Đánh giá chất lượng xe camry 2.4 đời 2004

Gia cảnh nghèo phải lấy em nhà quê nên cũng không dám tự cao đặt tên cho vợ 2 là Thiên Nga hay Vịt bầu trắng..… nếu bác nào có ví von thì cho em nó có cái tên là sáo sậu (BlackBird) cũng được, vì em nó cũng khá chăm chỉ và lanh lợi trong nhiệm vụ phụ giúp em bươn chải kiếm cơm hàng ngày …

Sau gần 8 tháng sử dụng, việc nuôi nấng em nó cũng không phải gánh nặng với tổng chi phí xăng trong thời gian qua là 28 triệu đồng tương đương 1.773 lít và mức tiêu hao trung bình 100km là 13.5 lít. Vì là sáo sậu nên việc bảo dưỡng cũng không tốn kém gì mấy,mỗi lần thay nhớt chỉ mất 220,000đ, cộng với các chi phí phát sinh khác cũng không quá 1,5 triệu đồng cho hơn nửa năm lăn bánh. Do thường xuyên kiếm ăn trong thành phố với đầy chiến hào và lô cốt, kẹt xe …..nên tiêu hao nhiêu liệu trung bình của em nó ở mức từ 13-15 lít/100km, lâu lâu được dịp về quê ngoại thì mức tiêu hao nhiên liệu giảm đáng kể từ 8.5-10 lít/100 km.

Điểm mạnh của xe có kích thước to lớn và rộng rãi, nên việc đi lại với gia đình & bạn bè khá thoải mái & tiện nghi. Nếu so với em hàng nhập khẩu thì hàng Liên Doanh hơn hẳn, điều hòa tự động, 2 vùng trước và sau, hệ thống cảm biến hỗ trợ đậu xe và cảnh báo va chạm, nội thất da …nói chung trang thiết bị được trang bị khá đầy đủ so với các mẫu Camry được lắp ráp tại VN trước đây.

Do vợ 2 em được cưới về ngay thời điểm nóng, nên việc nhà máy Toyota Việt Nam lắp ráp xe cũng khó tránh khỏi các sơ suất do phải tăng ca cho kịp tiến độ và nhu cầu thị trường. Bằng chứng là sau 2 tháng sử dụng, khi đưa em nó đến bác HP nâng cấp hệ thống âm thanh thì em phát hiện 2 con ốc ngay táp-pi cửa chưa được gắn, hèn gì lâu lâu qua các ổ gà hay gờ giảm tốc... thì em lại nghe tiếng kêu cọt kẹt nhỏ rất khó chịu…. Do không có bằng chứng gì để cãi với đại lý về vấn đề thiếu sót trên nên em phải đành ngậm ngùi mua 2 con ốc chính hãng với giá 7,000đ/con và phải chờ cả tháng mới có hàng. Hy vọng xe em chỉ có sơ xuất phần lỗi này… chứ máy móc mà thiếu ốc như thế thì ………

Ngoài sự cố thiếu ốc trên còn lại thì xem ra dịch vụ chăm sóc & bảo dưỡng xe của Toyota khá tốt. Hàng tháng em đều nhận được điện thoại của bên đại lý An Thành hỏi thăm về tình hình xe của em và nhắc nhở mang vợ 2 đến kiểm tra xe định kỳ.

Cảm giác lái xe thì sao? Với động cơ 2AZ 4 xilanh VVTi 2.4L được gắn lên thân xe có tự trọng gần 1.5 tấn, vận hành của em nó được đánh giá ở mức trung bình khá, xe tăng tốc không nhanh ở chế độ tự động D nhưng vận hành khá êm ái ngay cả khi đạt tốc độ 130-150km/h. Cảm giác những ngày đầu sau khi lấy xe hơi khó chịu do hệ thống treo khá “dịu” nên xe có cảm giá khá bồng bềnh khi vượt qua những đoạn đường gồ ghề - và đây cũng là một trong các đặc tính cố hữu của dòng Camry từ trước tới nay. Tuy nhiên sau khi làm quen được thì bạn lại có cảm giác nhè nhàng và an toàn khi xe vận hành ở tốc độ cao.

Việc tiêu hao nhiên liệu ít hay nhiều cũng tùy thuôc vào sự vận hành của người lái, nếu chỉ dùng chế độ tự động D thì xe tốn khá nhiều nhiên liệu, nhưng nếu chuyển qua chế độ Sport, việc bạn chủ động điều tiết vận hành cấp số dựa trên vận tốc xe đang chạy như cách bạn từng lái ở số sàn thì mức tiêu hao nhiên liệu sẽ giảm đáng kể từ 10-20%. Ví dụ ở đường xa lộ, nếu để chế độ D thì mức tiêu hao nhiên liệu trung bình sẽ là 10-11 lít/100km, tuy nhiên với chế độ S thì mức tiêu hao nhiêu liệu sẽ ở mức 8.5-9.5 lít/100 km. Ngoài ra khi vận hành ở chế độ Sport, bạn sẽ không cảm giác buồn ngủ cho những chuyến đi xa …

Sau gần 8 tháng sử dụng thì vợ 2 em không gặp bất kỳ sự cố hay trục trặc nào khác, có cảm giác an tâm thật sự khi cùng vợ 2 vi vu các nẻo đường xa. Có lẽ cũng giống như vài bác trên OS, chúng ta thường không hài lòng về phong cách kinh doanh của Toyota Việt Nam, tuy nhiên điều chúng ta không thể phủ nhận là chất lượng & độ bền và sự tin cậy khá cao, các trục trặc hay sự cố hình như rất ít khi xảy ra ở các dòng xe Toyota.

Ở lần ra mắt này, Toyota Camry tiếp tục được giữ lại thiết kế sedan cỡ trung 4 cửa, thiết kế station wagon 4 cửa không còn được sản xuất.

Chều dài cơ sở của mẫu Toyota Camry thế hệ thứ năm được kéo dài hơn tới 2,720mm so với chiều dài cơ sở 2,672mm của thế hệ trước. Thiết kế Toyota Camry thế hệ thứ năm có chiều cao lớn hơn nhiều so với thế hệ cũ (mẫu xe năm 2005 – 2006 1,490mm so với mẫu xe cũ 1,407 mm).

Bên cạnh việc trang bị thêm hệ dẫn động bốn bánh (ngoài hệ dẫn động cầu trước từ thế hệ thứ tư), động cơ của mẫu xe mới còn được thiết kế đa dạng hơn gồm 2.4L I4 2AZ-FE, 3.0L V6 1MZ-FE, và 3.3L V6 3MZ-FE. Hộp số cũng có nhiều lựa chọn hơn gồm số tay 5 cấp, số tự động 4 cấp U241E, 4 cấp U140E, 5 cấp U151E, 5 cấp U250E.

Xét đến độ an toàn, Toyota Camry thế hệ này nhận được đánh giá Tốt trong bài thử nghiệm va chạm trước từ tổ chức IIHS của Mỹ (The Insurance Institute for Highway Safety).

Tại Việt Nam

Toyota Camry thế hệ thứ năm chính thức ra mắt thị trường Việt Nam vào ngày 7/8/2002.

2002

Ở lần ra mắt đầu tiên, Toyota tung ra hai phiên bản là Camry 2.4G và Camry 3.0V. Khách hàng có 4 màu để lựa chọn là trắng, xanh lá cây sẫm, ghi hồng và đen.

Mẫu Camry mới sử dụng xăng không pha chì. Phiên bản 3.0V sử dụng động cơ 1MZ-FE 3.0L V6, DOCH, công suất 181 mã lực, tốc độ tối đa 225 km/h và đạt tới 100 km/h trong vòng 8.7 giây. Phiên bản 2.4G được trang bị động cơ 2AZ-FE 2.4L I4 148 mã lực với hệ thống điều phối van biến thiên thông minh VVT-i. Dung tích bình xăng 70 lít.

Hộp số trang bị cho phiên bản 3.0V là số tự động 4 cấp, phiên bản 2.4G là số tay 5 cấp.

Tính năng an toàn được chú trọng trong mẫu thiết kế Toyota Camry mới với hệ thống phanh với đĩa lớn trên cả 4 bánh xe được hỗ trợ bởi hệ thống chống bó cứng ABS (Anti-lock Braking System), phân phối lực phanh điện tử EBD (Electronic Brakeforce Distribution) và hỗ trợ phanh khẩn cấp BA (Brake Assist). Ngoài ra xe còn được trang bị 2 túi khí, tựa đầu hàng ghế trước thiết kế chống chấn thương đầu và cổ, các pê-đan tự động thu lại khi xảy ra va chạm.

Vật liệu nội thất được sử dụng bằng gỗ và da. Phiên bản 3.0V đặc biệt chú trọng đến thiết kế cho ghế hành khách phía sau với ý tưởng “Đây là chiếc xe dành cho người quản lý”.

Mẫu xe này được trang bị ghế điều khiển điện đa chiều (3.0V), bảng đồng hồ optitron, màn hình hiển thị thông tin truy cập bằng phím trên vô-lăng (3.0V); thiết bị giải trí có hệ thống CD tự động 6 đĩa (3.0V). Đặc biệt, cả 2 phiên bản Camry 2.4G và Camry 3.0V đều sử dụng bộ lọc khí thải dùng chất xúc tác, tiết kiệm nhiên liệu và hạn chế ô nhiễm môi trường.

2004

Tháng 7/2004, Toyota ra mắt thị trường hai phiên bản mới Camry 2.4G và Camry 3.0V6 của thế hệ Toyota Camry thứ năm.

Thiết kế bên ngoài có sự thay đổi về lưới tản nhiệt theo kiểu vây cá dọc, đèn sương mù lớn hơn và đèn phanh sử dụng công nghệ LED. Cụm đèn pha HID tăng cường độ chiếu sáng gấp hai lần và giảm 30% năng lượng tiêu thụ.

Động cơ lắp đặt cho bản 2.4G 2004 không có gì khác biệt so với mẫu thiết kế trước bao gồm 4 xylanh thẳng hàng, hệ thống điều phối van biến thiên thông minh VVT-i, công suất cực đại 148 mã lực (SAE) tại vòng tua 5,600 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 22.4 kg.m tại vòng tua 4,200 vòng/phút. Phiên bản Camry 3.0V6 được trang bị động cơ V6, DOHC, hệ thống điều phối van biến thiên thông minh VVT-i, riêng công suất cực đại được cải tiến và đạt tới 210 mã lực (SAE) tại vòng tua 5,800 vòng/phút cao, mô-men xoắn cực đại 30.4 kg.m tại vòng tua 4,400 vòng/phút.

Phiên bản 2.4G mới vẫn sử dụng số tay 5 cấp, phiên bản 3.0V6 được lắp hộp số tự động 5 cấp cải tiến.

Mẫu xe Toyota Camry năm 2004 vẫn được trang bị đầy đủ các trang thiết bị an toàn giống các thế hệ xe trước bao gồm phanh đĩa ở cả 4 bánh, 2 túi khí trước, hệ thống chống bó phanh ABS (Anti-lock Braking System), hỗ trợ phanh khẩn cấp BA (Brake Assist) và phân phối lực phanh điện tử EBD (Electronic Brakeforce Distribution).

Chủ đề