Để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái ta phải làm gì

Để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái ta phải làm gì
Thế giới đang có xu hướng thông qua NNST như là phương tiện để thực hiện chiến lược kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế chia sẻ.

Phát triển nông nghiệp thâm canh ở nước ta đã gây tổn hại môi trường như tàn phá rừng, làm suy giảm đa dạng sinh học, thoái hóa đất đai, ô nhiễm nguồn nước và phát thải nhiều khí nhà kính. Riêng nông nghiệp, nước ta cũng đóng góp 43% khí nhà kính phát thải, chủ yếu từ lúa nước, góp phần làm trầm trọng hơn BĐKH.

Quản lý bền vững độ phì của đất và sức khỏe của đất để duy trì năng suất hiện là một thách thức không nhỏ. Ở nhiều địa phương, tăng trưởng nông nghiệp còn dựa vào gia tăng diện tích đất nông nghiệp, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, lạm dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu độc hại, khiến chi phí đầu vào của sản xuất ngày càng cao và làm gia tăng chi phí bảo vệ môi trường, tăng rủi ro sức khỏe cho nông dân và người tiêu dùng.

Nông nghiệp sinh thái - giải pháp ứng phó với BĐKH

Về giải pháp thích ứng của nông nghiệp với BĐKH, FAO khuyến cáo cần tăng cường tính chống chịu của nông nghiệp với các rủi ro BĐKH thông qua áp dụng các giải pháp Nông nghiệp thông minh với BĐKH (CSA). Về chính sách, Bộ NN&PTNT đã ban hành “Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2016 - 2020, tầm nhìn đến năm 2050”.

Nội dung CSA được coi là giải pháp cho thích ứng với BĐKH, nên việc áp dụng và nhân rộng CSAs nhằm xây dựng một nền nông nghiệp thích ứng tốt với BĐKH ngày càng được các nhà khoa học và các cơ quan quản lý nhà nước quan tâm, cũng như ngày càng có nhiều hỗ trợ quốc tế cho lĩnh vực này.

Về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hiện nay, Việt Nam đã có Báo cáo Đóng góp dự kiến do Quốc gia tự xác định (NDC), nhằm đạt được các mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết để thu hút nguồn lực và sự quan tâm của quốc tế cho triển khai thực hiện NDCs theo Thỏa thuận Paris. Các giải pháp CSA đang được xem xét là giải pháp tổng hợp tiềm năng của ngành nông nghiệp, do tính thông minh với khí hậu, đồng thời có yếu tố đồng lợi ích, đảm bảo thích ứng và giảm nhẹ BĐKH.

Theo FAO, CSA phải hướng tới đồng thời 3 mục tiêu: tăng năng suất, nâng cao tính chống chịu và giảm phát thải. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó để đạt được đồng thời cả 3 mục tiêu trên. Trong quá trình triển khai CSA trên thực tế, thường phải cân nhắc ưu tiên một trong các mục tiêu. CSA phải được lựa chọn phù hợp với từng đối tượng (người sản xuất, loại hình nông sản, loại hình thời tiết, khí hậu, hệ thống nông nghiệp, v.v…), điều kiện (tự nhiên, kinh tế, xã hội) của từng vùng miền, địa phương, cộng đồng. Tại các khu vực kinh tế khó khăn, với các nhóm cộng đồng yếu thế thì trụ cột về năng suất, an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng phải được ưu tiên hơn, trong khi với các doanh nghiệp/vùng miền phát triển có khả năng đầu tư nông nghiệp công nghệ cao thì mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính cần được đặt ngang hàng với các trụ cột khác.

Các giải pháp kỹ thuật được lựa chọn của CSA ở Việt Nam có thể đạt được cả 3 mục tiêu để phổ biến, chủ yếu được áp dụng theo nguyên lý sinh thái nông nghiệp. CSA cho phép duy trì dịch vụ hệ sinh thái. Hệ sinh thái cung cấp cho con người các dịch vụ cần thiết bao gồm các nguyên vật liệu, thực phẩm, thức ăn và không khí sạch. CSA cũng áp dụng cách tiếp cận cảnh quan dựa trên các nguyên tắc của nông nghiệp bền vững nhưng không dừng lại ở các cách tiếp cận theo các ngành hẹp mà là quản lý và quy hoạch tích hợp, đa ngành liên khu vực.

Như vậy, nền nông nghiệp trong thời gian tới cần được đầu tư theo hướng nông nghiệp sinh thái (NNST) để tăng tính chống chịu với các rủi ro khí hậu và phi khí hậu nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững. Nông nghiệp phát triển dựa trên các tiến bộ khoa học công nghệ mang tính sinh thái cho phép đa dạng hóa sản phẩm, vừa đảm bảo tăng trưởng, vừa bảo vệ được các tài nguyên tự nhiên như đất, nước, rừng, đa dạng sinh học, giúp thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.

Thế giới đang có xu hướng thông qua NNST như là phương tiện để thực hiện chiến lược kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế chia sẻ nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Các mô hình sản xuất NNST (canh tác hữu cơ, nông nghiệp bảo tồn, nông nghiệp tái sinh, nông lâm kết hợp, nông nghiệp cảnh quan, thâm canh lúa bền vững, hệ thống tổng hợp chăn nuôi và trồng trọt...) là những giải pháp chính để thâm canh nông nghiệp dài hạn, hạn chế chuyển đổi rừng sang đất trồng trọt, hạn chế sử dụng vật tư hóa học (phân bón, thuốc trừ sâu), giảm thiểu khí thải nhà kính từ nông nghiệp và góp phần tăng lưu trữ carbon.

Nhằm ứng phó kịp thời với BĐKH và hiểm họa thiên tai, rất cần sự tổ chức của Nhà nước đảm bảo sao cho những dự báo về ảnh hưởng của BĐKH được lồng ghép đầy đủ vào quá trình hoạch định chính sách. Trong đó, cần dành ưu tiên cho các giải pháp đầu tư xanh và thông minh trong cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phát huy tối đa thế mạnh của hệ sinh thái đặc thù và được thông tin kịp thời đến các chủ thể sản xuất.

Và những giải pháp căn cơ hỗ trợ

Thực tế, các phương thức NNST không hoàn toàn mới, đã có những mô hình trong sản xuất nhưng chủ yếu ở quy mô nhỏ như 1P-5G, IPM, SRI, SRP đối với lúa, nông lâm kết hợp, hữu cơ, nông nghiệp bảo tồn, VAC… do vậy tác động lan tỏa còn hạn chế. Bộ NN&PTNT gần đây cũng đã có chủ trương khuyến cáo giảm sử dụng hóa chất ở đầu vào như thuốc trừ sâu, trừ cỏ, phân hóa học để cải thiện sức khoẻ đất. Tuy nhiên, để thích ứng tốt và tăng cường tính chống chịu với BĐKH, cần một chiến lược và hệ thống chính sách hỗ trợ đồng bộ từ chuyển giao khoa học công nghệ, tổ chức sản xuất, tài chính, tiếp cận thị trường để các địa phương có thể chuyển đổi từ nông nghiệp thâm canh sang NNST. Hiện nay trên thế giới định nghĩa quá trình chuyển đổi này là chuyển đổi Hệ thống thực phẩm bền vững. Năm 2021, UN sẽ tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Hệ thống thực phẩm bền vững và Việt Nam là một trong 40 nước đăng ký tham gia với các sáng kiến của mình. Quá trình chuyển đổi này sẽ góp phần đa dạng hóa cây trồng, nâng cao năng lực của nông dân trong việc đảm bảo an ninh lương thực, dinh dưỡng, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm gắn với nhu cầu đa dạng của các nhóm tiêu dùng và tăng cường đa dạng sinh học nông nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất trước BĐKH, góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về thích ứng và giảm thiểu BĐKH, hướng tới phát triển bền vững.

NNST hiện đại đã được định hướng trong văn bản của Đại hội Đảng 13. Tuy nhiên, Nhà nước cần đầu tư sâu hơn vào nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để thay đổi tư duy về NNST gắn liền với kinh tế nông nghiệp. Một số hướng nghiên cứu mới theo hướng sinh thái cần được thúc đẩy để chuyển giao cho sản xuất như: chọn giống chống chịu với các điều kiện khó khăn hạn, mặn, ngập lụt; kỹ thuật canh tác tiết kiệm nước, các giải pháp sinh thái phòng trừ các dịch bệnh mới; các công nghệ vi sinh vật làm phân hữu cơ và xử lý chất thải trong môi trường nông thôn; công nghệ chính xác và công nghệ số phục vụ sản xuất nông nghiệp sinh thái; quản trị chất lượng trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp sinh thái; cơ chế phân chia lợi ích và rủi ro trong liên kết đảm bảo sự tham gia hưởng lợi của hộ nông dân trong chuỗi giá trị; khuyến nông số; truy xuất nguồn gốc số… Các địa phương cần xây dựng các chính sách cụ thể hơn để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang NNST, cũng như tổ chức thị trường cho các sản phẩm nông sản sinh thái.

Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh

Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng, Phó Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương tổng kết thực hiện Nghị quyết 26 (Ban chỉ đạo) cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đặt ra nhiệm vụ xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Trong mục tiêu tổng thể này thì cần tổng kết Nghị quyết 26 để ra lại xem đã làm được những kết quả gì, những việc gì còn nợ người dân. Trong bối cảnh tới đây cần có chiến lược, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước để tiếp tục xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, sinh thái, nông thôn hiện đại và hình thành được tầng lớp nông dân văn minh.

Để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái ta phải làm gì

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung Nguyễn Duy Hưng.

Tại hội thảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết hiện số hộ cá thể tham gia các HTX nông nghiệp ở Việt Nam là quá thấp, khoảng 30%, trong khi các nước là hầu hết 100% nông dân tham gia HTX. Nếu tham gia HTX sẽ huy động được nguồn lực, ứng dụng KHCN và tạo ra thị trường.

“Nếu hộ nông dân tập hợp vào HTX sẽ tạo ra chuỗi giá trị, hạn chế rủi ro sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, hạn chế thủ tục cho các tổ chức tín dụng rất nhiều”, ông Bảo nói.

Theo ông Bảo, hiện nay có vấn đề bà con đi mua phân bón chịu rất nhiều thiệt thòi và người nông dân rơi vào tình cảnh bị chủ vựa phân bón “kê” thêm bệnh cho cây trồng và lãi suất mua chịu không dưới 15%. Ông Bảo dẫn ví dụ cho bà con ở Hà Nam tiếp cận được vốn Agribank đã giảm được chi phí sản xuất tới 30%. Từ đó, ông Bảo kiến nghị cần có thay đổi về chính sách tín dụng và hình thành các gói bảo hiểm tín dụng.

Ông Nguyễn Ngọc Bảo nhìn nhận, điều kiện cần thiết để phát triển các chuỗi giá trị nông sản chủ lực quốc gia còn nhiều hạn chế, bất cập về quy hoạch vùng nguyên liệu trong liên kết vùng, tích tụ và tập trung ruộng đất, kết cấu hạ tầng sản xuất và thông tin... Từ đó, ông Bảo đề nghị, cần sớm sửa đổi luật Đất đai và ban hành chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền sử dụng đất để tạo điều kiện tích tụ và tập trung ruộng đất phát triển vùng chuyên canh nông sản lớn.

"Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho quy hoạch và phát triển chuỗi giá trị sản phẩm nông sản", ông Bảo cho hay.

Ông Nguyễn Thanh Dương – Vụ trưởng Vụ Kinh tế nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) cho biết trong giai đoạn vừa qua để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP thì trung bình toàn nền kinh tế phải đầu tư 7,2 đồng vốn, trong khi đó để tạo nên 1 đồng tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp chỉ cần đầu tư 5,5 đồng vốn. Tuy nhiên, cơ chế chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn vẫn còn chồng chéo, môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Cơ chế, chính sách đầu từ còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh và bố trí nguồn vốn còn bất hợp lý như nặng về thủy lợi (khoảng 60%), ưu tiên cho cây lúa, một số ngành khả năng đem lại lợi nhuận cao lại ít được đầu tư…

Đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, doanh nghiệp đóng vai trò “bà đỡ”

Ông Dương kiến nghị cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh cần được tiếp tụ cắt giảm một cách thực chất. Giảm gánh nặng thuế, phí, chế độ kế hoạch cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, xác định doanh nghiệp đóng vai trò “bà đỡ” để đưa công nghệ, quản lý, vốn và thị trường vào sản xuất nông nghiệp.

TS. Nguyễn Như Quỳnh, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho biết chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp chưa khuyến khích người nông dân sử dụng đất hiệu quả. Ông Quỳnh thông tin, định hướng, giải pháp về cơ chế, chính sách tài chính phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 nêu rõ hoàn thiện các chính sách thuế hướng đến mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển nông nghiệp bền vững. Cụ thể, sẽ giảm 50% thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản… Đặc biệt là kéo dài thời gian cho thuê đất đối với khu vực kinh tế tư nhân; ưu đãi trong chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất; giá thuê đất ở mức thấp nhất và miễn tiền thuê đất cho các cơ sở ngành nghề nông thôn, nhất là cơ sở sản xuất nông nghiệp sạch.

Để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái ta phải làm gì

TS. Nguyễn Như Quỳnh, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và chính sách tài chính, Bộ Tài chính.

TS. Nguyễn Thị Hòa, Viện trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước nêu rõ tín dụng đối với lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao và cho vay theo chuỗi giá trị trong nông nghiệp còn hạn chế. Cùng với đó, chính sách bảo hiểm nông nghiệp chưa đầy đủ, chậm triển khai, chưa thực sự phát huy hiệu quả. Một bộ phận người nghèo sử dụng vốn chưa hiệu quả, chưa có khả năng thoát nghèo bền vững.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách

Theo bà Hòa, trong giai đoạn tới, sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khắc phục những hạn chế về tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, sẽ tăng tỷ trọng tín dụng phục vụ chế biến sâu các sản phẩm nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị, chất lượng nông sản; đẩy mạnh cho vay chuyển đổi cơ cấu nông sản, tập trung vào các danh mục sản phẩm chủ lực, thế mạnh. Từng bước tăng dần tính hấp dẫn của tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn để thu hút thêm các nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực này. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh hay các nguyên nhân khách quan bất khả kháng khác…

Bà Hòa kiến nghị từ nay đến năm 2025, tiếp tục duy trì tăng trưởng tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn như tín dụng cho nền kinh tế (18,6%/năm).

Nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát nhấn mạnh, đây là lần đầu tiên các Bộ ngành ngồi lại với nhau để tính xem nguồn lực cho nông nghiệp, nông thôn và từ đó kiến nghị có cơ chế, chính sách hiệu quả trong thời gian tới. Trong 10 năm qua, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân là hơn 6 triệu tỉ đồng, tương 260 tỉ USD. Tín dụng tăng trưởng 18,6%/năm và miễn giảm thuế cho khu vực này rất lớn. Ông Phát kiến nghị đầu tư cho khu vực này cao hơn 12% và mức tăng trưởng tín dụng tối thiểu phải là 18,6%/năm.

Để xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái ta phải làm gì

VOV.VN - Tối 12/12, tại Quảng trường Thái Bình, tỉnh Thái Bình, tỉnh vinh dự được Bác Hồ 5 lần về thăm đã long trọng diễn ra Lễ khánh thành Tượng đài Bác Hồ với nông dân Việt Nam.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Võ Thành Hưng cho biết, hiện có khoảng 14.000 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu chính sách thuế đối với khu vực này. Về chính sách bảo hiểm nông nghiệp đúng là có khó khăn do rủi ro lớn. Bộ Tài chính sẽ xây dựng chính sách thuế theo hướng mở rộng đối tượng bảo hiểm nông nghiệp để chia sẻ rủi ro.

“Đầu tư ngân sách nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn có thể tăng gấp đôi so với giai đoạn trước để đáp ứng nhu cầu phát triển”, ông Hưng nói.

Kết luận hội thảo, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Duy Hưng cho biết trong khuôn khổ hội thảo, đại diện các Bộ ngành đã đặt lên bàn nghị sự 5 việc lớn cũng là chuyên đề 5 trong tổng thể 25 chuyên đề của Ban chỉ đạo đặt ra. Đó là về liên kết chuỗi trong sản xuất nông nghiệp, chính sách huy động nguồn lực, chính sách tài chính, chính sách tín dụng và chính sách khoa học công nghệ.

Trong thời gian qua, đã thực hiện tốt 5 chính sách này và nhờ vậy đã tạo động lực cho sự phát triển ở nông nghiệp, nông thôn. Qua rà soát cơ chế, chính sách, thực hiện tổng kết Nghị quyết 26 lần này sẽ là đợt tổng rà soát cơ chế, chính sách để xem cần thay đổi theo hướng nào, cụ thể ra sao để đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn. Qua đó, đánh giá lại những thành tựu, kết quả đã đạt được và làm rõ hạn chế, nguyên nhân từ đó xác định rõ bối cảnh mới, tình hình mới để đưa ra chủ trương, chính sách phù hợp tạo động lực phát triển trong lĩnh vực này.

Ông Nguyễn Duy Hưng cho biết thêm, sau hơn 13 năm thực hiện Nghị quyết, nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, trở thành trụ đỡ của nền kinh tế trong những thời điểm kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn chịu nhiều tác động của dịch bệnh Covid-19. Thu nhập bình ở nông thôn tăng nhanh hơn đô thị, từ 12,8 triệu đồng/người/năm 2010 lên trên 42 triệu đồng/người năm 2020, vượt mục tiêu đề ra; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5%/năm và đến hết năm 2020 còn 4,2%. Môi trường cảnh quan ngày càng cải thiện, xuất hiện ngày càng nhiều các làng, xã xanh - sạch - đẹp.

Ông Hưng nêu lại nhiều ý kiến tại hội thảo kiến nghị sửa đổi Luật Đất đai, Luật Hợp tác xã và nhiều chính sách cụ thể cho phù hợp với thực tiễn. Đề xuất nguồn lực đầu tư từ nhà nước cần tăng lên, là nguồn lực dẫn dắt và huy động được nguồn lực lớn hơn từ xã hội. Cùng với đó là tăng nguồn lực tín dụng, chính sách về thuế để tạo động lực, nguồn lực phát triển nông nghiệp, nông thôn như thuế thu nhập cá nhân của xã viên HTX.

“Thực tế cho thấy nợ xấu trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn lại thấp nhất trong các ngành kinh tế. Thời gian tới cần tăng cường hơn nữa nguồn vốn tín dụng cho khu vực này”, ông Nguyễn Duy Hưng nhận định.

Đầu tư, ứng dụng KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Về đầu tư, ứng dụng KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho rằng còn chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn.

“Để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII nêu rõ khái niệm “nông dân thông minh” thì các Bộ ngành chức năng phải đẩy mạnh chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, cơ sở dự liệu số lớn của ngành nông nghiệp từ đất đai, thổ nhưỡng, cây trồng, vật nuôi… đến thị trường”, ông Nguyễn Duy Hưng đánh giá.  

Ông Nguyễn Duy Hưng cũng nhấn mạnh phải quan tâm các gói bảo hiểm mùa màng cho người nông dân bên cạnh bảo hiểm khoản vay.

Ông Đỗ Minh Hoàng, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Ngân hàng Nông nghiệp (ABIC) cho biết công ty đã xây dựng hệ thống phân phối bán lẻ đến thôn, xóm, bản làng. ABIC là đơn vị tiên phong triển kinh doanh các sản phẩm bảo hiểm bán lẻ vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân dưới hình thức gói sản phẩm tín dụng nông nghiệp và bảo hiểm nông nghiệp. Bảo hiểm góp phần khắc phục các rủi ro, tổn thất do thiên tai, dịch bệnh… giúp người nông dân phục hồi sản xuất. Đáng chú ý, thời gian qua, ngân hàng đã giảm lãi suất vay tạo điều kiện cho hộ nông dân có tiền mua bảo hiểm.

Ông Phạm Toàn Vượng, Phó tổng giám đốc Agribank cho hay, ngân hàng có hơn 20 sản phẩm tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, với giá trị hơn 2,2 triệu tỉ đồng. Tuy nhiên, ông Phượng cho rằng vẫn còn những bất cập về cơ chế, chính sách đối với tín dụng dành cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ông Phượng kiến nghị cần tách biệt chính sách tín dụng đối tượng chính sách với tín dụng đối tượng thương mại.

Ban Kinh tế Trung ương cho biết giai đoạn 2008 - 2020, nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao 2,94%/năm và phát triển khá toàn diện, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện hơn. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tăng trưởng 8,17%/năm, cán cân thương mại liên tục xuất siêu, nông sản Việt Nam có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đưa Việt Nam thành một trong những cường quốc nông sản; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, giảm nghèo bền vững. Năm 2020 sản lượng lúa gạo bình quân đầu người đạt 438,2 kg, cao hơn Thái Lan và gấp 3,5 lần Ấn Độ./.