Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học bùi minh toán năm 2024

Tags:

  • bùi minh toán
  • giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học ebook pdf
  • nxb đại học sư phạm 2012
  1. >
    Giáo trình Dần ỉuận Ngôn ngữ học đươc biên soan để phuc vu cho viêc hoc tâp hoc phần tưđng ứng trong chiíơng trình đào tao giáo viên Ngữ văn Trung hoc phổ thông ở Khoa Ngữ văn của các Trường Đai hoc Sií pham Hoc phần này đươc bô" trí hoc ở năm đầu tiên của khoá hoc và tiến hành trong thời gian 30 tiết trên lổp (2 đơn VI hoc trình) Vổi thời gian hoc tâp như vây, nôi dung của giáo trình cH giới han ô những vấh đề có tính chất mỏ đầu, dẫn nhâp vào viêc tìm hiểu đôi tướng của môn hoc - ngôn ngữ nói chung Những vấn đề đai cương về từng bô phân của ngôn ngữ (ngữ âm, từ vtíng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, phong cách, ngữ dung) sẽ đưdc đề câp đến ở đầu các hoc phần tương ứng, khi đi vào day hoc về tiếng Viêt

    Đây là môt giáo trình dẫn luân vào môn hoc, có nhiêm vu trình bày đai cương về ngôn ngữ của con người nói chung, nhưng khi biên soan, chúng tôi vẫn mong rauôn tao điều kiên để các ban sinh viên có thể vân dung kiến thức đai cương vào tiếng Viêt, đồng thồi chuẩn bi về kiến thức và kĩ năng để làm tốt viêc giảng day Ngữ văn (Viêt Nam) ỗ trường phổ thông sau này Vì thế trong giáo trình này, những nôi dung đai cương về ngôn ngữ thường đươc trình bày trong mối hên hê VỚI hai phương điên

    Giáo Trình Dẫn Luận Ngôn Ngữ Học NXB Đại Học Sư Phạm 2012 Bùi Minh Toán 194 Trang File PDF-SCAN

    Link download https://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/76209 https://drive.google.com/file/d/1KEMcwUsBZIVdHma2Tixpx3nf7HctQsnA https://drive.google.com/drive/folders/1yLBzZ1rSQoNjmWeJTZ3WGQHg04L1

    Zalo/Viber: 0944625325 | [email protected]

    Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (NXB Đại Học Sư Phạm 2013) - Nguyễn Ánh Tuyết, 382 Trang26/05/2018 Giáo Trình Địa Lý Kinh Tế Xã Hội Việt Nam Tập 1 (NXB Giáo Dục 2000) - Nguyễn Viết Thịnh, 240 Trang18/04/2022 Phương Pháp Phát Triển Trí Tuệ Cho Trẻ Em (NXB Đại Học Sư Phạm 2018) - Nguyễn Công Khanh, 243 Trang03/06/2017 Dạy Học Tích Hợp Phát Triển Năng Lực Học Sinh Quyển 2 (NXB Đại Học Sư Phạm 2016) - Nguyễn Công Khanh09/05/2017 Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Ở Tiểu Học (NXB Giáo Dục 2005) - Nhiều Tác Giả, 286 Trang25/11/2014 Phương Pháp Dạy Học Lịch Sử Tập 1 (NXB Đại Học Sư Phạm 2017) - Phan Ngọc Liên, 272 Trang20/03/2022 Bài Tập Thực Hành Tâm Lý Học (NXB Đại Học Quốc Gia 2002) - Trần Trọng Thủy, 215 Trang25/03/2014 Giáo Trình Bóng Ném (NXB Đại Học Sư Phạm 2007) - Nguyễn Hùng Quân, 169 Trang19/07/2015 Phương Pháp Dạy Học Giáo Dục Học (NXB Đại Học Sư Phạm 2010) - Phan Thị Hồng Vinh, 225 Trang03/08/2021 Giáo Trình Giáo Dục Hòa Nhập (NXB Giáo Dục 2012) - Bùi Thị Lâm, 196 Trang19/06/2017 Tâm Lý Học Trẻ Em Lứa Tuổi Mầm Non (NXB Đại Học Sư Phạm 2009) - Nguyễn Ánh Tuyết, 380 Trang24/12/2013 Phương Pháp Dạy Học Tiếng Việt Ở Tiểu Học Tập 1 (NXB Đại Học Sư Phạm) - Lê Phương Nga, 235 Trang24/09/2017 Sư Phạm Học Tiểu Học (NXB Giáo Dục 2006) - Nguyễn Đình Chỉnh, 331 Trang07/10/2016 Lí Luận Dạy Học Địa Lí-Phần Đại Cương (NXB Đại Học Sư Phạm 2005) - Đặng Văn Đức, 350 Trang01/06/2017 Giáo Trình Trí Tuệ Nhân Tạo (NXB Đại Học Sư Phạm 2011) - Phạm Thọ Hoàn, 108 Trang27/07/2017 Last edited by a moderator: Jun 18, 2022

Share This Page

Giáo trình dẫn luận ngôn ngữ học bùi minh toán năm 2024

  • Forums

    ForumsMembers

    MembersMenu

    Đây là giáo trình dành cho sinh viên Ngữ văn các trường Cao đẳng Sư phạm, nhằm trang bị cho người học những kiến thức nhập môn về Ngôn ngữ học. Với mục đích trình bày đầy đủ những nội dung cơ bản và hiện đại, giáo trình đã thay đổi một phần cấu trúc các chương mục, thay vì triển khai theo những nội dung phổ biến trong các giáo trình dẫn luận lâu nay tại Việt Nam là Những vấn đề chung, Ngữ âm học, Từ vựng học, Ngữ pháp học , cuốn sách này gồm các

    HỌC........................................................................................................................ CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VÀ NGÔN NGỮ

    pháp học, Ngữ nghĩa học. Theo cách triển khai này, sinh viên được học về ngữ nghĩa của câu, một nội dung rất quan trọng mà hầu hết những giáo trình dẫn luận Ngôn ngữ học hiện hành của Việt Nam đều không trình bày. Cũng do cách triển khai này mà một số nội dung về Từ vựng học sẽ không được giới thiệu, nhưng những nội dung này tương đối đơn giản và sinh viên sẽ có điều kiện học kĩ ở môn Từ vựng học tiếng Việt. Để sinh viên có cơ sở học môn Từ vựng học tiếng Việt sau này, chúng tôi có làm rõ những điểm chung và riêng giữa hai phân ngành Từ vựng học và Ngữ nghĩa học. Chọn Từ vựng học hay Ngữ nghĩa học để trình bày trong một cuốn giáo trình dẫn luận đều có mặt ưu điểm và hạn chế của nó. Tuy nhiên, cách thứ hai phù hợp với xu hướng của Ngôn ngữ học hiện đại hơn và sát với nhu cầu thực tế hơn. Tỉ lệ của các chương so với dung lượng chung của toàn bộ cuốn sách cũng có sự điều chỉnh đáng kể. Giáo trình chủ trương trình bày ngắn gọn phần Những vấn đề chung, dành dung lượng thích đáng cho những phần có tính chất chuyên môn Ngôn ngữ học nhằm đáp ứng mục tiêu cụ thể của chương trình đào tạo giáo viên.

    CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÔN NGỮ VÀ NGÔN NGỮ
    HỌC
    1. Ngôn ngữ 1. Ngôn ngữ là gì? Có ngôn ngữ và khả năng sử dụng ngôn ngữ là đặc trưng quan trọng phân biệt con người và động vật. Không có một con người bình thường nào không dùng ngôn ngữ. Ngôn ngữ gần gũi, thân thiết như những gì gần gũi và thân thiết nhất mà con người có thể có. Nhưng ít ai đặt câu hỏi Ngôn ngữ là gì?. Điều đó cũng giống như không khí rất quan trọng đối với con người, song không mấy khi ta nghe một người nào đó hỏi Không khí là gì?. Tuy nhiên Ngôn ngữ là gì? là một trong những câu hỏi đầu tiên mà Ngôn ngữ học phải trả lời và cũng là một trong những vấn đề đầu tiên mà một người học Ngôn ngữ học phải biết. Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu đặc biệt, được dùng làm phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và phương tiện tư duy của con người. Trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta thường dùng những từ như ngôn ngữ của loài hoa, ngôn ngữ của loài vật, ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ điêu khắc, ngôn ngữ cơ thể, ngôn ngữ lập trình, ngôn ngữ toán , v... Từ ngôn ngữ trong những cách dùng như vậy không được hiểu theo nghĩa gốc của nó, mà chỉ được dùng với nghĩa phái sinh theo phép ẩn dụ, dựa trên cơ sở nét tương đổng giữa ngôn ngữ với những đối tượng được nói đến: công cụ dùng để biểu đạt, để thể hiện một điều gì đó.

    1. Bản chất của ngôn ngữ 1.2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hậỉ và là hộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa Ngôn ngữ có thể được hiểu như là sản phẩm của nhân loại nói chung hay như là sản phẩm của một cộng đồng cụ thể. Dù hiểu như thế nào thì ngôn ngữ cũng là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ chỉ được hình thành và phát triển trong xã hội.

    Không có ngôn ngữ nào tách rời khỏi cộng đồng và không một người nào khi mới sinh ra, sống tách rời khỏi cộng đồng mà khả năng sử dụng ngôn ngữ được hình thành. Điều đó làm cho ngôn ngữ khác về cơ bản với những hiện tượng có tính chất bản năng ở con người như ăn, uống, đi lại. Ngôn ngữ chỉ được hình thành do quy ước nên không có tính chất di truyền như những đặc điểm về chủng tộc. Đứa trẻ sinh ra mang những đặc điểm di truyền của những người thuộc thế hệ trên nó như màu da, màu mắt, màu tóc, v... nhưng ngôn ngữ mẹ đẻ của nó có thể không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ của bố mẹ nó. Ngôn ngữ không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hoá. Mỗi hệ thống ngôn ngữ đều mang đậm dấu ấn văn hoá của cộng đồng người bản ngữ. Chính vì vậy, muốn sử dụng một ngôn ngữ, không chỉ phải biết ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, mà còn phải nắm vững cái dấu ấn văn hóa được thể hiện trong ngôn ngữ đó nữa. Giữ gìn và phát triển một ngôn ngữ cũng chính là góp phần giữ gìn và phát triển một nền văn hoá.

    1.2. Ngôn ngữ là một hệ thống dếu hiệu đặc biệt Trước hết ngôn ngữ là một hệ thống , vì như tất cả những hệ thống khác, ngôn ngữ là một thể thống nhất các yếu tố có quan hệ với nhau. Mỗi yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ có thể coi là một đơn vị. Các đơn vị trong hệ thống ngôn ngữ được sắp xếp theo những quy tắc nhất định. Sự tồn tại của đơn vị ngôn ngữ này quy định sự tồn tại của đơn vị ngôn ngữ kia. Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu vì mỗi đơn vị ngôn ngữ là một dấu hiệu. Như tất cả những loại dấu hiệu khác, dấu hiệu ngôn ngữ là một thực thể mà hình thức vật chất của nó bao giờ cũng biểu đạt một cái gì đó. Nghĩa là mỗi dấu hiệu ngôn ngữ có hai mặt: hình thức âm thanh và cái mà hình thức đó biểu đạt. F. de Saussure, nhà Ngôn ngữ học Thuỵ Sĩ, người được mệnh danh là cha đẻ của Ngôn

    đặc trưng riêng của từng ngôn ngữ do ảnh hưởng cách lựa chọn của người bản ngữ. Chẳng hạn cùng mô phỏng tiếng mèo kêu, nhưng từ tượng thanh trong tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hebrew có âm là [miaw], còn trong tiếng Ảrập là [mawmaw], trong tiếng Hán là [meaw], trong tiếng Nhật là [niaw]. Vì thế xét cho cùng thì ngay cả từ tượng thanh cũng có một phần tính võ đoán. b. Tính đa trị Giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt của dấu hiệu ngôn ngữ không có mối quan hệ một đối một: một vỏ ngữ âm có thể dùng để biểu đạt nhiều ý nghĩa (thể hiện qua hiện tượng đa nghĩa và đồng âm), và ngược lại, một ý nghĩa có thể được biểu đạt bằng nhiều vỏ ngữ âm khác nhau (thể hiện qua hiện tượng đồng nghĩa). Nhờ có tính chất này mà ngôn ngữ trở thành một phương tiện biểu đạt rất tinh tế và sinh động, thể hiện rõ nhất ở ngôn ngữ văn chương: Còn trời, còn nước, còn non Còn cô bán rượu anh còn say sưa. (Ca dao) Say sưa có thể được hiểu là một trạng thái sinh lí (vì rượu mà say) và cũng có thể là một trạng thái tâm lí (vì cô bán rượu mà say). Chính cách hiểu nước đôi này đã tạo ra sự ý vị của câu ca dao. c. Tính phân đoạn đôi Hệ thống ngôn ngữ được tổ chức theo hai bậc, trong đó bậc thứ nhất gồm một số lượng hạn chế những đơn vị âm cơ bản, không có nghĩa, có thể kết hợp với nhau để tạo ra những đơn vị thuộc bậc thứ hai, gồm một số lượng lớn những đơn vị có nghĩa. Những đơn vị âm cơ bản đó được gọi âm vị. Số lượng âm vị trong mỗi ngôn ngữ thường khoảng 40. Các âm vị kết hợp với nhau để tạo ra khoảng vài nghìn hình vị. Các hình vị kết hợp lại với nhau để tạo thành từ vài chục nghìn đến vài trăm nghìn từ. Các từ kết hợp với nhau để tạo thành một số lượng vô hạn những

    ngữ đoạn và câu (về khái niệm âm vị, hình vị, từ, ngữ đoạn và câu , xin xem chi tiết ở 2.3. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ ). Nhiều dấu hiệu giao tiếp khác của con người và những dấu hiệu giao tiếp của loài vật không có cấu trúc hai bậc như vậy. Ở đó mỗi đơn vị cơ bản gắn với một nghĩa, có bao nhiêu đơn vị cơ bản thì có bấy nhiêu nghĩa được biểu đạt. Có thể thấy rõ điều này khi so sánh ngôn ngữ với hệ thống đèn giao thông. Chẳng hạn, một câu như Mọi người phải dừng lại được cấu tạo từ hai đơn vị có nghĩa nhỏ hơn: mọi người và phải dừng lại , rồi mọi người và phải dừng lại được cấu tạo từ những đơn vị có nghĩa nhỏ hơn nữa: mọi, người, phải, dừng, lại. Đến lượt mình, các đơn vị có nghĩa nhỏ nhất (không thể phân tích thành những đơn vị có nghĩa nhỏ hơn) như mọi, người, phải, dừng, lại được cấu tạo từ những đơn vị âm thanh có hình thức chữ viết là m, o, i, ng, ươ, ph, a, d, v... Dấu hiệu đèn đỏ trong hệ thống đèn giao thông có thể truyền đi một thông báo tương tự, nhưng đèn giao thông không có cấu trúc hai bậc. Ta không thể nào phân tích cái dấu hiệu đèn đỏ này thành những yếu tố nhỏ hơn. Nhờ có cấu trúc hai bậc mà ngôn ngữ có tính năng sản. Bất kì một người bình thường nào cũng có thể nói những câu mà trước đó người đó chưa bao giờ nói, có thể nghe hiểu những câu trước đó chưa bao giờ nghe. Khả năng tạo ra những câu mới của ngôn ngữ là vô hạn. Tương tự như một số lượng rất hạn chế các con số (0, 1, ..) có thể kết hợp với nhau để tạo thành vô số những con số lớn hơn. d. Khác với các hệ thống dấu hiệu giao tiếp của loài vật, ngôn ngữ có thể thông báo về những gì diễn ra không phải ngay tại thời điểm và địa điểm mà dấu hiệu ngôn ngữ được sử dụng, thậm chí con người có thể dùng ngôn ngữ để nói về một thế giới tưởng tượng nào đó. Phương tiện giao tiếp của loài ong có thể thông báo về những vùng có hoa cách xa vị trí của các chủ thể giao tiếp, nhưng khả năng này rất hạn chế. Một con vẹt có thể bắt chước rất tài tình những âm thanh do con

    mang thông tin, nhưng không phải là những dấu hiệu được dùng làm phương tiện giao tiếp. Trong những trường hợp này không có ai giao tiếp với ai cả. Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ bao hàm nhiều chức năng bộ phận: chức năng truyền thông tin đến người khác, chức năng yêu cầu một người khác hành động, chức năng bộc lộ cảm xúc của người nói, chức năng xác lập, duy trì quan hệ giữa các thành viên trong một cộng đồng, v... Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một thế hệ, cùng sống một thời kì, mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các thế hệ, là phương tiện để con người truyền đi những thông điệp cho các thế hệ tương lai.

    1.3. Ngôn ngữ là phương tiện tư duy Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp, mà còn là phương tiện tư duy. Nghĩa là nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể thực hiện các hoạt động tư duy. Con người không chỉ đùng ngôn ngữ khi cần trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc với người khác, tức là khi cần giao tiếp, mà còn dùng ngôn ngữ ngay cả khi nói một mình, thậm chí khi suy nghĩ một mình và không phát ra một lời nào. Các khái niệm, phán đoán hay suy lí, tức những hình thức cơ bản của tư duy, đều tồn tại dưới hình thức biểu đạt là ngôn ngữ. Và ngược lại, nếu không có tư duy thì cũng không có ngôn ngữ, vì khi đó các đơn vị ngôn ngữ chỉ còn là những âm thanh trống rỗng, vô nghĩa. Ngôn ngữ và tư duy như hai mặt của một tờ giấy, không thể tách mặt này ra khỏi mặt kia. Ngôn ngữ và tư duy thống nhất, nhưng không đồng nhất. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt, còn tư duy là cái được biểu đạt. Bên cạnh những đặc điểm có tính phổ quát (ngôn ngữ nào cũng có), và những đặc điểm có tính loại hình (chung cho các ngôn ngữ thuộc cùng một nhóm nào đó), mỗi ngôn ngữ mang những đặc trưng riêng không lặp lại ở những ngôn ngữ khác; trong khi đó tư duy, về cơ bản,

    là mang tính nhân loại, nghĩa là không có sự khác biệt đáng kể nào giữa tư duy của dân tộc này với tư duy của dân tộc khác. Sở dĩ ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vì ngôn ngữ không phải chỉ là những tổ hợp âm thanh, mà là những tổ hợp âm thanh biểu đạt tư tưởng của con người, tức biểu đạt kết quả của hoạt động tư duy. Chính vì vậy, có thể nói, chức năng làm phương tiện giao tiếp của ngôn ngữ gắn chặt với chức năng làm phương tiện tư duy của nó. Khi nói về chức năng của ngôn ngữ, một số tác giả còn chú ý đến những chức năng sau như những biểu hiện đặc biệt: - Chức năng thi ca, khi ngôn ngữ tạo nên những hiệu quả thẩm mĩ, chẳng hạn ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là ngôn ngữ thơ: Áo đỏ em đi giữa phố đông Cây xanh như cũng ánh theo hồng Em đi lửa cháy trong bao mắt Anh đứng thành tro, em biết không? (Vũ Quần Phương, Áo đỏ) Cách tổ chức ngôn ngữ (sử dụng những từ thuộc cùng một trưòng từ vựng) đã tạo nên nét độc đáo của bài thơ. - Chức năng siêu ngôn ngữ, khi ngôn ngữ được dùng để nói về chính nó. Chẳng hạn; khác với câu Mèo là một loài động vật ăn thịt , câu “ Mèo ” là một danh từ không nói về mèo như một thực thể trong thế giới bên ngoài mà nói về một đơn vị trong tiếng Việt, do đó nó thực hiện chức năng siêu ngôn ngữ.

    1. Ngôn ngữ học 2. Ngôn ngữ học là gì? Ngôn ngữ học là khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ. Nói cụ thể hơn, Ngôn ngữ học là một lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ một cách khách quan dựa trên những

    nhân, gạt bỏ những cứ liệu ngụy tạo kì quặc đối với người bản ngữ, đồng thời tập hợp cứ liệu đủ nhiều và phong phú. Điều tưởng là đơn giản này đòi hỏi những nỗ lực rất lớn vì không có gì gần gũi với ta bằng ngôn ngữ, nhưng phát biểu một cách hiển ngôn và đúng đắn về nó thì không phải nhiều người thực hiện được.

    2. Đối tượng của Ngôn ngữ học Đối tượng của Ngôn ngữ học là gì? Có phải là tất cả những gì mà chúng ta nói ra và nghe được trong giao tiếp đều là đối tượng của Ngôn ngữ học hay không? F. de Saussure xác lập một sự đối lập quan trọng giữa hai phạm trù: ngôn ngữ và lời nói. Trên cơ sở đó ta có thể nhận diện được đối tượng thực sự của Ngôn ngữ học. Lời nói là tất cả những gì cụ thể mà con người nói ra và nghe được trong giao tiếp. Mỗi đơn vị của lời nói bao giờ cũng do một cá thể tạo ra trong một tình huống giao tiếp cụ thể. Nhưng khi tiếp nhận lời nói của người khác, ta hiểu được nội dung truyền đạt vì trong lời nói của người đó có những yếu tố mà cách thức phát âm, ý nghĩa cũng như quy tắc kết hợp của chúng thuộc về quy ước chung của cả một cộng đồng. Tất cả những gì thuộc về quy ước chung đó tạo thành ngôn ngữ. Nói cách khác, ngôn ngữ là phần còn lại trong lời nói sau khi đã gạt bỏ tất cả những yếu tố có tính chất cá nhân của người tạo ra lời nói. Quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói thể hiện qua nhiều đặc trưng đối lập. Sau đây là một số đối lập cơ bản: Ngôn ngữ Lời nói Hệ thống trừu tượng Kết quả vận dụng hệ thống đó thể hiện qua những câu, những văn bản cụ thể Xã hội, cộng đồng Cá nhân Cái chung Cái riêng v... v...

    Như vậy ngôn ngữ và lời nói đối lập nhau nhưng không tách rời nhau. Trong cái riêng có cái chung; trong cá nhân có những đặc điểm của xã hội, cộng đồng; trong những câu, những văn bản cụ thể có những đơn vị, những quy tắc của hệ thống trừu tượng. Ngược lại, cái chung chỉ được thể hiện thông qua cái riêng; xã hội, cộng đồng tồn tại nhờ các cá nhân; hệ thống trừu tượng chỉ được cảm nhận trực tiếp dưới hình thức những câu, những văn bản cụ thể. Tương tự như vậy, trong lời nói có ngôn ngữ, nhờ có ngôn ngữ mà các thành viên trong một cộng đồng mới có thể hiểu lời nói của nhau. Ngược lại, ngôn ngữ chỉ được sử dụng dưới hình thức lời nói, hành chức thông qua lời nói. Không có một hiện tượng nào đi vào hệ thống ngôn ngữ mà không thông qua lời nói. Khi gặp nhau, hai người có thể cùng nói: Xin chào anh! Nếu không vì một lí do đặc biệt nào đó, thông thường ta chỉ nhận thấy rằng hai người đã nói ra hai câu giống nhau, ý nghĩa hoàn toàn như nhau mà không chú ý từng câu nói của mỗi người được nói nhanh hay chậm, phát âm cao hay thấp, giọng trâm hay bổng, v... Tương tự như vậy, khi đi đường đến các giao lộ, thấy đèn đỏ bạn dừng lại, thấy dèn xanh bạn di chuyển. Nếu quan sát kĩ, có thể thấy màu của đèn đường ở các giao lộ khác nhau có thể đậm nhạt rất khác nhau. Nhưng không mấy ai chú ý đến sự khác biệt đó cả, bởi vì nó không quan trọng đối với người đi đường. Khi tìm hiểu hệ thống đèn giao thông, ta không cần chú ý đến độ đậm nhạt của màu đèn (tuy nhiên nếu độ đậm nhạt của màu đèn thay đổi đến mức làm thay đổi hẳn màu sắc khiến cho đèn đỏ, đèn xanh không còn là nó nữa thì vấn đề lại khác). Trên cùng một nguyên lí tiếp cận như vậy, F. de Saussure cho rằng “đối tượng duy nhất và chân thực của Ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản thân nó”. Quan điểm này đã giúp Ngôn ngữ học có được đối tượng nghiên cứu riêng và trở thành một ngành khoa học thực sự. Tuy nhiên, việc gạt bỏ triệt để tất cả những gì nằm ngoài hệ thống ngôn ngữ ra khỏi đối tượng nghiên cứu của Ngôn ngữ học đã hạn chế nhiều khả năng phân

    Không chỉ ngôn ngữ, mà sản phẩm của ngôn ngữ được con người dùng để giao tiếp cũng là những hệ thống. Câu Người thợ săn giết chết con hổ là một hệ thống. Khi quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống này thay đổi, ta sẽ có hệ thống khác, tức một câu khác, chẳng hạn Con hổ giết chết người thợ săn.

    2.3. Các yếu tố của hệ thống ngôn ngữ Khác với nhiều hệ thống khác, ngôn ngữ là một hệ thống rất phức tạp, gồm những yếu tố đồng loại và không đồng loại với nhau. Trong phần trên, ta đã biết đến cấu trúc hai bậc của hệ thống ngôn ngữ: bậc của những đơn vị âm cơ bản, không có nghĩa và bậc của những đơn vị có nghĩa. Phân tích chi tiết hơn có thể hình dung các đơn vị ngôn ngữ được sắp xếp theo những cấp độ sau: a. Cấp độ âm vị: là cấp độ của các âm vị, đơn vị âm cơ bản và nhỏ nhất của hệ thống ngôn ngữ. Bản thân âm vị không có nghĩa, mà chỉ có chức năng tạo vỏ ngữ âm của các đơn vị mang nghĩa. Nói cách khác, âm vị chỉ có chức năng khu biệt nghĩa. Chẳng hạn trong tiếng Anh, một đơn vị có nghĩa như tea/ti:/ “trà” có 2 âm vị, /kæt/ “mèo” có 3 âm vị. b. Cấp độ hình vị: là cấp độ của các hình vị, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa. Trong từ quốc gia (tiếng Việt) có 2 hình vị, trong từ teacher “giáo viên” (tiếng Anh) có 2 hình vị. c. Cấp độ từ: là cấp độ của các từ, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng hoạt động độc lập, tức có khả năng đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu hay có quan hệ kết hợp (xem khái niệm quan hệ kết hợp ở mục 2.3) với những đơn vị có khả năng đó. Ngoài từ, ngữ cố định cũng là đơn vị ngôn ngữ có khả năng hoạt động độc lập, nhưng đó không phải là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng này.

    Mỗi cấp độ trên đây là một yếu tố của hệ thống ngôn ngữ. Đến lượt mình, mỗi cấp độ cũng có thể được coi là một hệ thống gồm có các yếu tố là những đơn vị tương ứng của nó. d. Các đơn vị thuộc bình diện lời nói Ngoài âm vị, hình vị và từ, nhiều tài liệu Ngôn ngữ học còn đề cập đến ngữ đoạn (ngữ) và câu như những đơn vị ngôn ngữ. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm phân biệt chặt chẽ hai bình diện ngôn ngữ và lời nói thì chỉ có âm vị, hình vị và từ mới được xem là những đơn vị thuộc hệ tôn ti của các đơn vị ngôn ngữ. Còn ngữ đoạn và câu thuộc bình diện lời nói, vì chúng không phải là đơn vị có sẵn mà chỉ được hình thành khi nói và có số lượng vô hạn. Trong ngữ đoạn và câu, cái có sẵn, có tính lặp lại, có số lượng hữu hạn làm thành quy tắc chi phối cách sử dụng đối với tất cả thành viên trong một cộng đồng ngôn ngữ chính là mô hình cấu trúc, mô hình cấu trúc ngữ đoạn và mô hình cấu trúc câu. Tuy nhiên, mô hình cấu trúc không phải là đơn vị. Ngữ đoạn là đơn vị lời nói đảm nhiệm một chức năng cú pháp trong câu. Câu là đơn vị lời nói nhỏ nhất dùng để giao tiếp. Đoạn văn và văn bản cũng là những đơn vị lời nói dùng để giao tiếp, tuy nhiên đó không phải là những đơn vị lời nói nhỏ nhất thực hiện chức năng này. 2.3. Các quan hệ trong ngôn ngữ Quan hệ kết hợp: là quan hệ giữa các đơn vị cùng xuất hiện và tổ hợp với nhau để tạo ra một đơn vị lớn hơn. Chẳng hạn trong câu Chúng tôi rất thích môn học ấy giữa chúng tôi và rất thích môn học ấy, giữa rất và thích, giữa môn học và ấy có quan hệ kết hợp. Trong câu này, mặc dù học và ấy cùng xuất hiện trong một câu và có vị trí cạnh nhau, nhưng học không có quan hệ kết hợp với ấy, nói cách khác học không phải là một đơn vị.

    Âm vị học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu mặt xã hội hay chức năng của ngữ âm trong từng ngôn ngữ, qua đó xác lập hệ thống các đơn vị âm thanh trong ngôn ngữ hữu quan. Ngữ pháp học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu hình thái của từ và quy tắc cấu tạo từ và câu. Theo sự phân chia có tính chất truyền thống, Ngữ pháp học gồm có hai phân ngành hẹp hơn là hình thái học (nghiên cứu ngữ pháp của từ) và cú pháp học (nghiên cứu ngữ pháp của câu). Từ vựng học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu từ và ngữ cố định. Ngữ nghĩa học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu ý nghĩa. Ngữ nghĩa học thường được chia thành hai phân ngành nhỏ hơn là ngữ nghĩa học từ vựng (nghiên cứu nghĩa của từ và những đơn vị tương đương với từ, tức những ngữ cố định) và ngữ nghĩa học cú pháp (nghiên cứu nghĩa của câu). Nếu hiểu ngữ nghĩa học theo nghĩa rộng hơn thì nó bao gồm cả ngữ nghĩa học dụng pháp , phần nghiên cứu ý nghĩa của câu, nói chính xác hơn là của phát ngôn, trong quan hệ với ngữ cảnh. Giữa ngữ nghĩa học và từ vựng học có mối quan hệ gần gũi. Có thể hình dung qua sơ đồ sau: Qua sơ đồ này, có thể thấy giữa hai phân ngành có một phần đối tượng nghiên cứu chung, đó là ý nghĩa của từ và ngữ cố định. Bên cạnh phần chung, mỗi phân ngành có phần nghiên cứu riêng. Đó là ý nghĩa của câu đối với ngữ nghĩa học và vấn đề cấu tạo từ, các lớp từ vựng (từ thuần bản ngữ và từ vay mượn, từ toàn dân và từ địa phương, từ nghề nghiệp, thuật ngữ khoa học, biệt ngữ xã hội, tiếng lóng) đối với từ vựng học. Có thể thấy, xét trong quan hệ với Ngữ pháp học thì từ vựng học cũng có phần chung, đó là vấn đề cấu tạo từ. Ngữ pháp văn bản : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu các mối liên kết giữa các câu trong một đoạn văn và giữa các đoạn văn trong một văn bản.

    Ngữ dụng học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu từ, ngữ và câu trong mối quan hệ với ngữ cảnh (người nói, người nghe, thời điểm nói, địa điểm nói). Phong cách học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu đặc điểm của ngôn ngữ trong các phong cách chức năng khác nhau như ngôn ngữ hằng ngày, ngôn ngữ hành chính công vụ, ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ chính luận và đặc biệt là ngôn ngữ văn chương (ngôn ngữ văn chương nói chung và ngôn ngữ tác giả, tác phẩm, thể loại, v...). Phương ngữ học : phân ngành Ngôn ngữ học nghiên cứu các biến thể của một ngôn ngữ ở những địa phương khác nhau. Ngôn ngữ học có thể nghiên cứu các ngôn ngữ trên thế giới nói chung nhằm làm rõ những vấn đề phổ quát của ngôn ngữ nhân loại và xây dựng hệ thống các khái niệm công cụ để nghiên cứu ngôn ngữ. Theo cách tiếp cận đó ta có Ngôn ngữ học đại cương. Ngược lại, Ngôn ngữ học có thể nghiên cứu một ngôn ngữ cụ thể để miêu tả những đặc trưng của ngôn ngữ đó. Ngoài ra, trong Ngôn ngữ học còn có những phân ngành có tính chất liên ngành như Ngôn ngữ học xã hội, Ngôn ngữ học Tâm lí, Ngôn ngữ học nhân học, v... Ngôn ngữ học có thể nghiên cứu ngôn ngữ ở một trạng thái tĩnh, tức ở một thời điểm nhất định mà không tính đến sự biến đổi của ngôn ngữ trong thời gian. Theo cách tiếp cận đó ta có Ngôn ngữ học đồng đại. Còn khi nghiên cứu diễn tiến của ngôn ngữ qua các thời điểm lịch sử thì ta có Ngôn ngữ học lịch đại.

    2. Mục đích của việc nghiên cứu ngôn ngữ và dạy học ngôn ngữ nhà trường 2.5. Mục đích của việc nghiên cúu ngôn ngữ Việc nghiên cứu ngôn ngữ nhằm vào rất nhiều mục đích khác nhau. Sau đây là một số mục đích chủ yếu: