:

 Quy phạm luật Hiến pháp chứa đựng trong Hiến pháp (nguồn chủ yếu của luật Hiến pháp) và các văn bản pháp luật về tổ chức quyền lực nhà nước.  Quy phạm luật Hiến pháp thường không có đủ ba bộ phận (giả định, quy định, chế tài) mà chủ yếu chỉ có phần quy định.

4. Quan hệ pháp luật Hiến pháp

 Chủ thể: nhân dân; Nhà nước, cơ quan nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch; người mang chức vụ nhà nước).  Khách thể: lãnh thổ quốc gia và địa giới hành chính; giá trị vật chất, tinh thần; hành vi của nhà nước, tổ chức và cá nhân.  Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, địa vị pháp lý cơ bản của công dân.

5. Nguồn của Luật Hiến pháp Việt Nam

 Hình thức thể hiện: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.  Nội dung: tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; địa vị pháp lý cơ bản của công dân.

dân; về các quyền tự do, bình đẳng, công bằng, bác ái ... nên được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ và tham gia vào cuộc cách mạng này.

Cách mạng tư sản thắng lợi, Hiến pháp ra đời là sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng, khẳng định sự thống trị của giai cấp tư sản tiến bộ, đang lên và là lực lượng đại diện cho một phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất TBCN, một chế độ cai trị mới

  • chế độ dân chủ tư sản, đồng thời đánh dấu sự rút lui khỏi vũ đài chính trị của giai cấp phong kiến cùng với chế độ cai trị độc đoán, chuyên quyền của nó.

Ở đâu cách mạng tư sản giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó toàn bộ quyền lực nhà nước được chuyển giao cho giai cấp tư sản và quyền lực này được tổ chức bằng hình thức chính thể cộng hòa mà Hiến pháp là văn bản pháp lý chính thức ghi nhận. Còn ở đâu, giai cấp tư sản không giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để, thì ở đó giai cấp tư sản phải nhượng bộ và thỏa hiệp với giai cấp quý tộc phong kiến, ở đó quyền lực nhà nước được chia sẻ giữa hai giai cấp thống trị này và hình thức chính thể quân chủ đại nghị được ghi nhận bởi một văn bản pháp lý cũng có tên gọi là Hiến pháp (cũng vì thế chính thể này còn gọi là " quân chủ lập hiến" ).

Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản ở nước Anh (1640-1654) là đạo luật năm 1653 về " Hình thức cai quản Nhà nước Anh, Xcốtlen, Ailen và những địa phận thuộc chúng" (một trong các bộ phận hợp thành Hiến pháp không thành văn của nước Anh), trong đó quy định hình thức tổ chức quyền lực mới. Tiếp đến là các bản Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 (Hiến pháp thành văn đầu tiên trên thế giới), Hiến pháp của Pháp và của Ba Lan năm 1791, Hiến pháp Na-uy năm 1814, Hiến pháp Bỉ năm 1831, Hiến pháp Ác-hen-ti-na năm 1853, Hiến pháp Luych-xăm-bua năm 1868, Hiến pháp Thuỵ Sỹ năm 1874... Đến cuối thế kỷ thứ 19, ở nhiều nước châu Âu đã có Hiến pháp và sự ra đời các bản Hiến pháp nói trên đánh dấu bước khởi đầu lịch sử lập hiến của nhân loại.

Hiện nay, trên thế giới có khoảng 200 quốc gia và vùng lãnh thổ có Hiến pháp và sự hiện diện của Hiến pháp được xem là dấu hiệu pháp lý không thể thiếu của một Nhà nước dân chủ hiện đại, mặc dù Hiến pháp không phải là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ dân chủ.

2. Các giai đoạn phát triển của Hiến pháp:

Sự phát triển Hiến pháp trên thế giới từ khi xuất hiện cho đến nay có thể chia thành 4 giai đoạn chủ yếu sau:

  1. Giai đoạn thứ nhất: Từ khi xuất hiện những bản Hiến pháp đầu tiên của các nhà nước tư sản trong thế kỷ thứ XVIII cho đến trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và trước khi Nhà nước XHCN đầu tiên ra đời ở nước Nga (1917):
  • Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này diễn ra chủ yếu ở châu Âu, Bắc Mỹ. Ở Châu Á có Hiến pháp của Nhật Bản năm 1889 (năm Minh Trị thứ 22).
  • Nội dung quy định của các bản Hiến pháp ở giai đoạn này chỉ giới hạn ở 2 lĩnh vực: 1) Tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước (các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) và tổ chức chính quyền tự quản địa phương); 2) Các quyền con người, quyền công dân về chính trị và dân sự (các quyền, tự do cá nhân).
  1. Giai đoạn thứ hai: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945). Đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này là thắng lợi của cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đường cho sự ra đời một kiểu nhà nước mới là Nhà nước XHCN Xô viết ở các nước, như: Cộng hòa liên bang Nga, Cộng hòa U-krai-na, Cộng hòa Be-la-ru-xi-a, Cộng hòa ngoại Cáp-ca- dơ..ùng với sự ra đời của những bản Hiến pháp kiểu mới là Hiến pháp XHCN. Các bản Hiến pháp XHCN này chỉ xác định một hình thức chính thể nhà nước duy nhất là chính thể cộng hoà Xô viết, không chấp nhận nguyên tắc phân chia quyền lực mà theo nguyên tắc tập quyền XHCN, xác định vị trí tối cao và nguyên tắc toàn quyền của các Xô viết so với các cơ quan nhà nước khác cùng cấp với khẩu hiệu "Tất cả quyền lực (chính quyền) về tay các Xô viết". Nội dung quy định của Hiến pháp ở giai đoạn này bắt đầu mở rộng sang cả lĩnh vực kinh tế - xã hội, mở rộng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về kinh tế, văn hóa, xã hội.
  1. Giai đoạn phát triển thứ ba: Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối những năm 80 - đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa thực dân đế quốc, nhiều quốc gia đã tiến hành thắng lợi cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân giành được độc lập, phát triển theo con đường XHCN với hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân. Các quốc gia này đã lần lượt ban hành các bản Hiến pháp XHCN, như: An-ba-ni (1946), Bun-ga-ri (1947), Ba Lan, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Ru-ma-ni (1948), Trung Quốc (1954)... Sự phát triển Hiến pháp ở giai đoạn này đã mang tính toàn cầu, vì ở châu Á, châu Phi, châu Đại dương cùng với sự ra đời của hơn 100 quốc gia mới giành

dân do cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thông qua (hoặc nhân dân trực tiếp thông qua bằng trưng cầu ý dân), trong đó quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất của: chế độ chính trị, chính sách phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương và địa phương ... thể hiện một cách tập trung nhất, mạnh mẽ nhất ý chí và lợi ích của giai cấp (hoặc liên minh giai cấp) cầm quyền.

  1. Các dấu hiệu đặc trưng của Hiến pháp: khác với các đạo luật và các văn bản pháp luật thông thường khác, Hiến pháp có các dấu hiệu đặc trưng chủ yếu sau đây:

Một là , Hiến pháp do chủ thể đặc biệt là nhân dân trực tiếp thông qua bằng trưng cầu ý dân, hoặc cơ quan đại diện có thẩm quyền cao nhất của nhân dân thông qua theo một trình tự, thủ tục đặc biệt.

Ví dụ, Hiến pháp của Pháp (1958), của Liên bang Nga (năm 1993), của Hàn Quốc, Philippin (1987), Anbany (1998), Công-gô (2002), Thái Lan (2007), Bôlivia (2009) v. được thông qua bằng trưng cầu ý dân; Hiến pháp Hoa kỳ năm 1787 do Hội nghị lập hiến gồm đại biểu đại diện cho 13 bang của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ khi đó soạn thảo và sau khi được 3/4 tổng số các bang (cơ quan lập pháp của các bang) tán thành bắt đầu có hiệu lực năm 1789; Hiến pháp nước ta do Quốc hội - cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân thông qua khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (để thông qua bộ luật, đạo luật thường chỉ cần quá 1/2 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành).

Hai là , Hiến pháp là văn bản pháp luật duy nhất quy định tổ chức và thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước, bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp có tính chất khởi thuỷ ("quyền lập quyền") cho các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương và địa phương.

Các đạo luật khác về tổ chức bộ máy nhà nước chỉ quy định về tổ chức và thực hiện một loại quyền lực nhà nước nhất định, như: Luật tổ chức Quốc hội chỉ quy định về tổ chức và họat động của Quốc hội, cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Luật tổ chức Tòa án chỉ quy định về tổ chức các cơ quan xét xử chuyên thực hiện quyền tư pháp... Các cơ quan nhà nước được các luật quy định cho các quyền và thực hiện các quyền này trên thực tế là bắt nguồn từ các quy định có tính chất "khởi thuỷ" (xác lập đầu tiên) của Hiến pháp.

Ba là , Hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rộng và mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát cao nhất so với các văn bản pháp luật khác.

Phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp rộng nhất so với tất cả các văn bản pháp luật khác, bao gồm các quy định về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước v., trong khi đó các văn bản pháp luật khác có phạm vi điều chỉnh hẹp hơn, chỉ giới hạn trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định.

Tuy Hiến pháp điều chỉnh phạm vi rộng như trên, nhưng mức độ điều chỉnh ở tầm khái quát cao. Đối với mỗi lĩnh vực điều chỉnh, Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất, có tính nguyên tắc.

Bốn là , Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp.

Dấu hiệu đặc trưng này của Hiến pháp được quy định bởi các dấu hiệu đặc trưng nói trên (do chủ thể ban hành, do tính chất quan trọng của nội dung quy định của Hiến pháp) và được thể hiện ở chỗ:

  • Hiến pháp là cơ sở nền tảng cho toàn bộ hệ thống pháp luật của quốc gia. Tất cả các cơ quan nhà nước (kể cả cơ quan đại diện quyền lực nhà nước cao nhất đã ban hành Hiến pháp), khi ban hành các văn bản pháp luật khác theo thẩm quyền là trên cơ sở và nhằm thi hành các quy định của Hiến pháp, nhưng phải phù hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp, nếu trái sẽ bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ (cho nên Hiến pháp còn được gọi là "đạo luật gốc" , hay "luật mẹ" ).
  • Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất trong cả nước, đối với mọi địa phương, đối với tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, đơn vị lực lượng lượng vũ trang và mọi cá nhân có liên quan.
  • Có một cơ chế giám sát đặc biệt để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Ví dụ: một số nước thành lập Toà án Hiến pháp (CHLB Đức, Liên bang Nga, Italia, Hunggari...), hoặc Hội đồng bảo hiến (Pháp, Ka-dăc-xtan, Tuy-ni-di...), hay giao cho Toà án tối cao (Hoa Kỳ, Nhật Bản...) để thực hiện sự giám sát Hiến pháp.

4. Phân loại Hiến pháp: Có nhiều cách phân loại Hiến pháp khác nhau.

+ Căn cứ vào hình thức thể hiện , có:

năm đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789), ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa (1911) và chính sách duy tân mà Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng ở Nhật Bản..ên trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chủ yếu về lập hiến là:

- Khuynh hướng thứ nhất : thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản Hiến pháp trong đó bảo đảm: quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và quyền của "dân An Nam" về tự do, dân chủ được mở rộng. Đại diện cho xu hướng này là Bùi Quang Chiêu (người sáng lập ra Đảng lập hiến ở Nam Kỳ năm 1923) và Phạm Quỳnh (Chủ bút tờ báo Nam Phong) tuyên truyền cho tư tưởng " Pháp Việt đề huề ".

- Khuynh hướng thứ hai: chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản Hiến pháp của Nhà nước độc lập đó. Không có độc lập dân tộc thì không thể có Hiến pháp thực sự dân chủ. Đại diện cho chủ trương này là cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu Trinh, nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và lịch sử lập hiến ở nước ta đã chứng minh chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn.

2. Hiến pháp 1946

  1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1946
  • Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
  • Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Hồ Chủ tịch đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, mà một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội, Quốc hội có nhiệm vụ xây dựng và ban hành bản Hiến pháp. Vì theo Người: " Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" (Hồ Chí Minhàn tập, T, tr).
  • Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 bản Dự thảo Hiến pháp đầu tiên được công bố để nhân dân đóng góp ý kiến.
  • Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I (do cuộc tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 bầu) đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta.

2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1946

Hiến pháp 1946 bao gồm Lời nói đầu, 7 chương và 70 điều. Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là: “Bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết Quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Lời nói đầu còn xác định 3 nguyên tắc cơ bản xây dựng Hiến pháp là: Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các quyền lợi dân chủ; và Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp 1946 đều được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản nói trên.

Nguyên tắc "Đoàn kết toàn dân" được thể hiện ở Chương I " Chính thể", gồm 3 điều. Điều 1 xác định rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Điều 2 khẳng định: "Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia".

Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do dân chủ được thể hiện ở Chương II (gồm 18 điều quy định về " Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân "). Chương này quy định các quyền rất cơ bản của con người, của công dân, như: quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền bầu cử, ứng cử; quyền tư hữu về tài sản; các quyền tự do dân chủ và tự do cá nhân; quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia... Công dân có các nghĩa vụ: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật.

Nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân được thể hiện cụ thể trong các chương III, IV, V, VI quy định về Nghị viện nhân dân , về Chính phủ , Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính , về các cơ quan tư pháp. Điều này thể hiện cụ thể như sau:

Chương III: gồm 21 điều (Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân được xác định là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, do công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, tự do, trực tiếp và kín, nhiệm kỳ 3 năm. Nghị viện có những nhiệm vụ quyền hạn quan trọng như: giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân

Mặc dù Hiến pháp 1946 không được đưa ra để nhân dân phúc quyết như Điều 21 Hiến pháp 1946 quy định và cũng không được ban bố thi hành do điều kiện chiến tranh, nhưng Quốc hội lập hiến đã giao cho Chính phủ cùng với Ban thường vụ Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc của Hiến pháp này và tình hình thực tế ban hành các văn bản pháp luật để điều hành, quản lý đất nước.

Ý nghĩa và giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp năm 1946 thể hiện:

  • Là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà và cũng là bản Hiến pháp của một Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Hiến pháp đã ghi nhận thành quả đấu tranh của nhân dân ta giành độc lập, tự do cho dân tộc, lật đổ chế độ thực dân - phong kiến ở nước ta.
  • Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy định mang tính tiến bộ, tính nhân văn sâu sắc.
  • Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của một "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự sáng tạo ra một hình thức chính thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế định Chủ tịch nước phù hợp với điều kiện chính trị - xã hội rất phức tạp ở nước ta giai đoạn này.
  • Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được Hiến pháp 1946 quy định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

3. Hiến pháp 1959

  1. Hoàn cảnh ra đời:

- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp đã ký với Việt Nam Hiệp định Giơ-ne-vơ (20/7/1954), miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm chia làm hai miền. Hiến pháp năm 1946 " đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy, chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy" (Hồ Chí Minh: Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959).

  • Ngày 23/1/1957 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I đã ra nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp và thành lập Ban sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban. Ngày 1/4/1959, Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân thảo luận, đóng góp ý kiến.
  • Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, ngày 31/12/1959, Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 01/01/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp này.
  1. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1959:

Hiến pháp 1959 gồm: Lời nói đầu và 112 điều chia thành 10 chương. Lời nói đầu khẳng định nước Việt Nam là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau, khẳng định những truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam. Lời nói đầu ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đồng thời xác định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Chương I : gồm 8 điều quy định về “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”: chính thể của Nhà nước ta vẫn là Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân, xác định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1959 khẳng định “đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt” , khẳng định nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc...

Chương II: gồm 13 điều quy định về “Chế độ kinh tế và xã hội” bao gồm đường lối, chính sách phát triển kinh tế, các hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, của người lao động riêng lẻ và của nhà tư sản dân tộc ), về chính sách kinh tế của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế ... So với Hiến pháp 1946 thì chương này là chương hoàn toàn mới. Chương này được xây dựng theo mô hình của Hiến pháp các nước XHCN. Vì vậy, ngoài việc quy định kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân, Hiến pháp còn quy định Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất, thực hiện cải tạo XHCN bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.

Chương III : gồm 21 điều quy định “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Hiến pháp1959 đã kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946 về các quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định những quyền và nghĩa vụ mới, như: quyền của người lao động được giúp đỡ vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật (Điều 34); quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29); quy định nghĩa vụ mới của công dân: tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng (Điều 46)...

cấp bầu. Đặc biệt, Hiến pháp 1959 quy định thành lập mới hệ thống Viện kiểm sát nhân dân tương ứng với hệ thống Tòa án nhân dân. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo nguyên tắc tập trung, thống nhất toàn ngành, đứng đầu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để thực hiện chức năng kiểm sát việc theo Hiến pháp, pháp luật và thực hành quyền công tố, bảo đảm thống nhất pháp chế XHCN trong phạm vi toàn quốc.

Chương IX : gồm 3 điều quy định về Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô.

Chương X: Điều 112 quy định về sửa đổi Hiến pháp: " Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành".

  1. Ý nghĩa của Hiến pháp năm 1959
  • Hiến pháp 1959 ghi nhận thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân ta, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
  • Hiến pháp năm 1959 là Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta, đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và là cương lĩnh đấu tranh để thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà.

4. Hiến pháp 1980

  1. Hoàn cảnh ra đời:

Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử cách mạng nước ta nói chung, lịch sử lập hiến Việt Nam nói riêng. Đó là thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất, cùng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược chung là: xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Cuộc tổng tuyển cử ngày 25/4/1976, cử tri cả nước đã bầu ra Quốc hội thống nhất. Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (25/6/1976 ), Quốc hội đã thông qua những Nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết về lấy tên nước là "Cộng hòa XHCN Việt Nam ", Nghị quyết về thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp mới cho Nhà nước Việt nam thống nhất gồm 36 vị do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh làm Chủ tịch.

Sau hơn một năm chuẩn bị, dự thảo Hiến pháp đã được đưa ra lấy ý kiến trong cán bộ và nhân dân. Ngày 18/12/1980, tại kỳ thứ 7 Quốc hội khoá VI đã chính thức thông qua Hiến pháp mới. Hiến 1980 được xây dựng và thông qua trong không khí hào hùng và tràn đầy niềm tự hào dân tộc sau Đại thắng mùa xuân năm 1975. Với tinh thần “lạc quan cách mạng” và mong muốn nhanh chóng xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS ở nước ta, nên bản Hiến pháp này không tránh khỏi các quy định mang tính chủ quan, duy ý chí, giáo điều và quan niệm giản đơn về CNXH.

  1. Nội dung cơ bản của Hiến pháp 1980

Hiến pháp 1980 bao gồm Lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương. Lời nói đầu ghi nhận những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, chỉ rõ tên các nước đã từng là kẻ thù xâm lược nước ta, xác định những nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) của Đảng đề ra và những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp 1980 cần thể chế hóa.

Chương I: Hiến pháp qui định về “Chế độ chính trị của Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, bao gồm 14 điều. Chương này xác định bản chất giai cấp của nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước ta là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng thắng lợi CNXH, tiến tới CNCS (Điều 2). Hiến pháp 1980 chính thức ghi nhận trong Điều 4 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, đồng thời đòi hỏi mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp (Điều 4). Hiến pháp 1980 còn đề ra đường lối, chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, xác định các nguyên tắc quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở nước ta (nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc v.

Chương II : Chế độ kinh tế gồm 22 điều. Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu XHCN nhằm xây dựng một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần là: kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể (Điều 18). Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất (Điều 33)...

Chương III: Văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật gồm 13 điều. Đây là một chương hoàn toàn mới. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn

Hội đồng nhà nước vừa là " cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội ", vừa là "Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam " (Điều 98). Vì vậy, Hội đồng nhà nước có 21 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng lớn, ngoài ra, "Quốc hội có thể giao cho Hội đồng nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết " (Điều 100).

Chương VIII : Hội đồng Bộ trưởng ( 8 điều): Hội đồng Bộ trưởng được xác định " là Chính phủ của nước CHXHCN Việt Nam ", là “cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 104). Hội đồng Bộ trưởng do Quốc hội bầu, gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng có 26 nhóm nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn mới so với Hiến pháp 1959 như: tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế, tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước... (Điều 107). Theo quy định của Hiến pháp năm 1980, Chính phủ không có tính độc lập cả về tổ chức, cả về hoạt động và không có người đứng đầu Chính phủ theo đúng nghĩa, mặc dù có chức danh "Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng". Hiến pháp 1980 qui định trách nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng nhà nước.

Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ( 14 điều). Chương này quy định về các đơn vị hành chính - lãnh thổ; xác định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp theo hướng áp dụng triệt để hơn mô hình tổ chức chính quyền địa phương XHCN. Hiến pháp 1980 quy định ba cấp chính quyền địa phương: 1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương (đặc khu); 2. Huyện, quận, thành phố và thị xã trực thuộc tỉnh; và 3. Xã, phường, thị trấn. Ở tất cả các đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

Chương X: Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân (15 điều). Các quy định về chương này về cơ bản giống với quy định của Hiến pháp 1959.

Chương XI : quy định Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô. Chương XII : quy định hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. c. Ý nghĩa của Hiến pháp 1980: mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng Hiến pháp 1980 vẫn có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:

  • Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam thống nhất, Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
  • Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỉ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
  • Hiến pháp 1980 thể chế hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.

5. Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)

  1. Hoàn cảnh ra đời Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)

Như trên đã trình bày, Hiến pháp 1980 được xây dựng và thông qua trong hoàn cảnh đất nước chan hòa khí thế lạc quan, hào hùng của Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta sạch bóng quân xâm lược. Trên thế giới, Hiến pháp của các nước XHCN được ban hành vào cuối những năm 60 - 70 đã khẳng định đây là thời kì xây dựng CNXH phát triển, đang thịnh hành cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Điều này đã để lại dấu ấn trong nội dung của Hiến pháp 1980 và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước.

Để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, đi dần vào thế ổn định và phát triển, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới theo chủ trương: trọng tâm và đẩy mạnh đổi mới kinh tế , đồng thời đổi mới từng bước và vững chắc cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

Ngày 30/6/1989, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá VIII đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện Hiến pháp 1980 nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Uỷ ban này gồm 28 người, do Chủ tịch Hội đồng nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch.

Ngày 15/04/1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 1992.

Để đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước do đại hội Đảng lần thứ IX đề ra, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X (ngày 29/06/2001), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992

Chủ đề