Đánh giá vể rừng xà nu

Nền thơ ca và văn học Cách mạng luôn khiến chúng ta cảm thấy tự hào khi lật giở từng trang truyện, từng bài thơ. Mỗi nhà văn dường như đều tự chọn cho mình một mảnh đất để khai phá, để ngòi bút của mình đắm chìm vào trong văn hóa xứ sở. Ta có Tô Hoài với những tập hồi ký về Tây Bắc, có Nguyễn Thi với những tác phẩm gắn bó với con người Nam Bộ,... thì Nguyễn Trung Thành lại chọn cho mình mảnh đất Tây Nguyên để gieo nguồn cảm hứng. Ở mảnh đất ngập tràn sử thi tráng lệ ấy, Nguyễn Trung Thành đã chắp bút viết lên Rừng xà nu - một tác phẩm mang đậm văn hóa con người Tây Nguyên thời kì kháng chiến chống Mỹ.

Nội dung của tác phẩm là những vấn đề lớn lao, mang nhiều ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Đó là hình ảnh của toàn dân tộc đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, những thế hệ anh hùng cứ tiếp nối nhau trên mảnh đất Tây Nguyên. Hình tượng cây xà nu gắn liền với các đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên này, nó là biểu tượng, là hình ảnh tượng trưng tràn đầy sức sống của những con người nơi đây.

Có lẽ vì thế mà mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đã cho chúng ta thấy một cánh rừng xà nu "hàng vạn cây" ở ngay đầu làng Xô Man. Đây là hình ảnh xuất hiện đầu tiên, cuối cùng và xuyên suốt trong cả tác phẩm. Loài cây gắn bó với con người nơi đây từ sinh hoạt, sản xuất đến kháng chiến chống giặc. Trong sinh hoạt, xà nu trở thành gỗ để giúp dân làng đun nấu, hun khói bảng đen để tập viết chữ, những đuốc lửa xà nu soi sáng những căn nhà, con đường, ... Ngoài ra, cây xà nu còn xuất hiện trong hầu hết các sự kiện quan trọng của làng Xô Man như thắp đuốc để mài vũ khí chống giặc, soi sáng con đường để giết giặc, ...

Thế nhưng, rừng xà nu ấy lại là nơi chịu nhiều bom đạn của kẻ thù nhất bởi làng Xô Man nằm trong tầm ngắm đại bác của địch, và cánh rừng xà nu là tấm lá chắn bảo vệ cho làng. Mỗi ngày ba lần, những loạt đạn đại bác "bắn, đã thành lệ" rơi xuống "ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn". Hình ảnh những cây xà nu đứng chắn ngang trước làng, chịu những tổn thương của bom đạn gây ra "hàng vạn cây không cây nào là không bị thương" khiến người đọc không khỏi nhói lòng. Chúng chịu sự tàn phá nặng nề của bom đạn kẻ thù, ấy vậy mà vẫn hiên ngang "ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng". Những cây xà nu bị thương, "bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão", rồi từng chút "nhựa ứa ra tràn trề", dần dần "bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn". Đó là những hình ảnh tang thương về sức tàn phá kinh hồn của kẻ thù với những cây xà nu. Mượn hình ảnh đau thương ấy của những thân cây, tác giả muốn nói tới những nỗi đau đớn mà con người phải chịu đựng dưới bom đạn của kẻ thù xâm lược.

Bị tàn phá nặng nề là thế, thế nhưng, cánh rừng xà nu vẫn mỗi ngày một vươn lên mạnh mẽ, với một sức sống vô cùng mãnh liệt "Trong rừng ít có loài cây nào sinh sôi nảy nở khỏe như vậy, cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình mũi tên lao thẳng lên bầu trời". Một cây xà nu ngã gục là một lớp những cây con sẽ mọc lên kế tiếp, mạnh mẽ hơn gấp bội lần. Lớp cây này thay lớp cây khác hay cũng là những lớp thế hệ cách mạng song hành, nối tiếp nhau của làng Xô Man, của Tây Nguyên. Xà nu phải chăng chính là sự tượng trưng cho con người mảnh đất Tây Nguyên này, sức sống của chúng, ý chí của chúng cũng là sức sống, ý chí của con người nơi đây, mạnh mẽ, quyết liệt vô cùng? Trong chiến tranh, dù bom đạn có tàn phá khốc liệt thế nào, có dã man ra sao, chúng vẫn nhất quyết vươn lên, chống trả lại một cách mãnh liệt nhất "đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng"!

Xà nu còn là một loài cây ham ánh sáng, thứ ánh sáng mặt trời trong lành và vàng óng ánh "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn, thẳng tắp". Những cây xà nu ham ánh nắng để phóng lên mà tận hưởng, để sinh sôi, nảy nở, phát triển. Ánh nắng ấy phải chăng cũng chính là thứ ánh sáng của tự do, của khát vọng sống hạnh phúc? Và những con người Tây Nguyên như những cây xà nu mang trong mình tình yêu tự do mãnh liệt ấy mà phóng lên, bất chấp những khốc liệt, khổ đau.

Hình tượng rừng xà nu xuyên suốt trong tác phẩm, mở đầu bằng hình ảnh những cây xà nu và kết lại là hình ảnh của rừng xà nu nối tiếp nhau đến tận chân trời, bởi nó là tượng trưng cho con người vùng đất Tây Nguyên này. Có thể nói cây xà nu mang trong mình sự cứng cỏi, mạnh mẽ, mang trong mình tình yêu với tự do thì con người Tây Nguyên cũng vậy, cũng mang trong mình khát vọng tự do mạnh mẽ ấy để đương đầu với khốc liệt chiến tranh, của những tàn bạo mà bọn xâm lược đang gây ra.

Tác phẩm Rừng xà nu không chỉ nổi bật hình tượng cây xà nu với sức sống mãnh liệt mà còn nổi bật với các thế hệ anh hùng nối tiếp nhau trong bản làng người dân tộc Strá - làng Xô Man.

Đầu tiên trong thế hệ những con người anh hùng ấy là cụ Mết - một người già làng, một con người Cách mạng đại diện cho lớp người đi trước. Cụ Mết đã hơn sáu mươi tuổi, ở cái tuổi "thất thập cổ lai hy" nhưng vẫn mang một vẻ quắc thước, khỏe khoắn không ngờ "râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược". Và hơn thế, cụ còn mang một vết sẹo thật dài ở má phải, cái sẹo vẫn "láng bóng". Đây là những dấu tích của thời gian, dấu tích cho những năm tháng thăng trầm, bồi đắp lên một cụ Mết hôm nay. Cụ Mết là đại diện cho lớp thế hệ người đi theo Cách mạng đầu tiên của làng Xô Man này. Bởi vậy có lẽ khi miêu tả về cụ, Nguyễn Trung Thành đã đặt vào đó cái âm hưởng sử thi hoành tráng của Tây Nguyên với "bàn tay nặng trịch" và "tiếng nói dội vang lồng ngực", "ngực căng như một cây xà nu lớn". Cụ Mết là người đã đi qua hơn nửa đời người, sống gắn bó với núi rừng Tây Nguyên này, cụ hiểu và trân trọng những giá trị văn hóa, những giá trị con người nơi đây. Chính vì thế, cụ là người đi tiên phong trên con đường Cách mạng kháng chiến chống Mỹ. Mỗi câu nói của cụ đều là những chân lý được đúc kết qua bao thăng trầm của thời gian "Đảng còn thì núi nước này còn" hay "chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo". Đó là những câu nói làm nên con người cụ Mết - một người con anh hùng - cây xà nu già cả, uyên thâm của làng Xô Man nói riêng, của núi rừng Tây Nguyên nói chung. Mang trong mình những phẩm chất cao đẹp của người con dân tộc Strá, của bản làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên, cụ quả quyết, gan dạ, có tầm nhìn xa khi cụ đã cùng dân làng tích trữ lương thực để chống giặc dài lâu, luôn yêu thương và che chở cho dân làng.

Cụ Mết chính là biểu tượng cho lớp thế hệ đi trước trong kháng chiến chống Mỹ, hội tự những phẩm chất cao đẹp nhất của con người Tây Nguyên và cái âm hưởng sử thi hào hùng nữa.

Lớp thế hệ thứ hai tiếp nối bước chân của cụ Mết là Tnú - người thanh niên cộng sản gan dạ, kiên trung, người lãnh đạo dân làng Xô Man cùng nhau nổi dậy kháng chiến chống lại kẻ thù. Tiếp nối cụ Mết, Tnú cũng mang trong mình những phẩm chất cao đẹp truyền thống của con người nơi đây.

Điều đầu tiên mà ta cảm nhận được ở Tnú đó là sự gan dạ, nhanh nhẹn, tháo vát của một chàng trai miền núi rừng. Ai đọc tác phẩm cũng đều biết rằng, Tnú có một số phận rất đau thương khi mồ côi cha mẹ từ rất sớm, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương của những người dân làng Xô Man. Ngay từ nhỏ, anh đã bộc lộ những đức tính cao đẹp của con người nơi đây như gan dạ, dũng cảm, và giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Ngay từ khi mới "cao bằng ngang bụng cụ Mết", anh đã đi làm Cách mạng, trở thành người nuôi giấu cán bộ trong rừng thay cho những thanh niên, ông bà già của bản làng khi ấy. Người đọc có thể ấn tượng ngày một đứa bé "đeo cái xà lét nhỏ xíu của mẹ nó để lại, trên bó rau dưới giấu hai lon gạo trắng, nó luồn như một con sóc qua các hốc đá cheo leo, nó chạy lon ton trong rừng đi tìm nuôi anh cán bộ". Ngay từ nhỏ, Tnú đã ý thức được sự quan trọng của Cách mạng và quyết tâm theo Cách mạng mà chẳng hề sợ hy sinh.

Tnú học con chữ để quyết tâm thay anh Quyết làm Cách mạng. Học không được, Tnú"cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, máu chảy ròng ròng". Đó là hành động thể hiện chí sự quyết tâm đến cùng của một người chiến sĩ Cách mạng tí hon.

Về học hành, Tnú có thể chậm hơn Mai một chút, thế nhưng, khi băng rừng vượt suối để làm liên lạc cho cán bộ thì "cái đầu nó sáng lạ lùng". Chẳng giống như những người khác thích đi vào những lối mòn, những con đường bằng phẳng, Tnú "không bao giờ đi đường mòn, nó leo lên một cây cao nhìn quanh, nhìn một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông, nó không thích chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình". Nguyễn Trung Thành đã dựng lên bức tranh về một chú bé giao liên tháo vát, nhanh nhẹn nhất của núi rừng Tây Nguyên này bằng những từ ngữ thật sinh động và chân thực. Người ta như thấy được cái bóng chú bé ấy thấp thoáng qua những lùm cây cao, qua những con suối cao, thác lớn mà vẫn băng băng vượt lên tất cả.

Đến lúc bị địch bắt, Tnú bất ngờ khi "họng súng của giặc phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt", ấy thế mà nó vẫn kịp "nuốt luôn cái thư". Đây là cách xử lý nhanh nhất, can đảm nhất, thông minh nhất của người giao liên tí hon ấy! Bị địch bắt, bị giam trong nhà lao, nhưng Tnú vẫn tìm mọi cách để trở về quê hương, trở về bản làng của mình sau ba năm bị giam giữ và tra tấn. Từ đây, anh trở thành người lãnh đạo bản làng của mình đứng lên chống lại lũ quân thù man rợ bằng tất cả ý chí, lòng căm thù sâu sắc nhất của mình. Một mình anh đã lên núi Ngọc Linh, gùi đá về làng, nếu như trước là để lấy phấn viết thì nay, anh đem về những viên đá sắc nhất để cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị đánh giặc. Có thể nói, Tnú là lớp thế hệ kế tiếp cụ Mết với một ý chí càng mạnh mẽ hơn, quyết tâm càng sâu sắc hơn, bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của con người nơi đây càng mạnh mẽ hơn.

Bởi thế nên khi chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn, anh đã không thể kìm được mà nhảy xổ vào thằng lính to béo chỉ với đôi bàn tay không. Gan dạ là thế, anh bị địch bắt, bị đốt mười đầu ngón tay bằng lửa xà nu, nhưng không hề có một tiếng kêu van nào vang lên cả "Người Cộng sản không thèm kêu van". Anh Quyết đã từng nói thế và Tnú cũng sẽ nhất quyết không kêu van lũ kẻ thù của mình. Quả là một tinh thần thép, một lòng gan dạ đến vô cùng của người con Tây Nguyên.

Không chỉ là một người chiến sĩ Cách mạng kiên trung, Tnú còn vô cùng gắn bó với quê hương và yêu thương vợ con của mình! Ba năm làm Cách mạng đi xa, thế nhưng ngày trở về, Tnú vẫn nhớ rõ những cái cây, từng con đường cũ vào bản của mình. Anh băng băng trên con đường cũ với một lòng nôn nóng muốn được gặp lại tất cả những người thân yêu của mình trong bản làng ấy.

Anh cũng vô cùng thương yêu vợ con của mình, khi chứng kiến cảnh Mai và con bị tra tấn, anh đã đau đớn đến tột cùng, đứng cạnh cây vả mà "anh bứt hàng chục trái vả mà không hay" rồi nhảy xổ vào tên lính đang tra tấn vợ con anh chỉ bằng đôi tay trần. Lúc đó, có lẽ Tnú chẳng còn một suy nghĩ gì khác trong đầu, chẳng còn nhớ tới vũ khí hay bất cứ gì khác, anh chỉ biết một điều đang hừng hực trong tâm trí là sự quyết tâm cứu sống Mai và con dù có phải hy sinh cả thân mình.

Tnú - người con của núi rừng Tây Nguyên nay, mang trong mình những phẩm chất cao đẹp nhất của những con người nơi đây, là nóng cốt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, là thế hệ thứ hai kế bước những truyền thống anh hùng của con người Tây Nguyên, của dân tộc Strá và của bản làng Xô Man. Miêu tả Tnú, Nguyễn Trung Thành cũng không quên thêm vào anh chất sử thi hùng tráng làm nên bản sắc của con người nơi đây.

Thế hệ thứ ba kế tiếp những thế hệ anh hùng nơi đây là Dít - em gái của Mai, vợ của Tnú. Cũng như Mai - chị của mình, Dít là một người con gái giác ngộ Cách mạng từ sớm. Chị đã kế tiếp bước chân của cụ Mết, của Tnú, của Mai, trở thành một cán bộ nòng cốt, thay thế Tnú lãnh đạo bản làng Xô Man này chống giặc. Cũng như Mai, như Tnú, Dít cũng trở thành một cô giao liên băng rừng mà nuôi giấu cán bộ. Đến ngày bị giặc bắt, một đứa trẻ mới mười tuổi như Dít phải chịu trói, chịu đứng giữa trời cho bọn giặc bắn súng dọa. Chúng không bắn thẳng vào Dít mà bắn xung quanh cô, "bắn từ từng từng viên một, không bắn trúng, chỉ bắn sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít". Nó khóc thét lên khi từng viên đạn sượt qua, đối với một đứa trẻ mười tuổi thì trải nghiệm đó quá sức chịu đựng và thật phi thường. Thế nhưng, "đến viên thứ mười, nó chùi nước mắt, từ đó im bặt", nó đứng yên cho từng viên đạn sượt qua. Có lẽ nỗi sợ hãi của con người ta khi đến một đỉnh điểm, nó sẽ trở thành sự chai lì sẽ khiến cho con người đó trở thành một kẻ không còn sợ hãi cái chết nữa. Và Dít đã được tôi luyện như vậy đấy! Sau này trưởng thành, Dít trở thành bí thư chi bộ xã, chính trị viên xã đội, lãnh đạo dân làng, cùng với dân làng chống giặc ngoại xâm. Dít là đại điện cho lớp thế hệ thứ ba, những người phụ nữ thanh niên ở quê hương tiếp nối nhưng truyền thống anh hùng và những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên.

Thế hệ tiếp nối thứ tư là bé Heng. Thằng bé mới còn nhỏ xíu, ấy thế mà đã trở thành người dẫn đường cho cán bộ và khách vào làng, đi qua những hố chống dày đặc. Heng là lớp cây xà nu con kế tiếp "như những mũi tên phóng thẳng lên bầu trời", hứa hẹn một thế hệ kế tiếp đầy vững chắc. Nếu như rừng xà nu nối tiếp nhau bằng những cây con, ham ánh sáng, phát triển nhanh chóng thì những con người ở đây cũng lớp này thay lớp khác kế tiếp nhau tiếp nối truyền thống đánh giặc anh hùng của cha ông.

Rừng xà nu là câu chuyện về cả một tập thể những con người anh hùng, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia của núi rừng Tây Nguyên. Họ bộc lộ sự gan dạ, bộc lộ những phẩm chất anh hùng của mình như gan dạ, dũng cảm và hơn thế là tình yêu quê hương, yêu gia đình, Tổ quốc. Hình tượng rừng xà nu "nối tiếp nhau đến hút tận chân trời" cũng là nói về những con người nơi đây, thế hệ này kế cận thế hệ kia vươn lên mạnh mẽ. Họ là những thân xà nu hừng hực sức sống mãnh liệt, yêu tự do, sẵn sàng vươn lên dù bất cứ hoàn cảnh nào, dù bom rơi đạn nổ ra sao.

Rừng xà nu là tác phẩm đánh dấu sự thành công của tác giả Nguyễn Trung Thanh. Ông đã xây dựng hình ảnh của cả một bản làng người dân tộc thiểu số cùng nhau đứng lên chống giặc với một cảm hứng sử thi bát ngát. Cùng với những biện pháp phóng đại, so sánh, liệt kê, ẩn dụ, ông đã thành công dựng lên hình tượng cây xà nu biểu tượng cho con người Tây Nguyên gan dạ, dũng cảm trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Giọng văn hùng tráng, mang âm hưởng sử thi, ngôn tự giản dị, mộc mạc chính là những điều làm nên sự thành công cho tác phẩm Rừng xà nu.

Tác phẩm khép lại nhưng trong lòng chúng ta vẫn vang vọng mãi giai điệu tự hào. Tự hào về những con người Việt Nam gan dạ, kiên trung trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, yêu hơn quê hương, Tổ quốc của mình. Và một phần trong đó là sự biết ơn những thế hệ đi trước đã dũng cảm hy sinh máu xương để chúng ta có được nền độc lập hôm nay.

------HẾT-----

https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-ve-truyen-ngan-rung-xa-nu-cua-nguyen-trung-thanh-57864n.aspx