Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ

(GD&TĐ) - Từ có vai trò rất quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Con người muốn tư duy  phải có ngôn ngữ. Không có vốn từ đầy đủ, con người không thể sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc dạy từ ngữ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh có năng lực từ ngữ, giúp cho học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, có phương tiện giao tiếp để phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng sử dụng từ càng lớn, càng chính xác, hoạt động giao tiếp sẽ thể hiện rõ ràng và nhạy bén hơn.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
ảnh minh họa

Quyết định số 43/BGD&ĐT ngày 9/11/2001 của Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu rõ Mục tiêu của môn Tiếng Việt.

Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội dung cấu tạo từ, nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp trừu tượng khó nắm bắt. Trong khi đó tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể chưa phát triển tư duy trừu tượng. Điều này đòi hỏi giáo viên cần phải tìm ra được biện pháp dạy học thích hợp với tâm lý nhận thức của các em. Qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn việc dạy học môn luyện từ và câu ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Tôi có thể đề ra một số các hướng dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5 như sau:

Trước hết ta cần hiểu nghĩa của từ là gì? Và dạy nghĩa của từ cho học sinh thế nào?

Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (Một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ. Đây là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ.

Ví dụ:
Trong các phân môn Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả, thậm chí cả Tập viết, hoạt động giải nghĩa từ cũng thường xuyên được thực hiện. Để giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh.

Theo định hướng nêu trên, chúng tôi đưa ra các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh lớp 5

Giải nghĩa bằng định nghĩa

Đây là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ  loại lên trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau.

Ví dụ: + “Thảo quả”(TV5- T1- Tr113): thảo quả  là một loại cây, thân nhỏ, quả hình bầu dục, lúc chín màu đỏ, tỏa mùi thơm ngào ngạt, dùng làm thuốc và gia vị.

+ Gùi (TV5 -T1- Tr 144): đồ vật, đan bằng mây, tre, đeo trên lưng để chuyên chở đồ đạc, miệng loe hơn đáy có hình trụ...

Bằng việc giải nghĩa biểu niệm theo cách định nghĩa khái niệm như trên, chúng tôi nhận thấy cần hướng dẫn học sinh biết cách xác định các nét nghĩa và tổ chức sắp xếp các nét nghĩa ấy. Công việc này đòi hỏi giáo viên lưu ý các em trước hết phải nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ cần giải nghĩa, và biết chúng thuộc tiểu loại nào. Bởi vì các từ loại khác nhau sẽ có hướng giải nghĩa khác nhau. Mặt khác cùng là danh từ, nhưng cách giải nghĩa danh từ trừu tượng sẽ khác với danh từ chỉ sự vật cụ thể.

Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa.

Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết. Nhất thiết các từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.

Ví dụ:
+ Cam tâm: cũng như cam lòng, nghĩa là tự kìm hãm, tự dập tắt, những tâm trạng của riêng mình để chịu đựng hay để làm một việc nào đó.   
+ Thịnh nộ (TV5- T1- Tr 89): là giận dữ ;
                                               là tỏ ra giận lắm, một cách đáng sợ.

Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng theo lối miêu tả. Vì thế bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu, cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ. Mặc dù  khi giải nghĩa chúng ta có thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ, nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp chúng ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn.

Ví dụ:
Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa: lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm từ trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ  lốc, bão, giông...

Giải nghĩa theo cách miêu tả.

* Cách này có hai dạng:
- Thứ nhất là dạng dẫn tính chất, (hiện tượng thường gặp) để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa của từ.

Ví dụ:
+ sửng sốt (TV5- T1-Tr64): ngạc nhiên cao độ, vẻ mặt có thể biến đổi khác thường như mắt mở to, lông mày nhướn lên ...
+ đỏ (TV5 - T1-Tr10): chỉ mầu sắc có mầu như mầu máu tươi.
- Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc thái hóa, hoặc từ ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách giảng theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để miêu tả, chúng ta có thể lấy một sự vật, hoạt động cụ thể làm chỗ dựa rồi miêu tả sự vật, hoạt động đó sao cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ. 

Ví dụ: + vật vờ: lay động nhẹ, yếu ớt, như không có sức mạnh chống đỡ từ bên trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong làn

nước nhẹ.

Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm thì giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật tiêu biểu nhất để giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật.

Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng này

Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ sở nắm vững nghĩa từ.

Ví dụ:
+ Trí dũng song toàn: (TV5- T2- Tr56) : trí là mưu trí.                                                              dũng là dũng cảm.                                       Trí dũng song toàn là vừa mưu trí vừa dũng cảm.

+ Nhân chứng(TV5 - T2- Tr56): nhân là chỉ người.

                                            chứng là chứng thực sự việc.

                                  Nhân chứng là người làm chứng.

Dựa vào những hiểu biết về lí thuyết và điều tra thực tiễn chúng tôi đã tìm ra những hướng giải nghĩa từ thích hợp đối với từng loại từ.  Chia các từ cần giải nghĩa thành từng nhóm và tìm ra biện pháp giải nghĩa phù hợp, chúng tôi muốn giúp giáo viên tiểu học có phương pháp hệ thống trong hoạt động giải nghĩa từ. Trong mỗi giờ học, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh cách giải nghĩa một số từ trong nhóm. Học sinh dựa vào cách mà giáo viên đã dạy đó, tiếp tục giải nghĩa các từ còn lại. Có một số điểm cần lưu ý với giáo viên khi giải nghĩa từ như sau:

- Thứ nhất, cần diễn đạt lời giảng sao cho ngắn gọn, súc tích, đầy đủ. Phải biết chọn cách diễn đạt sao cho đối với những từ trong cùng một nhóm ngữ nghĩa được giảng bằng công thức giống nhau.

- Thứ hai, giúp học sinh hiểu được các từ “công cụ” mà giáo viên thường huy động để mở đầu cho lời giải nghĩa từ như: sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái....

- Thứ ba, người giảng phải khái quát được ngôn cảnh để lời giảng đảm bảo đầy đủ các nghĩa và phát hiện ra được những nét tinh tế trong nghĩa của từ cần giải nghĩa.

Hay việc giải nghĩa các từ ngữ có giá trị nghệ thuật, được tách ra thành mục riêng với phương pháp tìm hiểu đặc trưng. Để hiểu sâu sắc các nét nghĩa của từ, nắm được những sắc thái nghĩa tinh tế của nó, giáo viên có thể dùng biện pháp so sánh với các từ cùng trường nghĩa đồng nghĩa, hay trái nghĩa, hoặc biện pháp dựa vào quy tắc chuyển nghĩa.

Các biện pháp giải nghĩa từ và dạy từ đồng nghĩa, trái nghĩa mà chúng tôi nêu trên được trình bày theo nguyên tắc thực hành. Nghĩa là các biện pháp đều được cụ thể hóa qua ví dụ, qua hệ thống bài tập sẽ phù hợp với đối tượng học sinh lớp 5. 

Tham khảo bài viết đầy đủ hơn tại đây

Nguyễn Văn Tú
(Phòng GD&ĐT  Lục Nam – Bắc Giang


Page 2

(GD&TĐ)- Việt Nam đạt mức bình đẳng giới khá tốt. Số học sinh nữ ở cả hai cấp Tiểu học và Trung học chiếm gần một nửa, tỉ lệ hoàn thành Tiểu học đúng độ tuổi cao, đồng đều giữa các vùng miền... là những nét chính trong bản báo cáo phân tích tình hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010 của Unicef Việt Nam.

>>>GD mầm non phải phù hợp với độ tuổi và khu vực

Giáo dục Tiểu học

Về tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi bậc học Tiểu học, báo cáo của Unicef Việt Nam chỉ ra rằng: trong năm học 2006-2007, tỉ lệ nhập học đúng tuổi bậc Tiểu học là 96% trong đó tỉ lệ học sinh gái chiếm gần một nửa (49%).

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
Học sinh Tiểu học. Ảnh, gdtd.vn

Đồng thời, sự khác biệt giữa các vùng trong cả nước là khá nhỏ. Khu vực đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ cao nhất là 98% trong khi đó Khu vực Tây Nguyên có tỉ lệ thấp nhất là 94%

Bản báo cáo phân tích khá rõ về giới tính trong độ tuổi nhập học Tiểu học: năm học 2006-2007 tổng số có 94% trẻ 6 tuổi đi học lớp 1 trong đó số trẻ em trai cao hơn, chiếm 96% và trẻ em gái chiếm 92%.

Tỷ lệ trẻ em đi học ở vùng nông thôn (94%) cao hơn thành thị (92%) một chút. Theo điều tra MICS: không có sự khác biệt lớn giữa các hộ gia đình có mức sống khác nhau. Cuộc điều tra cũng đưa ra những bằng chứng cho thấy trình độ học vấn của người mẹ có ảnh hưởng tích cực tới việc trẻ được đi lớp 1, cho dù sự khác biệt không đáng kể. Khu vực đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ nhập học cao nhất với 99% còn hai khu vực miền núi phía Bắc thì có tỉ lệ thấp nhất với 87% và 89%.

Tỉ lệ hoàn thành Tiểu học đúng độ tuổi cao, đồng đều giữa các vùng miền

MICS 2006 ước tính phần lớn các em vào học lớp một (98%) sẽ học đến hết lớp năm và không có sự khác biệt lớn giữa khu vực nông thôn và thành thị. Tỉ lệ này bao gồm cả những em lưu ban ở bậc Tiểu học.

Hai tiêu quan trọng ở bậc học này được báo cáo đưa ra là: tỉ lệ hoàn thành Tiểu học và tỉ lệ hoàn thành Tiểu học đúng tuổi.

Tỉ lệ hoàn thành Tiểu học ở vùng Tây Bắc là thấp nhất, chỉ có 50%, sau đó đến Tây Nguyên chỉ với 65%. Sự chênh lệch lên lên tới 40 điểm phần trăm giữa khu vực có tỉ lệ cao nhất là Đồng bằng sông Hồng (90%) với khu vực có tỉ lệ thấp nhất là Tây Bắc (49%).

Tỉ lệ hoàn thành Tiểu học đúng tuổi theo vùng, năm 2006, thấp nhất là Đông Bắc 49,4%, cao nhất là đồng bằng Sông Hồng 90,2% và cao thứ hai là vùng Bắc Trung Bộ đạt 88,3%.Hầu hết trẻ hoàn thành tiểu học đều chuyển lên trung học cơ sở. Tỉ lệ chuyển tiếp là 91% và không có sự khác biệt lớn giữa các khu vực và giữa khu vực thành thị và nông thôn.

Giáo dục Trung học

Vì đã đạt được phổ cập Giáo dục Tiểu học nên Chính phủ đề ra mục tiêu đạt phổ cập giáo dục Trung học cơ sở (THCS) vào năm 2010. Báo cáo Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ năm 2008 cho thấy tỉ lệ nhập học đúng tuổi bậc THCS là 79% trong năm học 2006-2007, với 83% ở khu vực thành thị và 78% ở khu vực nông thôn.

Vùng Đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ cao nhất với 87% còn vùng Tây Bắc có tỉ lệ thấp nhất, chỉ với

61%. Báo cáo này cũng chỉ ra rằng tỉ lệ hoàn thành THCS trong năm 2004-2005 là 81%, và tăng lên một chút trong năm 2005-2006 (82%) nhưng lại giảm xuống còn 77% vào năm học 2006-2007. Trong năm học 2006-2007, vùng Đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ cao nhất (92%) còn vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì có tỉ lệ thấp nhất (59%)

Ngoài ra, báo cáo này cũng cho thấy số trẻ em dân tộc thiểu số theo học THCS tiếp tục tăng. Trong năm học 2005-2006, trẻ em dân tộc thiểu số chiếm 14,2% tổng số học sinh, và có tăng lên tới 15% trong năm học tiếp theo. Tỉ lệ này khác nhau đáng kể giữa các vùng miền trên cả nước: 45% ở khu vực Đông Bắc, 80% ở khu vực Tây Bắc và 30% ở khu vực Tây Nguyên. Trong cùng thời kỳ, tỉ trọng học sinh dân tộc thiểu số đi học THPT là 10%.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
Các học sinh đầu cấp của trường PTTH Gia Lộc, Hải Dương trong Lễ khai giảng năm học mới 2010-2010. Ảnh, gdtd.vn

Một số học sinh không theo học THCS song không hẳn là đã bỏ học – một số có thể còn đang phải lưu ban học lại các lớp tiểu học. Ước tính có tới 5% trẻ ở độ tuổi THCS vẫn đang học lại Tiểu học và 16% thì chưa bao giờ đi học THCS hoặc bỏ học.

MICS 2006 không cho thấy sự khác biệt về giới ở tỉ lệ đi học Trung học ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, tỉ lệ trẻ em gái thành thị đi học THCS (91%) cao hơn tỉ lệ trẻ em trai (86%). Ở bậc trung học, tỉ lệ này tăng lên theo mức sống của hộ gia đình và trình độ học vấn của người mẹ đối với các trẻ em trai và trẻ em gái. Tỉ lệ nhập học đúng tuổi cấp trung học trong các hộ nghèo nhất là 60% trong khi con số đó là 92% trong các hộ giàu nhất. Tỉ lệ này trong số trẻ có mẹ không đi học là 66%, còn đối với trẻ có mẹ có trình độ trung học phổ thông là 95%.

Cam kết phát triển và nâng cao chất lượng Giáo dục

Năm 1991, Quốc hội đã thông qua Luật Phổ cập Giáo dục Tiểu học, Năm 2005, Quốc hội phê duyệt Luật Giáo dục sửa đổi. Luật bao gồm các mục và điều khoản liên quan đến Giáo dục cho Mọi người...

Bản báo cáo ghi nhận những Cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với Giáo dục cũng được thể hiện thông qua việc ban hành Chiến lược Quốc gia về Giáo dục cho Mọi người vào đầu thập niên 90, đề ra một số mục tiêu quốc gia và chỉ tiêu cụ thể cho đến năm 2000. Đây là kết quả thực hiện cam kết quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã tham gia tại Hội nghị Giáo dục Thế giới Dakar năm 2000 nhằm xây dựng một kế hoạch dài hạn.

Kế hoạch Hành động Giáo dục cho Mọi người giai đoạn 2003-2015 (kế hoạch EFA) nêu cụ thể rằng “quyền được Giáo dục của trẻ em và người lớn là nhân tố then chốt trong Luật Giáo dục Việt Nam và Việt Nam dành nhiều nỗ lực và nguồn lực để thực hiện quyền này.” Bản Kế hoạch EFA bao gồm 4 hợp phần chính: chăm sóc trẻ thơ và giáo dục mầm non, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục THCS và giáo dục phi chính quy.

Kế hoạch EFA khẳng định ngân sách Nhà nước giữ vai trò là nguồn ngân sách chủ yếu thực hiện kế hoạch, và các khoản chi của Chính phủ cho Giáo dục dự kiến sẽ tăng từ 3,7% năm 2002 lên 4,2% GDP vào năm 2015. Kế hoạch dự kiến, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ tài chính 20% tỉ trọng cho Giáo dục.Đồng thời, việc hiện đại hóa quản lý Giáo dục có hiệu quả và việc thực hiện nghiêm túc Kế hoạch EFA sẽ giúp đạt được các mục tiêu trọng yếu vào năm 2015.

Trong Kế hoạch Chiến lược Phát triển Giáo dục 2001-2010, Chính phủ đã cố gắng nhiều hơn để xây dựng các chính sách và những can thiệp nhằm duy trì Phổ cập Giáo dục Tiểu học, đáp ứng mục tiêu Phổ cập Giáo dục THCS vào năm 2010 và đạt tỉ lệ nhập học Mầm non là 95%.

Nâng cao chất lượng Giáo dục là một trong những ưu tiên gần đây của ngành Giáo dục. Kết quả của nó là cải cách chương trình giảng dạy cấp Tiểu học và Trung học, và xây dựng các chuẩn quốc gia về học tập.

Đồng thời cho rằng: năm 2008, Bộ GD-ĐT phát động phong trào thi đua toàn quốc “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, với mục tiêu hình thành một môi trường giáo dục an toàn, thân thiện và hiệu quả, phù hợp với các điều kiện địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội, nhằm thúc đẩy tính năng động và sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội.

Phân tích nguyên nhân - kết quả

Theo luật, học sinh ở cấp Tiểu học ở các trường công lập không phải đóng học phí. Tuy nhiên, các gia đình có con em đi học vẫn phải chi trả các chi phí khác như đi lại, đồng phục, và sách vở học tập. Ở những vùng cao nghèo khó, trẻ em dân tộc, trẻ em con hộ nghèo nhập học tiểu học được được miễn giảm các khoản tiền chính theo quy định của Chương trình mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo và Chương trình 135 – II...

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
Học sinh trường PTTH Gia Lộc, Hải Dương. Ảnh, gdtd.vn

Nhiều trẻ em không được đến trường hay không thể hoàn thành cấp tiểu học đơn giản là vì khó khăn kinh tế, hoặc các em phải làm việc giúp gia đình. Làm thế nào để duy trì và tăng tỉ lệ nhập học của học sinh tiểu học và đảm bảo các em sẽ hoàn thành giáo dục tiểu học bắt buộc vẫn là một thách thức đáng kể.

Để hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, cần phải giải quyết một số khó khăn, trong đó có vấn đề liên quan đến các khoản phụ huynh phải chi trả trực tiếp. Những chi phí này cao hơn những khoản phải chi cho tiểu học và khiến cho việc đến trường của trẻ em ở vùng sâu vùng xa hoặc trẻ em trong những gia đình có thu nhập thấp gặp nhiều khó khăn. Thời gian học trên lớp còn hạn chế...

Những rào cản và thách thức

Thời gian học trên lớp của bậc tiểu học ở Việt Nam thấp nhất Khu vực châu Á

Theo Ngân hàng Thế giới, lượng thời gian dành cho giảng dạy tiểu học ở Việt Nam hàng năm chưa đến 700 giờ, đó là nhược điểm chính của hệ thống giáo dục. Khoảng 45% học sinh vẫn đang học nửa ngày (dưới 30 tiết học một tuần, tương đương khoảng 20 giờ một tuần). Vì vậy, Việt Nam bị xếp ở mức rất thấp so với các nước khác trong khu vực.

Cũng trong báo cáo đó, có mối liên hệ tích cực rõ ràng giữa các trường có tỷ lệ học sinh đi học cả ngày hoặc lẫn nửa ngày (học sinh học tối thiểu 30 tiết, hoặc 6 buổi, một tuần) và các trường có điểm thấp môn Toán và tiếng Việt. Thời lượng học trên lớp ít chủ yếu là do sự phân bổ giáo viên không hiệu quả và do khối lượng công việc của giáo viên ít (tỉ lệ sử dụng giáo viên thấp). Lý do khác là do thiếu nguồn lực nhà trường.

Bất bình đẳng giới tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số

Chính phủ đã nhận thấy một số trở ngại chính cho việc thực hiện giáo dục trong một số nhóm dân cư, đặc biệt là giữa các nhóm dân tộc thiểu số.

Báo cáo chỉ ra rằng: Có bằng chứng cho thấy khi hộ gia đình nông thôn nghèo phải lựa chọn cho con trai hay con gái đi học, nhìn chung con gái sẽ không được đi học. Việc này hiển nhiên dẫn đến tỉ lệ giáo dục trung học thấp và sự thiếu năng lực của phụ nữ. Đồng thời, nó cũng làm cho tỉ lệ lao động nữ trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp tăng cao, và vắng mặt phụ nữ trong các vị trí quản lý và lãnh đạo.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
Bản báo cáo đánh giá: Bộ GD-ĐT phát động phong trào thi đua toàn quốc “THTT, HSTC” với mục tiêu hình thành một môi trường giáo dục an toàn, thân thiện... phù hợp với các điều kiện địa phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Ảnh, gdtd.vn

Đồng thời khuyến nghị: Cần phải lồng ghép vấn đề giới vào các chính sách, chiến lược và các hoạt động thực tiễn, và sử dụng các số liệu phân tổ để giám sát vấn đề bình đẳng giới. Bình đẳng giới, đặc biệt là bình đẳng giới cho em gái dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan tâm đầy đủ.

Nghiên cứu của Bộ GD&ĐT, UNESCO và UNICEF chỉ ra một trong những nguyên nhân khiến trẻ em gái dân tộc thiểu số không học tiếp lên Trung học là vì các gia đình còn chưa đề cao giá trị giáo dục cho trẻ em gái mà thường chuyển cơ hội đó cho trẻ em trai.

Đồng bào dân tộc thiểu số xác định rào cản đối với quyền được Giáo dục của các em gái dân tộc thiểu số bao gồm: những khó khăn về tài chính và kinh tế của gia đình; trẻ em gái cần phải làm việc để giúp đỡ gia đình; phụ huynh và các em giái đánh giá sai về giá trị Giáo dục; chất lượng dạy và học ở trường thấp; và cơ cấu trường học không đầy đủ.

Thiếu giáo viên có trình độ

Việc thiếu hụt giáo viên cũng tác động đến những nỗ lực, nhất là nỗ lực đạt phổ cập Giáo dục THCS vào năm 2010. Giáo viên tiểu học có trình độ tương đối khá. Tuy nhiên, ở vùng sâu vùng xa, miền núi và dân tộc thiểu số, vẫn còn có một số lượng giáo viên tiểu học chưa đạt chuẩn, bản báo cáo nhận định.

Chính phủ đã có nhiều giải pháp hỗ trợ đạt chuẩn cho những giáo viên này thông qua nhiều Chương trình, dự án giáo dục, bao gồm: Dự án Phát triển giáo viên tiểu học và Dự án Giáo dục tiểu học cho Trẻ em thiệt thòi.

Giáo viên dạy các môn mỹ thuật, hát, nhạc và giáo dục thể chất, và các môn học mới như tin học và ngoại ngữ cũng đang thiếu. Cũng cần phải nghiên cứu kỹ hơn tính phù hợp của các giáo trình, các phương pháp dạy học và đánh giá. Hệ thống Giáo dục và đào tạo hiện nay không đáp ứng đủ yêu cầu cần thiết của lực lượng lao động, với thực tế là hầu hết các chương trình giảng dạy dường như “không gắn” với nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Học sinh không đủ tiêu chuẩn nhưng vẫn lên lớp

Kết quả phỏng vấn nội dung này cho thấy giáo viên bị áp lực trước việc học sinh chuyển cấp. Điều này dẫn đến việc một số giáo viên đã “gian lận” bằng cách cho các học sinh không đủ tiêu chuẩn lên lớp để báo cáo thành tích lên lớp của mình. Việc này rất phản tác dụng với chính những học sinh này vì các em không thể theo kịp trình độ của lớp trên, do đó sẽ càng làm tăng khả năng bỏ học của học sinh. Để xóa bỏ những tiêu cực này, Bộ GD&ĐT đã triển khai cuộc vận động “Hai Không: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” trong năm 2007.

Những thách thức trong ngành Giáo dục đến năm 2015

Yêu cầu xây dựng một lực lượng lao động ngày càng có khả năng vận dụng những công nghệ phức tạp, đáp ứng được các loại hình tổ chức kinh tế và khu vực công, theo kịp những tiến bộ toàn cầu.

Tạo bước chuyển biến quan trọng từ tập trung vào số lượng sang chất lượng Giáo dục đòi hỏi phải thực sự cải tiến nội dung Giáo dục, phương pháp sư phạm, kết quả học tập, hệ thống kiểm tra, thái độ dạy và học, và cả hệ thống quản lý Giáo dục.

Trẻ em thiệt thòi phải được đến trường và từ đó hòa nhập vào xã hội hiện đại sẽ cần phải có các hướng tiếp cận khác nhau và phức tạp hơn các hướng tiếp cận trước đây. Nhu cầu xuất hiện ngày càng rõ nét của chu trình Giáo dục cơ bản 9 năm liên tục cho mọi người.

Thay đổi về nhân khẩu học ảnh hưởng đến dân số trong độ tuổi đến trường và đặt ra những nhiệm vụ to lớn về tổ chức và xã hội trong việc phân bổ lại giáo viên và cơ sở hạ tầng. Động lực gắn liền với việc phân cấp quản lý và dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong mô hình.

Về trách nhiệm-quyền hạn-trách nhiệm giải trình ở tất cả các cấp quản lý Giáo dục và quyền hạn gia tăng cho chính quyền địa phương;

Một hướng tiếp cận mới trong việc phân bổ tài chính cho Giáo dục và dựa trên cơ sở năng lực và trao quyền tự chủ nhiều hơn cho nhà trường.

Từng bước đưa ra những thay đổi sâu sắc về cách thức quản lý hệ thống Giáo dục, đây là điều kiện cần thiết nhằm giải quyết những thách thức khác.

(Một số phụ đề do phóng viên đặt ra, xem chi tiết chương 4 bản báo cáo tại đây)

(Báo cáo tổng thể tại đây)

Giang Đông (lược trích)


Page 3

(GD&TĐ)-Thời điểm này, học sinh đang phải căng mình với những môn thi tốt nghiệp THPT. Tuy nhiên, với đặc thù từng môn học, không phải học sinh nào cũng biết cách học, cách ôn thi hiệu quả. Đồng hành cùng các thí sinh trong mùa thi tốt nghiệp THPT năm nay, Báo Giáo dục & Thời đại  Online sẽ giới thiệu kinh nghiệm học ôn từ những thầy cô giỏi, giầu kinh nghiệm của trường THPT chuyên ĐHSP Hà Nội.

Giời thiệu ôn tập môn Sinh hoc:

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
HS trong giờ thực hành môn sinh học (ảnh MH)

Môn sinh học vừa có đặc thù của một môn khoa học tự nhiên với những hệ thống lý thuyết tổng quát, với những công thức và hệ thống bài tập tương đối phức tạp vừa mang đặc thù của một môn khoa học thực nghiệm, có sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực nghiệm. Ở cấp độ phổ thông, đó là sự kết hợp giữa  hệ thống lý thuyết và hệ thống bài tập vận dụng tương ứng. Ở nước ta hiện nay, đặc biệt là ở cấp Phổ thông việc gắn giữa lý thuyết và thực nghiệm ít được chú trọng, rất nhiều bài thực hành bị bỏ qua do vậy đối với rất nhiều học sinh, việc học môn Sinh chỉ đơn thuần là học thuộc lòng một “mớ” lý thuyết nên dễ gây nhàm chán và khô khan, thậm chí là rất khó hiểu. Nội dung kiến thức trong kỳ thi tốt nghiệp và kỳ thi Đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ yếu nằm ở chương trình lớp 12, tuy nhiên để nắm vững và làm tốt được, đòi hỏi học sinh phải có được hệ thống kiến thức nền có ở các cấp học và lớp học trước đó. Để học tốt và làm bài tốt môn Sinh học trong kỳ thi Tốt nghiệp và kỳ thi Đại học sắp tới thiết nghĩ cũng không khó, chỉ có điều người học có tuân theo được những nguyên tắc của bí quyết ấy hay không? Những lời khuyên của tôi dành cho các em học sinh các lớp Chuyên Sinh THPT Chuyên Đại học Sư phạm sau đây hy vọng sẽ giúp ích cho các học sinh khác:


Có thái độ nghiêm túc trong học tập

Khi xác định học theo khối B hay đơn giản là thi tốt môn Sinh trong kỳ thi Tốt nghiệp, đơn thuần bạn đã có mục tiêu để theo đuổi. Khi đã có mục tiêu rồi, cần phải nghiêm túc xác định việc học là của bản thân mình, cho mình và kết quả cuối cùng do mình chịu trách nhiệm – không phải thầy cô, bố mẹ hay ai khác.

Không bỏ lỡ bất kỳ bài học nào

Mỗi nội dung kiến thức nằm trong một tổng thể, khi hiểu được vấn đề trước đó sẽ tạo tiền đề cho việc  hiểu những kiến thức sau. Ví dụ, nếu bạn không nắm được cấu tạo của gen thì bạn sẽ không hiểu được sự điều hòa biểu hiện gen, nếu bạn không nắm được cấu trúc NST bạn sẽ không hiểu được bản chất của đột biến cấu trúc và số lượng NST… Vì vậy, đừng bỏ bất kỳ bài học nào!

Có kế hoạch học sớm và học thường xuyên

Đừng đợi nước đến chân mới nhảy, khi đó thời gian sẽ tạo cho bạn một áp lực lớn, kết quả rất khó có thể đạt tối đa được. Hãy có kế hoạch  học sớm, thường xuyên. Hãy tiếp thu hết những kiến thức mà thầy cô giảng trên lớp, về nhà hệ thống hóa lại và mở rộng, đào sâu… hãy biết quý trọng thời gian trong các giờ học. Rèn luyện bài tập vận dụng ngay sau khi học lý thuyết, định hướng trước các câu hỏi trắc nghiệm có thể ra về vấn đề mà mình đang học. Khi học đến phần nào, hãy làm những bài tập vận dụng tương ứng, hãy suy nghĩ và dự đoán những câu trắc nghiệm có liên quan đến vấn đề đang học sẽ giúp đỡ các em rất nhiều.


Người có phương pháp học tốt là người vừa học vừa bảo vệ sức khỏe của mình!

Như đã nói ở trên, đừng “chơi dài” rồi khi không còn thời gian nữa thì “co giò mà chạy” học khuya đến 2h sáng, 3h sáng là một thói quen không tốt và ảnh hưởng đến sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe thần kinh! Hãy tạo thói quen ăn uống và chế độ nghỉ ngơi hợp lý, khoa học để giữ sức khỏe chuẩn bị cho kỳ thi.


Đừng bao giờ ngần ngại hỏi những người khác

Đừng ngại hỏi người khác, đặc biệt là thầy, cô và các bạn khác khi hỏi và được trả lời là một phương pháp để nhớ kiến thức tốt.

Thời gian học và thời gian biểu

Với những học sinh sử có thái độ học như đã kể trên, việc học tốt môn Sinh không có gì là khó khăn. Tuy nhiên, với cách học để thi thì việc định lượng khoảng thời gian trước khi thi là rất quan trọng. Hãy lập một kế hoạch học và thời gian biểu cho môn Sinh học cũng như tất cả các môn học khác. Tuần này, sẽ học hết những phần nào, hiểu bằng được các dạng bài tập nào, làm nhuần nhuyễn dạng bài tập nào… sẽ làm bạn bớt căng thẳng.

Phương pháp đọc và ghi nhớ

Trên lớp, hãy cố gắng ghi nhớ những gì thầy cô giảng. Nên sử dụng phương pháp sơ đồ hệ thống hóa kiến thức kiểu bản đồ tư duy. Nên sử dụng bút nhớ trong quá trình đọc. Tuy nhiên, đừng tô vàng cả cuốn sách, hãy tìm những từ khóa, đánh dấu và nhớ những từ khóa đó. Các em sẽ thấy việc nhớ kiến thức Sinh cũng chẳng phải là cực hình đâu!

Vận dụng bài tập để hiểu lý thuyết

Một bước cũng rất quan trọng là làm bài tập nhuần nhuyễn, đặc biệt là các bài tập vận dũng những kiến thức lý thuyết đã  học. Hệ thống lại các dạng bài tập để dễ ghi nhớ.

Với kỳ kiểm tra, đọc kỹ đề trước khi làm bài

Đây là điều muôn thủa giáo viên nhắc học sinh nhưng rất nhiều học sinh không để ý đến điều này, đặc biệt trong đề trắc nghiệm hãy chú ý những câu mang tính chất phủ định để trả lời câu hỏi một cách chính xác. Ví dụ: Điều khẳng định nào dưới đây là không chính xác về Chọn lọc tự nhiên?

Làm câu dễ trước, làm câu khó sau đừng để mất điểm một cách ngớ ngẩn, nên làm bài theo nhiều vòng.

Đối với bài thi trắc nghiệm, đừng làm tuần tự từ đầu đến hết điều này sẽ dẫn đến tình trạng mắc kẹt và đi vào bế tắc mặc dù nhiều câu khác có thể làm được. Theo kinh nghiệm của tôi, nên làm bài thi làm nhiều vòng, lượt thứ nhất có thể trả lời nhanh được 50% số câu hỏi tùy khả năng, lượt thứ 2 suy nghĩ để trả lời  những câu còn lại. Đừng mất quá nhiều thời gian cho một câu hỏi.

Như vậy, việc học môn Sinh học không hề khó, không hề là học thuộc lòng một mớ lý thuyết như nhiều học sinh suy nghĩ. Nếu vận dụng được các phương pháp tư duy, phương pháp  học có kế hoạch và khoa học, cũng như các thức làm bài thi phù hợp, để giành được điểm cao trong môn Sinh không khó!

Thạc sĩ Nguyễn Thành Công

( GV Chuyên Sinh, trường THPT Chuyên Đại học Sư phạm HN)

**********************

Học chắc, thi tốt.

Môn Sinh học lớp 12 tương đối dài, khó. Đề thi trắc nghiệm môn Sinh có cả phần lí thuyết và bài tập, học sinh khó học khó nhớ. Vài kinh nghiệm nhỏ sau sẽ giúp học sinh ôn tập và làm tốt bài thi môn này:

- Khi ôn tập:

Trước hết, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng và sách giáo khoa: Chuẩn kiến thức, kỹ năng và sách giáo khoa được xem như tài liệu chuẩn hướng dẫn học sinh triển khai đề cương ôn tập kiến thức, rèn luyện kỹ năng đúng với trọng tâm, không lan man, ôm đồm, quá tải. Điều quan trọng là học sinh cần hệ thống lại phần kiến thức đã học sao cho “ôn đến đâu chắc đến đó”.

Tiếp đó, giải các bài tập trong sách giáo khoa. Muốn giải nhanh các bài tập học sinh phải học kỹ lý thuyết. Bất kỳ môn nào, nếu lý thuyết được hiểu đến nơi đến chốn thì sẽ giải quyết bài tập nhanh hơn.

Ví dụ: Chương 2, Quy luật di truyền nên tách ra học và đặt câu hỏi “như thế nào” đối với từng cặp phép lai, phép lai 1 cặp tính trạng và phép lai 2 cặp tính trạng, quy luật di truyền nào bị chi phối. Nếu phân biệt được thì các em sẽ làm bài rất hiệu quả và nhanh.

Chú ý câu hỏi thêm có ký hiệu hình tam giác, các em nên  tự xây dựng cách trả lời tất cả câu hỏi đó bởi chúng rất có thể  sẽ là những câu hỏi trong đề thi trắc nghiệm. Cũng cần chú ý là khi tìm ra được đáp án trong thi trắc nghiệm thì nên đặt lại câu hỏi tại sao đáp án này đúng và có cách giải thích phù hợp theo lý thuyết đã học. Trong sách bài tập Sinh học có rất nhiều câu hỏi trắc nghiệm, các em nên trả lời hết tất cả các câu hỏi, nếu trả lời được hết coi như học sinh đã làm được bài thi đạt 80-90% .

Ngoài ra, các em nên tham khảo các đề thi trắc nghiệm môn Sinh học của Bộ GD-ĐT để xem khả năng của mình như thế nào. Trong quá trình ôn tập làm thử cũng nên canh thời gian làm bài theo quy định của đề thi. Cái khó thì phải suy luận để xem cái nào bất hợp lý trong đáp án. Có hai cách giải quyết câu hỏi trắc nghiệm: Một là nhận ra phương án đúng, hai là loại trừ phương án sai.

- Khi làm bài: Tuy học thuộc bài nhưng không ít học sinh trong các kỳ thi vẫn không đạt điểm cao, thậm chí bị trượt, chính là do không chú ý đến phương pháp làm bài. Vậy để có một phương pháp làm bài hiệu quả, cần chú ý  những yếu tố sau đây:

Trước hết, các em chuẩn bị sẵn sàng một barem đánh số từ 1 đến 50, đọc lướt nhanh chừng 1 phút mỗi câu, nhận ra phương án đúng thì ghi vào bên cạnh barem (a/b/c/d.), câu tính toán hoặc chưa quyết định chừa lại. Sau khi đã đến câu cuối (câu 50) thì rà soát lại các câu chưa kết luận cuối cùng. Tranh thủ thời gian giải  quyết các câu tính toán. Các câu này thường suy luận đưa ra một công thức dạng chuỗi phép tính liên hoàn, rồi dùng máy kiểm thử so sánh với phương án trên đề. Cái khó của toán sinh là từ ngữ cũng thay bằng số được. Ví dụ, “một nửa trong số ruồi đem lai tương đương (1/2 = 50%)”, “một nửa số cá thể đực trong đàn” có thể hiểu bằng 25% của tổng số cá thể trong đàn…

Thận trọng khi tính toán và đừng quên kiểm thử với đáp án, bởi thi trắc nghiệm chỉ chính xác đúng-sai mà thôi. Đừng để mất quá  nhiều thời gian dành cho các câu khó. Trung bình đề có 50 câu, 35 câu không tính toán cố gắng làm trọn trong 40 phút, 15 câu còn lại chiếm hết 40 phút là dạng đề khó, bảo đảm tính thi tuyển, chọi nhau.

Điều quyết định sự thành công là ôn tập có thứ tự, biết phân phối thời gian, làm thử nhiều đề, đọc nhiều sẽ giúp ta phát hiện nhanh, linh hoạt trong tính toán, thử sai, loại trừ… Đọc hiểu nhanh, suy nghĩ lôgic, bấm máy chính xác, tự tin cộng với ôn luyện sẽ là những yếu tố quan trọng để thi tốt.

Thi trắc nghiệm là một lợi thế của môn Sinh học nên không phải diễn giải nhưng học sinh phải học thuộc và nắm chắc, hiểu đúng từ luận của đề thì mới đủ tự tin, an tâm làm được bài. Hơn nữa, thi trắc nghiệm kiến thức dàn trải nên khi ôn tập, học sinh không nên bỏ phần nào trong sách giáo khoa, thậm chí không được bỏ 1 mục nhỏ nào.

Nguyễn Văn Phiên
(Nguyễn Văn Phiên, Trường THPT Lê Thành Phương, Tuy An, Phú Yên)


Page 4

(GD&TĐ) - Vừa qua, trên một số phương tiện truyền thông có đề cập đến vấn đề học sinh lười phát biểu. Thực tế qua nhiều năm giảng dạy, chúng tôi nhận thấy đây cũng là hiện trạng chung.

Nhận thấy đây là vấn đề cần được quan tâm, chia sẻ, cần được đông đảo bạn đọc góp ý để tìm ra những giải pháp, những hướng đi chung cho các nhà trường; từng bước khắc phục hiện trạng lười, ỷ lại, đợi chờ này của học sinh, đem lại những sắc thái mới, khả thi nhằm tác động tích cực cho hoạt động dạy học, chúng đổi xin được trao đổi một số quan điểm, nhìn nhận của người trong cuộc.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
HS ngại phát biểu khiến lớp học "trầm lắng" (ảnh chỉ có tính minh họa)

Nguyên nhân do đâu:

Thực hiện một cuộc khảo sát nho nhỏ ở 4 lớp học với hơn 100 học sinh tại ngôi trường mà tôi đang trực tiếp tham gia giảng dạy về hiện tượng học sinh ngày càng lười phát biểu, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến chia sẽ của những người trong cuộc về một thực trạng đáng lo ngại này, xin được trao đổi với bạn đọc về những điều “mắt thấy, tai nghe” để làm cơ sở cho các đồng nghiệp và những ai quan tâm tham khảo cùng tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng đáng buồn này.

1. Do một số câu hỏi nhàm chán; sự nhàm chán này thường rơi vào hai khả năng: hoặc là do câu hỏi quá dễ hoặclà do câu hỏi quá khó nên chưa thu hút được tính tò mò, sáng tạo của học sinh; vì vậy mỗi khi gặp những tình huống như thế thường học sinh mang tâm lí, phản ứng khác nhau. Với câu hỏi dễ quá, thường các em có tâm lí “coi thường” không thèm trả lời, ngược lại câu hỏi quá khó các em sẽ chờ đợi hay ỷ lại cho học sinh khá, giỏi.

 2. Do áp lực khối lượng kiến thức các môn học quá nhiều: Bên cạnh các môn học trước đây, hiện nay các em còn phải học thêm các môn học khác như: Quốc phòng, các môn học tự chọn, các phân môn lồng ghép, học thêm ở trường, ở nhà thầy cô, ở các lò luyện thi để đảm bảo kiến thức cho các kỳ thi và yêu cầu của thầy cô ngày càng cao, đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm nên thời gian đầu tư việc học ở nhà có phần hạn chế, từ thực tế đó rất nhiều học sinh các em thường chỉ soạn bài đối phó, chỉ sử dụng sách hướng dẫn, sách giải bài tập ghi chép bài soạn mà không chú ý đến việc ghi nhớ theo kiểu học vẹt, không thể khắc sâu kiến thức; cá biệt có những học sinh còn mượn vở soạn của bạn về chép cho nhanh để đối phó với thầy cô bộ môn… thế nên mới có chuyện đau lòng khi một thầy giáo trong chức trách của mình đã tiến hành kiểm tra bài cũ của một học sinh, mặc dù em này đã soạn bài khá đầy đủ từ bài học đầu tiên đến bài cuối cùng nhưng lại không thể nhớ nổi một vấn đề nào liên quan đến bài học. Đây thực sự là điều đáng báo động cho toàn ngành cần phải sớm vào cuộc để có những giải pháp tích cực, những biện pháp mạnh tay để góp phần chấn chỉnh nề nếp chất lượng dạy-học.

3. Một số thầy cô quá nghiêm khắc, chưa tạo ra được sự hưng phấn cho người học, thậm chí còn tạo ra tâm lí sợ hãi, căng thẳng mệt mỏi cho học sinh, thế nên không chỉ bản thân người dạy cảm thấy áp lực, ngược lại các em cũng cảm thấy áp lực từ sự “nghiêm khắc thái quá” và đây cũng là nguyên nhân khiến trò ngày càng lụi tàn, không hưng phấn với khả năng phát biểu bài. Một kinh nghiệm cho thấy, một giờ dạy thành công phải là giờ dạy nhận được nhiều ý kiến phát biểu của học sinh, nhất là trong giai đoạn mà toàn ngành đang thực hiện cuộc vân động “hai không”, “đoạn tuyệt với đọc chép” và chủ tương “lấy học sinh làm trung tâm”.

4. Một số học sinh chưa đủ tự tin về năng lựccủa bản thân nên ngại phát biểu, một số khác do lười biếng, không chuẩn bị bài trước khi đến lớp; một sốhọc sinh khác lại biết nhưng sợ sai, mà trả lời sai thì ngại , rầy rà với thầy cô, với bạn bè, nhất là bạn khác giới. Đây là vấn đề được rất nhiều đồng nghiệp đồng tình khi chúng tôi đem trao đổi. Thậm chí các em còn cho rằng, lên THPT bản thân các em lớn rồi nên phát biều nhiều sẽ ngượng.

5. Do các em càng học lên cao nên chỉ tập trung vào các môn khối, từ đó sao nhãng các “môn phụ”. Thực tế qua quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy, học sinh ngày nay rất thực dụng, chỉ quan tâm và đầu tư vào các môn học khối, các môn thi tốt nghiệp , thi Đại học, cao đẳng, nên những bộ môn các em không theo khối và đặc biệt các môn không liên quan đến thi cử như Giáo dục côn g dân, công nghệ, kỷ thuật… thường các em không đầu tư, cá biệt có những học sinh không học bài cũ, thầy cô chấm điểm thấp cũng không hề “nao núng”, thậm chí cũng không cần phát biểu để “gỡ” điểm kém, vô hình trung thầy cô đã hết “thuốc” điều trị rồi.

6. Một số giờ dạy, một số thầy cô chưa thu hút được học sinh: Những hạn chế về năng lực, phương pháp, nghệ thuật giảng dạy và cả độ nhiệt tình, “thiếu lửa” ở thầy cô giáo cũng đã góp phần “tiếp tay” cho sự lười biếng, ỷ lại. trong chờ của các cô tú cậu tú; và thực tế việc chưa khích lệ được tính tự giác xây dựng bài của học sinh do năng lực của nhà giáo đã tạo ra khoảng cách ngày càng lớn giữa thầy và trò, và khoảng cách này sẽ không thể rút ngắn khi chính thầy cô không biết khắc phục sữa chữa, luôn yêu cầu ở trò quá cao

7. Sự im lặng của nhiều học sinh trong lớp học kéo dài đã dần trở thành căn “bệnh” lây lan cả lớp. Thực tế khi đem câu chuyện về hiện tượng học sinh lười phát biểu, em Nguyễn Thị H học sinh lớp 12A2 trường THPT Hà Huy Tập-Cẩm Xuyên-Hà Tĩnh thẳng thắn chia sẻ: “Cả lớp đều ít và lười phát biểu thì tại sao mình lại phải phát biểu nên nhiều khi biết câu trả lời nên cũng ngại giơ tay; thậm chí, giơ tay xây dựng, phát biểu nhiều còn bị một số bạn bè cho rằng mình... chơi trội”

8. Do ấn tượng không tốt của một số thầy cô trong quan hệ thầy-trò ảnh hưởng đến sự hợp tác phát biểu: Thực tế, trong hàng triệu triệu thầy cô giáo trực tiếp tham gia giảng dạy không phải thầy cô nào cũng chiếm được cảm tình của các em như nhau, một số thầy cô vì những lý do khác nhau nên ít chiếm được cảm tình của người học và đương nhiên, hậu quả là học sinh ít hợp tác, lười phát biểu, mặt khác, việc phân chia thời khóa biểu cũng phải chú ý vì các em cho rằng, việc phân sắp xếp thời khóa biểu trong một buổi học nên tránh sự gặp gỡ giao thoa của các môn tự nhiên hoặc các môn xã hội, vì như thế sẽ tạo ra sự mệt mỏi nhàm chán căng thẳng cho người học. Ví dụ một buổi học 5 tiết thì không nên sắp xếp Toán, Toán, Sinh Học, Thể dục, Hóa Học.v.v.. hoặc Văn, Văn, Giáo dục công dân, Kỷ, Vật Lý…

9. Do học sinh chưa hiểu hết tác dụng của việc xây dựng phát biểu bài: Trong thực tế, cuộc đời của mỗi con người không ai không gắn liền với một thời tuổi trẻ cắp sách đến trường, việc học sinh chăm lo xây dựng phát biểu bài  (dù câu trả lời đúng hay sai) cũng đều có tác dụng to lớn trong việc ghi nhớ, khắc sâu kiến thức cho người học, việc các em tham gia xây dựng phát biểu bài sẽ vừa góp phần giúp cho hoạt động dạy-học tích cực hơn, lớp học vì thế ngày càng sôi nổi hơn, và đương nhiên là  thầy cô như được tiếp thêm sức mạnh để dạy hưng phấn hơn, có “lửa” hơn, mặt khác tạo điều kiện cho các em tính chủ động, sáng tạo; tư duy có điều kiện phát triển, từng bước tham gia rèn luyện kỷ năng sống, kỷ năng ứng xử, kỷ năng giao tiếp cho người học, góp phần đào tạo ra thế hệ người lao động có chất lượng, chủ động hơn trong cuộc sống sau này.

10. Do ảnh hưởng của các tác động cuộc sống: Một số học sinh bị ảnh hưởng bởi các loại phim ảnh xã hội, mạng internet, trò chơi điện tử, số ít khác do hoàn cảnh gia đình, cha mẹ thường cải cọ mất đoàn kết, cuộc sống gia đình các em không hạnh phúc, một số khác ít được cha mẹ quan tâm do phải lo toan cho cuộc sống cơm áo gạo tiền, số khác do tác động của tình cảm yêu đương nam nữ nên sao nhãng việc học, và vì vậy tất yếu các em sẽ lười học và hậu quả là lười phát biểu.

Hậu quả của việc lười xây dựng phát biểu bài:

Lười xây dựng phát biểu bài trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và đang để lại những hậu quả bất lợi cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi được các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và chính thầy cô là người phải trả lời câu hỏi do mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với công việc của mình, thế là phải “ngậm hòn bồ làm ngọt”. Đáng nói hơn nữa là trong một số giờ thao giảng nhân các ngày lễ lớn, thao giảng hay thi chọn giáo viên giỏi cấp trường, dù đã được thầy cô “phím” trước nhưng nhiều khi các em bất hợp tác, giờ dạy vì vậy không được đồng nghiệp đánh giá cao. Hiện trạng này nếu kéo dài ai dám đảm bảo chất lượng dạy học đạt yêu cầu như mong muốn nếu như không muốn nói là sẽ thụt lùi???

Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh tâm lí thụ động, chờ đợi co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của bài học, lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy sáng tạo của người học, vì vậy trí nhớ giảm sút học lực giảm, không phát huy được ưu điểm cũng như không khắc phụ được nhược điểm của mình; đồng thời việc rèn luyện kỷ năng, khả năng giao tiếp, kỷ năng ứng xử của các em với cộng đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm cho giáo dục sẽ đào tạo ra một lớp người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không giám khẳng định mình, co mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê phán , chống lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa với các thói hư tậ xấu là điều khó tránh khỏi.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ
Căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể, giáo viên có thể vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau, để thu hút sự tò mò, hiếu kỳ, kích thích sự hứng thú của người học (ảnh MH/Internet)

Hướng giải quyết:

Đây là bài toán không quá khó, nhưng theo chúng tôi cũng không thật sự dễ dàng nếu muốn giải quyết tận gốc rễ vấn đề này, muốn khắc phục được chúng ta càn phải nghiêm túc giải quyết từ cả hai phía người học và người dạy.

Phía người dạy, việc cần thiết là thầy cô phải tích cực trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cho chất lượng các bài giảng trước khi lên lớp, căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể, giáo viên có thể vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau, để thu hút sự tò mò, hiếu kỳ, kích thích sự hứng thú của người học. Hệ thống câu hỏi cũng phải hết sức chú ý không nên dễ quá hoặc khó quá, cung không nên quá ngắn hoặc quá dài, câu hơi cũng nên theo kiểu gợi mở, gắn liền với đời sống thực tiễn. Mặt khác, trước mỗi giờ dạy, bằng khả năng nghiệp vụ của mình, giáo viên có thể tạo ra một bầu không khí gần gũi, thân thiện, cởi mở cho người học để rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò như kể một câu chuyện vui có tính giáo dục, một tình huống pháp luật, một mẫu chuyện nho nhỏ về các nhà khoa học trong và noài nước, một vấn đề thời sự, chính trị, kinh tế mới mẻ của đất nước liên quan đến môn học nhằm giảm bớt căng thẳng áp lực cho các em, khuyến khích các em chăm học, chăm phát biểu, để “mối thầy cô thực sự là một tấm gương về tự học và sáng tạo”. Đồng thời, Bộ GD&ĐT, sở, ngành và các nhà trường THPT cũng cần xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng và xếp loại hạnh kiểm học sinh sau mối tuần, mỗi tháng, mỗi học kỳ và mỗi một năm học; có biện pháp nghiêm khắc với những học sinh lười biếng, nhác nhớn ỷ lại, tránh hiện trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”, không chạy với căn bệnh “thành tích”. Ở trường tôi, một số giáo viên chủ nhiệm cũng có cách làm khá hay (có thể không còn mới đói với một số trường)là giao cho mỗi tổ học sinh một cuốn sổ theo dõi các thành viên, trong đó mục xung phong xây dựng phát biểu bài mới là một trong nhưng tiêu chí đánh giá ý thức học tập của thành viên tổ mình; cuối mỗi tuần, mỗi tháng, trong giờ sinh hoạt lớp bao giờ cũng giành một ít thời gian cho công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh; ngoài những tiêu chí như nề nếp, chuyên cần, trực nhật vệ sinh, trang phục, làm bài tập ở nhà, chuẩn bị bài mớiv.v.. thì tham gia xây dựng phát biểu bài trở thành “phần cứng” để chấm điểm, đồng thời thầy cô cung phải có hình thức khen thưởng , chấm điểm kịp thời đối với những học sinh có câu trả lời hay; đối với những học sinh trả lời chưa tốt, thầy cô cũng phải khéo léo trong việc nhắc nhở, tránh tình trạng làm ảnh hưởng đến lòng tự trọng tự ái của học sinh; nhà trường cũng cần tổ chức các câu lạc bộ, các chuyên đề, các buổi thảo luận, ngoại khóa để tăng cường khả năng tranh luận, khả năng giao tiếp, ứng khẩu của các em.

Phía Nhà trường cũng đồng thời phải mua sắm thêm các thiết bị thí nghiệm thực hành, xây dựng thư viện đọc phục vụ cho nhu cầu học sinh học tập theo kiểu cộng đồng, và coi đây cũng là một tiêu chí thi đua của ngành, tránh tình trạng chỉ học lý thuyết chung chung làm cho việc học không gắn với hành, với khả năng ứng dụng vào đời sống thực tiên. Tránh hiện tượng nhàm chán trong các em.

Ban đại diện cha mẹ học sinh cũng phải giành thời gian quan tâm thăm lớp dự giờ, động viên thầy trò và nhà trường, quan tâm đến diến biến tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh để từ đó tìm ra các giải pháp động viên kịp thời, tránh tình trạng hiện nay là Hội chỉ mới hoạt động một chiều là nhận kế hoạch từ nhà trường, chỉ hoạt động định kỳ một năm hai lần vào dịp đầu năm và cuối môi năm học, còn mọi diễn biến khác thì hầu như phó mặc cho nhà trường và giáo viên chủ nhiệm.

Phía người học, cũng cần được cung cấp thông tin về vai trò tác dụng to lớn của việc tham gia xây dựng phát biểu bài, cần tự giác thực hiện nghĩa vụ học tập của mình, trước khi muốn thầy cô giảng dạy nhiệt tình, hết mình cho bài giảng, bởi có một thực tế hiện nay là, yêu cầu của xã hội, của học sinh, phụ huynh ngày càng cao, đò hỏi ngày càng lớn từu phía thầy cô, nhà trường, nhưng người học lại em thường bộ môn, số ít khác chỉ quan tâm đến quyền mà quên mất nghĩa vụ của mình.

Phan Anh Tú


Page 5

(TNO) Thanh Niên Online đem câu hỏi này đến với tiến sĩ tâm lý, chuyên gia ngôn ngữ đến từ Mỹ Elaine Schneider và nhận được câu trả lời: 7 tuổi đã là trễ.

* Thời điểm tốt nhất để bắt đầu dạy ngoại ngữ cho trẻ là lúc nào, thưa bà?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Càng sớm càng tốt. Não bộ của trẻ nhỏ giống như miếng bọt biển hút các thông tin xung quanh. Nếu chúng ta giới thiệu ngoại ngữ càng sớm, khả năng “hút” của miếng bọt biển này càng mạnh hơn. Ngoài ra, cấu tạo của các cơ quan nghe và phát âm ở trẻ nhỏ cũng giúp dễ bắt chước các cách phát âm khác nhau hơn. Nên bắt đầu giới thiệu ngoại ngữ cho trẻ từ trước 6 tuổi, đợi đến 7 tuổi đã là trễ, nhưng nhìn chung: càng sớm càng tốt.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ

Nên giới thiệu ngoại ngữ cho trẻ thông qua các hoạt động hằng ngày - Ảnh: Đoan Nhật

* Có một mốc rõ ràng nào về độ tuổi thích hợp nhất không, thưa bà?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Tôi sẽ không thể đưa ra một mốc xác định nào. Tuy nhiên, cách giới thiệu ngoại ngữ là một điều cực kỳ quan trọng khác. Chúng ta không thể bắt một đứa trẻ 3, 4 tuổi ngồi vào bàn học và dạy apple là quả táo, mom là mẹ một cách khô cứng. Trẻ con cần được học bằng tất cả các giác quan, được nghe, được nhìn, được nếm, được ngửi, được vừa học vừa chơi, được kết nối giữa cái đang học với vật thật… thì mới dễ nhớ.

Cách giới thiệu ngoại ngữ hiệu quả nhất cho trẻ là cách tự nhiên nhất, ví dụ bà mẹ dạy từ “cơm” cho trẻ trong giờ ăn cơm. Dạy ngoại ngữ quanh những chủ đề trẻ yêu thích cũng là điều rất quan trọng giúp trẻ tiếp thu nhanh.

Thực tập liên tục là một yếu tố cần thiết khác. Thử hỏi ngày nào tới giờ ăn, bà mẹ cũng nói “Con ăn cơm đi” thì làm sao trẻ không nhớ từ “cơm”? Tận dụng bài hát là một cách tuyệt vời khác.

Tiến sĩ Elaine Schneider đến Việt Nam trong chuyến hoạt động thiện nguyện (từ 30.10 đến 14.11) cùng với 31 thành viên khác, bao gồm 10 người gốc Việt, thuộc phái đoàn của tổ chức phi lợi nhuận Project Vietnam Foundation (đặt trụ sở tại California, Mỹ). Trong thời gian này, bà Schneider đã cùng với các chuyên gia y tế Mỹ khác tích cực trao đổi với các bác sĩ Việt Nam các kiến thức chuyên môn trong việc chăm sóc sức khỏe bệnh nhân, trong đó chủ yếu là trẻ em. Đặc biệt, Project Vietnam Foundation đã bắt đầu dự án Cấp cứu ban đầu tại trường học nhằm huấn luyện cho giáo viên các kỹ năng cơ bản về cấp cứu.

* Nhưng không phải cha mẹ nào cũng giỏi ngoại ngữ để dạy cho con, vậy thì nên đưa trẻ đến các trung tâm ngoại ngữ ở độ tuổi nào?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Tôi nghĩ nếu chỉ xét về khả năng học ngôn ngữ, ngay cả trẻ con 2 tuổi đã có thể đến các lớp dạy ngoại ngữ. Vấn đề là nếu cha mẹ không biết ngoại ngữ, ai sẽ thường xuyên thực tập với trẻ? Ngoài ra, phải đảm bảo rằng lớp học hấp dẫn, vui nhộn để trẻ con thích học chứ không bị cưỡng ép.

* Nhiều cặp vợ chồng hai quốc tịch dùng cả hai loại ngôn ngữ với trẻ từ lúc trẻ mới chào đời. Điều này có thể dẫn đến rối loạn ngôn ngữ không, thưa tiến sĩ?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Não bộ chúng ta được cấu tạo theo cách tất cả những người bình thường, dù là ở nước nào, đều có khả năng học được nhiều ngoại ngữ, kể cả học cùng lúc. Trẻ sơ sinh đã có khả năng đó. Đừng tưởng rằng trẻ sơ sinh không học ngôn ngữ, các em chưa nói, nhưng vẫn nghe, quan sát, tiếp nhận và nhớ ngôn ngữ. Các bà mẹ hãy nhớ lại xem, khi họ nói chuyện với đứa con bé xíu của mình, họ có sợ bé không hiểu không? Họ vẫn cứ nói, nói và nói, còn trẻ thì nghe, nghe và nghe, cho tới một ngày tự động bật ra nói. Hãy dạy ngoại ngữ cho trẻ y như cách dạy tiếng mẹ đẻ. Đó là cách hiệu quả nhất. Chẳng hạn trong giờ tắm, khi lau mặt cho trẻ, chúng ta có thể giới thiệu từ “mặt” bằng cả tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Cứ ngày nào cũng như thế, lặp đi lặp lại, trẻ sẽ tiếp nhận ngôn ngữ một cách rất đơn giản.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ

Tiến sĩ Elaine Schneider - Ảnh: Đoan Nhật

* Khi trẻ đã lớn lên một chút, làm sao để giúp trẻ phân biệt rạch ròi giữa hai ngôn ngữ?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Người mẹ luôn giao tiếp với trẻ bằng tiếng mẹ đẻ, người cha bằng ngoại ngữ hoặc ngược lại là một cách. Cũng có thể quy định một thời gian cụ thể nào đó, ví dụ giờ ăn, là lúc dùng ngoại ngữ.

* Việc học một lúc hai ngôn ngữ có thể dẫn đến những rối loạn nào, thưa tiến sĩ?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Cần phải phân biệt rạch ròi giữa rối loạn ngôn ngữ và sự nhầm lẫn trong sử dụng ngôn ngữ. Khi một đứa trẻ đang học hai ngôn ngữ, chúng có thể dùng lẫn lộn. Ví dụ khi đang nói tiếng Việt, trẻ có thể pha lẫn tiếng Anh. Đây là điều hoàn toàn bình thường, không có gì là rối loạn. Tất nhiên, cha mẹ cũng nên khuyến khích trẻ giảm dần sự pha trộn này, nhưng không có gì là báo động, cứ từ từ rồi mọi chuyện sẽ đâu lại vào đấy. Nhưng cha mẹ cũng phải theo dõi con kỹ, phải nhìn đến khả năng và tư chất của mỗi đứa trẻ. Có thể việc học ngoại ngữ làm trẻ thấy mình bị thúc ép quá, căng thẳng quá, từ đó có thể dẫn đến những rắc rối về cảm xúc. Nếu thấy trẻ thay đổi hành vi, trẻ căng thẳng chúng ta nên giảm bớt tốc độ hoặc ngưng hẳn cho đến khi trẻ cân bằng lại.

Có bao nhiêu có sở để giải thích nghĩa của từ

Trong giờ học tiếng Anh tại trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm (TP.HCM) - Ảnh: Đào Ngọc Thạch

* Hiện nay, nhiều phụ huynh cho con học tiếng Anh với người bản xứ với hy vọng trẻ sẽ có phát âm chuẩn. Theo bà, phụ huynh nên đợi cho đến lúc trẻ có thể đến lớp, hay tự họ giới thiệu ngoại ngữ từ lúc trẻ còn rất nhỏ?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Có hai điều kiện lý tưởng ở đây: Thứ nhất trẻ được giới thiệu ngoại ngữ càng sớm thì khả năng tiếp nhận càng cao. Thứ hai: được học với người bản xứ để có phát âm tốt. Theo tôi, trước khi trẻ có thể đến lớp, cha mẹ vẫn nên giới thiệu ngoại ngữ cho trẻ, cộng thêm với việc cho trẻ nghe/xem băng đĩa do người bản địa nói.

* Nhiều người nói rằng học ngoại ngữ sẽ giúp trẻ thông minh hơn, ý kiến tiến sĩ như thế nào?

- Tiến sĩ Elaine Schneider: Tôi được biết về những cuộc nghiên cứu cho thấy trẻ được học ngoại ngữ thường có khả năng tuy duy tốt hơn. Bản thân tôi cũng tin rằng ngoại ngữ hỗ trợ cho việc tư duy.

* Xin cảm ơn bà!

Kiều Oanh