Chiỉ tiêu đánh giá tốc độ đô thị hóa năm 2024

1. Đặt vấn đềĐô thị hóa diễn ra nhanh chóng tại Việt Nam trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa tại Việt Nam tương ứng với quá trình phát triển kinh tế hiện tại. Đứng trước những thách thức của quá trình đô thị hóa, vấn đề phát triển đô thị một cách bền vững đã được đặt ra nhiều năm trước. Các trào lưu, thuật ngữ mới xuất hiện như đô thị thích ứng biến đổi khí hậu, đô thị tăng trưởng xanh, đô thị phát thải Carbon thấp…; gần đây kéo theo cuộc cách mạng công nghê 4.0 là trào lưu xây dựng đô thị thông minh. Phát triển đô thị theo nghĩa rộng, vĩ mô hay tầm chiến lược có thể mang ý nghĩa toàn diện cho một đô thị thông minh bền vững, đô thị tăng trưởng xanh…; theo nghĩa hẹp cũng có thể chỉ giới hạn ở việc giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách của địa phương như các chương trình nâng cấp đô thị, giảm nghèo đô thị, ngập lụt, an toàn giao thông, bình đẳng giới…; theo giới hạn của ngành/lĩnh vực tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, các chỉ tiêu phân loại đô thị…

2. Một số phương pháp đánh giá trình độ phát triển đô thị

2.1. Phát triển đô thị bền vững

Đô thị phát triển bền vững cần đảm bảo sự phát triển hài hòa, cân bằng giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Để đánh giá tính phát triển bền vững của một đô thị, nhiều tổ chức quốc tế đã xây dựng ra các bộ tiêu chí khác nhau để so sánh mức độ phát triển theo mục tiêu đề ra. Bộ chỉ tiêu đô thị bền vững là công cụ hữu ích cho các nhà quy hoạch, nhà quản lý đô thị bền vững là công cụ hữu ích cho các nhà quy hoạch, nhà quản lý đô thị và nhà hoạch định chính sách đánh giá được mức độ tác động tới các khía cạnh khác nhau của các yếu tố kinh tế - xã hội và môi trường từ các hoạt động đô thị ví dụ như: Thiết kế đô thị, phát triển hạ tầng đô thị, chính sách, quản lý chất thải, ô nhiễm môi trường, tiếp cận tới dịch vụ đô thị…Từ các phân tích vấn đề và áp lực phát triển đặt ra cho phép đưa ra nhận định một khu vực, một đô thị được lợi gì hay những bất cập thông qua các chính sách được đề xuất một cách khoa học. Bộ chỉ tiêu đa dạng nhiều khía cạnh vấn đề cho phép giám sát tình hình phát triển của một đô thị theo hướng phát triển bền vững. Có nhiều bộ chỉ tiêu phát triển đô thị bền vững được xây dựng đa dạng bởi nhiều tổ chức trên thế giới, nhiều tựu chung đều dựa trên các khía cạnh của phát triển bền vững: Kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.

Một số bộ chỉ tiêu phát triển bền vững như:

  1. Bộ chỉ iêu phát triển bền vững của Ủy ban phát triển bền vững Liên hiệp quốc (UNCSD)

Trên cơ sở chương trình Nghị sự 21. UN đã đánh giá thành quả về môi trường của các nước thành viên và công bố khung cơ sở về chỉ tiêu phát triển bền vững vào năm 1996; tại thời điểm đó UNCSD đã đề xuất 124 chỉ tiêu về phát triển bền vững trong bốn lĩnh vực (kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế). Nhằm đẩy mạnh liên kết với các mục tiêu thiên niên kỷ mới về phát triển được quyết định vào năm 2000, UNCSD đã nghiên cứu lại các chỉ tiêu và công bố các chỉ tiêu mới về phát triển bền vững vào năm 2007, thay vào đó là xây dựng 96 chỉ tiêu, trong đó có 50 chỉ tiêu chính thuộc 44 chủ đề nhỏ và được phân loại trong 14 chủ đề lớn: i) Nghèo đói; ii) Thể chế; iii) Sức khỏe; iv) Giáo dục; v) Nhân khẩu học; vi) Hiểm họa thiên nhiên; vii) Không khí; viii) Đất đai; ix) Biển, đại dương, bờ biển; x) Nước ngọt; xi) Đa dạng sinh học; xii) Phát triển kinh tế; xiii) Hợp tác kinh tế toàn cầu; xiv) Hình thái sản xuất và tiêu thụ. Năm 2015, Hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp quốc đã đưa ra 17 mục tiêu mới với 169 mục tiêu cụ thể và 332 chỉ tiêu về phát triển bền vững: i) Xóa nghèo; ii) Xóa đói; iii) Cuộc sống khỏe mạnh; iv) Chất lượng giáo dục; v) Bình đẳng giới; vi) Nước sạch và vệ sinh; vii) Năng lượng sạch và bền vững; viii) Việc làm đàng hoàng và tăng trưởng kinh tế; ix) Công nghiệp, đổi mới và cơ sở hạ tầng; x) Giảm bất bình đẳng; xi) Đô thị và cộng đồng bền vững; xii) Tiêu dùng và sản xuất có trách nhiệm; xiii) Hành động ứng phó với BĐKH; xiv) Tài nguyên nước; xv) Tài nguyên đất; xvi) Hòa bình, công bằng và thể chế vững mạnh; xvii) Hợp tác để hiện thực hóa các mục tiêu.

Với sự nỗ lực của UNDP, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch Hành động Quốc gia (NAP) và phát triển các mục tiêu SDG của Việt Nam (VSDG) với sự tham vấn của các bộ, cơ quan cấp tỉnh, xã hội dân sự và các đối tác phát triển. các VSDG đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2016 và cũng có 17 mục tiêu chung nhưng chỉ có 115 mục tiêu cụ thể.

  1. Bộ chỉ tiêu phát triển đô thị bền vững Trung Quốc

Được thực hiện bởi Quỹ sáng kiến đô thị trung Quốc dựa trên báo cáo về phát triển bền vững của gần 200 thành phố tại Trung Quốc, được đưa ra bào năm 2011 và đã được áp dụng trên diện rộng tại các đô thị có quy mô dân số từ 200 nghìn đến 20 triệu người. Bộ chỉ tiêu tập trung nhiều vào yếu tố xã hội và môi trường. Bộ chỉ tiêu bao gồm 5 nhóm chính với 16 tiêu chuẩn cụ thể: i) Nhu cầu thiết yếu (tỷ lệ tiếp cận cấp nước, không gian sống, bác sĩ, tỷ lệ giáo viên – học sinh); ii) Hiệu quả năng lượng (tiêu thụ điện, tiêu thụ nước sinh hoạt, tái chế chất thải công nghiệp, công nghiệp nặng); iii) Môi trường sạch (Mật độ SOx, NOx, PM10; tỷ lệ xử lý nước thải; tỷ lệ thu gom chất thải); iv) Môi trường xây dựng (Mật độ xây dựng, giao thông công cộng); v) Cam kết phát triển bền vững (số lượng chuyên gia môi trường, quỹ môi trường).

  1. Bộ chỉ tiêu xây dựng thành phố

Được phát triển bởi Waternet Amsterdam và Viện nghiên cứu tuần hoàn nước KWR đưa ra công cụ kiểm tra nhanh và đánh giá tính bền vững quản lý nước trong đô thị. Công cụ gồm 24 chỉ tiêu, chia thành 8 hạng mục chính: i) An toàn nước theo dấu chân nước theo cách tiếp cận phát triển bởi Hoekstra & Chapagain; ii) Chất lượng nước, bao gồm nước mặt và nước dưới đất; iii) Nước uống; iv) Vệ sinh môi trường; v) Hạ tầng kỹ thuật; vi) Sức sống chịu của khí hậu; vii) Đa dạng sinh học và sức hút; viii) Chính sách. Công cụ này đã được áp dụng cho ba thành phố ở Hà Lan: Rotterdam, Massricht và Venlo.

  1. Khung đánh giá chuyển hóa trong đô thị của Cơ quan môi trường Châu Âu

Cơ quan môi trường Châu Âu đưa ra hệ thống các chỉ tiêu đánh giá theo cách tiếp cận đánh giá tính phát triển bền vững của một đô thị theo xu hướng chuyển hóa chứ không tập trung vào tình hình hiện tại. Khung đánh giá gồm 15 chỉ tiêu: i) Phát thải CO2 bình quân đầu người từ tiêu thụ năng lượng; ii) Hiệu quả năng lượng trong giao thông; iii) Hiệu quả sử dụng năng lượng sinh hoạt; iv) Hiệu quả sử dụng nước đô thị; v) Cường độ phát thải; vi) Tái chế; vii) Chuyển đổi đất đô thị; viii) Tiếp cận không gian xanh; ix) Mật độ NO2; x) Mật độ PM10; xi) Tỷ lệ thất nghiệp; xii) Hiệu quả sử dụng đất; xiii) Chiều dài mạng lưới giao thông công cộng; xiv) Đăng ký ô tô; xv) GDP bình quân đầu người.

  1. Các bộ chỉ tiêu khác: còn rất nhiều bộ chỉ tiêu phát triển bền vững được nghiên cứu bởi nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới như: Khung tham khảo cho thành phố bền vững; Hệ thống đánh giá cộng đồng STAR; Hệ sinh thái đô thị Châu Âu (Ý); Cộng đồng BREEAM; Sáng kiến thành phố ECO2; Hướng dẫn chỉ số đô thị (Chương trình định cư con người UN)…

2.2. Đô thị xanh

Khái niệm “Đô thị xanh” hay “Phát triển xanh” không phải là mới. Thực chất, đô thị xanh hay phát triển xanh là khái niệm mở rộng của phát triển bền vững nhưng được hiểu trong khuôn khổ các hành động của một đô thị và những hành động này đóng góp cho đô thị hoặc vùng đô thị đạt được các mục tiêu phát triển xanh và bền vững như thế nào. Phát triển xanh là công tác cải thiện và quản lý chất lượng tổng thể các yếu tố môi trường tự nhiên (đất, nước, không khí…) trong không gian đô thị và mối tương quan đối với các khu vực lân cận và thậm chí là phạm vi cấp vùng; và những lợi ích cho môi trường tự nhiên. Các thành phố xanh sử dụng năng lượng hiệu quả và giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng không có khả năng tái tạo; khuyến khích quản lý và giảm thiểu chất thải phát sinh cần xử lý; phát triển cơ sở hạ tầng xanh và có tính chống chịu tốt; quản lý giao thông hướng tới phát thải carbon thấp; và chu trình tuần hoàn của yếu tố nước; cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Một số nghiên cứu bộ chỉ tiêu đô thị xanh như:

  1. Giải thưởng thủ đô xanh Châu Âu

Giải thưởng được trao hàng năm cho một thành phố của châu Âu được đánh giá đạt được những kết quả thực tiễn nổi bật về môi trường có quy mô dân số tối thiểu 100 nghìn dân. Các thành phố tham gia được đánh giá theo bộ 12 chỉ tiêu liên quan đến tính bền vững môi trường đô thị như: Quản lý nước và chất thải, sử dụng đất, chất lượng không khí, thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Công cụ này ít tập trung vào yếu tố kinh tế mà chủ yếu nhấn mạnh các chiến lược dài hạn cho tương lai của thành phố và các chiến lược trọng yếu với sự tham gia của các cơ quan và các bên liên quan. Giải thưởng này bắt đầu được thực hiện từ năm 2008 và trao giải thưởng lần đầu năm 2010; giai đoạn đánh giá đến 2021 được đánh giá theo 12 chỉ tiêu; i) Giảm thiểu BĐKH; ii) Thích ứng BĐKH; iii) Giao thông đô thị bền vững; iv) Sử dụng đất bền vững; v) Tự nhiên và đa dạng sinh học; vi) Chất lượng môi trường; vii) Tiếng ồn; viii) Chất thải; ix) Nước; x) Tăng trưởng xanh và đổi mới kinh tế; xi) Hiệu quả năng lượng; xii) Chính sách.

  1. Bộ chỉ tiêu thành phố xanh Châu Âu

Bộ chỉ tiêu này đánh giá tính bền vững về môi trường của khoảng 30 thành phố ở Châu Âu với quy mô dân số từ 1-3 triệu dân với 30 chỉ tiêu đánh giá so sánh mức độ đạt được giữa các đô thị. Bộ chỉ tiêu bao hàm các lĩnh vực chủ yếu liên quan đến môi trường bền vững, đặc biệt tập trung vào yếu tố năng lượng và phát thải CO2 chứ không tập trung vào yếu tố xã hội như sức khỏe, hạnh phúc hay chất lượng cuộc sống. Chỉ tiêu đánh giá được chia nhóm theo cả định tính và định lượng căn cứ theo mục tiêu và cam kết phát triển bền vững của các đô thị tham gia đánh giá theo 8 nhóm chính; i) CO2, ii) Năng lượng; iii) Công trình; iv) Giao thông; v) Nước; vi) Sử dụng đất và chất thải; vii) Chất lượng không khí; viii) Chính sách môi trường.

Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 phê duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh; Quyết định 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020; Quyết định 84/QĐ-TTg ngày 19/1/2018 phê duyệt kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030; Bộ Xây dựng ban hành Thông tư 01/2018/TT-BXD ngày 5/1/2018 quy định về chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh; theo đó quy định 24 chỉ tiêu được chia thành 4 nhóm: i) Nhóm chỉ tiêu kinh tế gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá hiệu quả tăng trưởng kinh tế về sử dụng năng lượng và tài nguyên thiên nhiên trong đầu tư xây dựng và phát triển đô thị; ii) Nhóm chỉ tiêu môi trường gồm 10 chỉ tiêu nhằm đánh giá về chất lượng môi trường và cảnh quan đô thị, mức độ áp dụng các giải pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường và giảm thiểu ô nhiễm, xả thải, phát thải khí nhà kính trong phát triển đô thị; iii) Nhóm chỉ tiêu xã hội gồm 4 chỉ tiêu nhằm đánh giá về hiệu quả nâng cao chất lượng và điều kiện sống của người dân đô thị; iv) Nhóm chỉ tiêu thể chế gồm 5 chỉ tiêu nhằm đánh giá về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền đô thị đối với công tác xây dựng đô thị tăng trưởng xanh.

Trong lĩnh vực quy hoạch đô thị, dự án Hỗ trợ Kỹ thuật “Quy hoạch đô thị xanh Việt Nam” do KOICA tài trợ đã nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước về chỉ tiêu và yếu tố quy hoạch đô thị xanh dựa trên cá mục tiêu chính sách và chiến lược triển khai của “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh Việt Nam” và “Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh” đã xem xét 206 chỉ tiêu cụ thể từ các nghiên cứu; trên cơ sở đó đã đề xuất Bộ chỉ tiêu quy hoạch đô thị xanh bao gồm 35 chỉ tiêu cụ thể thuộc 14 yếu tố trong 3 phân nhóm chính; cụ thể:

- Nhóm môi trường xanh gồm 8 yếu tố: i) cấu trúc không gian đô thị; ii) Sử dụng đất; iii) Công trình xanh; iv) Giao thông xanh; v) Sinh thái và môi trường xanh; vi) Năng lượng mới, tái tạo; vii) Rác thải; viii) Tuần hoàn tài nguyên.

- Nhóm kinh tế xanh gồm 3 yếu tố: i) Công nghiệp, công nghệ xanh; ii) Tiêu dùng xanh; iii) Hợp tác xanh.

- Nhóm xã hội xanh gồm 3 yếu tố: i) Quản trị xanh; ii) Đời sống xanh; iii) An toàn xanh.

2.3. Đô thị thích ứng với BĐKH

Thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam được tiếp cận theo các quan điểm đã được thể hiện rõ trong chiến lược quốc gia về BĐKH, cụ thể:

- Tiến hành đồng thời các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính để ứng phó hiệu quả với BĐKH, trong đó ở thời kỳ đầu thích ứng là trọng tâm.

- Các giải pháp ứng phó với BĐKH phải có tính hệ thống đồng bộ, liên ngành, liên vùng, trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn và các quy định quốc tế; dựa trên cơ sở khoa học kết hợp với kinh nghiệm truyền thống và kiến thức bản địa; tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội và các yếu tố rủi ro, bất định của BĐKH. Thích ứng là một khái niệm rất rộng và khi áp dụng vào lĩnh vực BĐKH nó được dùng trong rất nhiều trường hợp. Ở Việt Nam, sự thích ứng với khí hậu là một quá trình qua đó con người làm giảm những tác động bất lợi của khí hậu đến sức khỏe và đời sống và sử dụng những cơ hội thuận lợi mà môi trường khí hậu mang lại.

Khái niệm chống chịu có thể hiểu là năng lực của thích ứng. Một đô thị muốn thích ứng tốt với BĐKH cần xây dựng khả năng chống chịu của mình thật tốt.

Quan điểm phổ biến về khả năng chống chịu của đô thị là tính chống chọi, thích ứng của một đô thị, là năng lực vận hành của đô thị sao cho người dân sống và làm việc trong đô thị (đặc biệt là những người nghèo và dễ bị tổn thương) sống và phát triển được, mặc những áp lực và cú sốc mà họ gặp phải. Chống chịu sẽ đem đến cho đô thị 3 lợi ích lớn gồm: Cứu mạng sống, tránh thiệt hại; mở ra tiềm năng kinh tế; tạo ra đồng lợi ích phát triển.

Bộ Xây dựng (Cục phát triển đô thị) phối hợp với Quỹ Rockefeller, Quỹ Châu Á, Viện Nghiên cứu chuyển đổi môi trường và xã hội thực hiện Dự án xây dựng bộ chỉ số đô thị chống chịu với BĐKH tại Việt Nam (Dự án VN-CRI). Theo đề xuất của dự án, bộ chỉ số đô thị chống chịu với BĐKH với 3 mức độ đánh giá sử dụng 4 thước đo về khả năng chống chịu của đô thị, cụ thể hóa thông qua 12 mục tiêu và 52 chỉ số; cụ thể: i) Nhóm sức khỏe và phúc lợi có 3 mục tiêu: Giảm thiểu nguy cơ tổn thương; đa dạng môi trường sống và lao động; đảm bảo an toàn sức khỏe và sinh mạng; được đánh giá qua 14 chỉ số; ii) Nhóm kinh tế và xã hội có 3 mục tiêu: hỗ trợ lẫn nhau và tính tập thể; an ninh và ổn định xã hội; quản lý tài chính và ổn định kinh tế; được đánh giá qua 13 chỉ số; iii) Nhóm môi trường và hạ tầng có 3 mục tiêu: Giảm rủi ro vật thể; đảm bảo dịch vụ trọng yếu liên tục; giao thông và thông tin liên lạc tin cậy; được đánh giá qua 13 chỉ số; iv) Nhóm chiến lược và lãnh đạo có 3 mục tiêu: Quản lý và lãnh đạo hiệu quả; trao quyền cho các bên liên quan; quy hoạch phát triển tích hợp; được đánh giá qua 12 chỉ số.

2.4. Đô thị thông minh

Kinh nghiệm phát triển đô thị thông minh trên thế giới cho thấy không có một định nghĩa chung “thông minh” cho mọi đô thị. Khái niệm Đô thị thông minh bền vững của ITU (Liên minh Viễn thông Quốc tế) và UNECE (UB kinh tế Châu Âu của LHQ) – 4/2016 được cho là toàn diện nhất. Theo đó, đô thị thông minh bền vững là đô thị đổi mới, được ứng dụng ICT và các phương tiện khác để cải thiện chất lượng cuộc sống, hiệu quả quản lý vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh tranh của đô thị, trong khi vẫn đảm bảo đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ hiện đại và tương lai về mọi khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội.

Như vậy, Đô thị thông minh có thể hiểu là đô thị có không gian bền vững, ứng dụng công nghệ hiện đại để kết nối mạng tiên tiến nhằm khai thác tiềm năng, giảm ô nhiễm môi trường, cải thiện đời sống người dân và quản lý đô thị tổng hợp để phát triển bền vững. Trên thế giới người ta đánh giá đô thị thông minh dựa vào 6 tiêu chí: Kinh tế thông minh (phát triển có sức cạnh tranh); vận động thông minh (giao thông – hạ tầng kỹ thuật); cư dân thông minh (nhân lực, năng lực); môi trường thông minh (tài nguyên tự nhiên); quản lý đô thị thông minh; và chất lượng cuộc sống tốt (thông minh).

Ở Việt Nam, phát triển “đô thị thông minh” ở nước ta đang ở trong các giai đoạn ban đầu. một số đô thị ở Việt nam cũng đã quan tâm bắt tay vào việc xây dựng và phê duyệt các đề án, định hướng phát triển đô thị thông minh, điển hình như TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Hải Phòng…Trong quá trình đó, các công ty viễn thông, công nghệ thông tin đóng vai trò khá tích cực và quan trọng trong việc giới thiệu các giải pháp xây dựng đô thị thông minh cho chính quyền. Thời gian qua ước tính có khoảng 30 tỉnh, thành phố đã tổ chức hội thảo và ký kết thỏa thuận hợp tác (MOU) với các doanh nghiệp viễn thông – CNTT trong và ngoài nước để xây dựng các dự án thí điểm về phát triển đô thị thông minh.

Tháng 12/2016, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tăng cường ứng dụng CNTT, xây dựng Chính phủ điệ tử theo nghị quyết 36a ngày 14/10/2015 của Thủ tướng Chín phủ về Chính phủ điện tử và Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã được ban hành kèm theo Quyết định 1819 ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ TT&TT khẩn trương chủ trì, phối hợp Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xây dựng, ban hành tiêu chí đánh giá, công nhận đô thị thông minh và hướng dẫn các địa phương thực hiện.

Ngày 1/8/2018 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018-2025 định hướng đến năm 2030 tại Quyết định 950/QĐ-TTg, trong đó Quy hoạch đô thị thông minh là nội dung cơ bản được ưu tiên trong giai đoạn 2018-2025 và mục tiêu đến năm 2020 phải hướng dẫn và triển khai khi áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch đô thị.

Tuy nhiên, lựa chọn giải pháp, định hướng phát triển đô thị thông minh “đúng và trúng” cho mỗi đô thị và tích hợp vào trong quy hoạch đô thị để xây dựng đô thị thông minh có hiệu quả còn là việc cần làm rõ và hướng dẫn cụ thể.

2.5. Chỉ tiêu phát triển đô thị

- Theo quyết định 1659/QĐ_TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 7/11/2012 phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012-2020 đã đặt ra mục tiêu tăng tỷ lệ đô thị hóa toàn quốc đạt 45% vào năm 2020 với dự kiến hơn 900 đô thị trên toàn quốc. Đặc biệt nhấn mạnh vào chất lượng đô thị với 7 nhóm tiêu chuẩn; i) Nhà ở (diện tích sàn nhà ở bình quân, tỷ lệ nhà kiên cố); ii) Giao thông (tỷ lệ đất giao thông so với diện tích đất xây dựng đô thị, tỷ lệ vận tải hành khách công cộng); iii) Cấp nước (tỷ lệ cấp nước sạch, tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt); iv) Thoát nước (Tỷ lệ bao phủ của hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, tỷ lệ thất thoát nước); v) Chất thải rắn (thu gom xử lý CTR sinh hoạt, công nghiệp, y tế); vi) Chiếu sáng (đường phố chính, ngõ hẻm chiếu sáng); vii) Cây xanh (bình quân đất cây xanh đô thị, cây xanh công cộng khu vực nội thị).

- Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ quốc hội về phân loại đô thị; đánh giá phân loại đô thị theo 5 tiêu chí và cụ thể hóa bằng 59 tiêu chuẩn:

  1. Tiêu chí 1: Vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

+ Tiêu chuẩn vị trí, chức năng, vai trò

+ Nhóm tiêu chuẩn cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội gòm 6 tiêu chuẩn.

ii) Tiêu chí 2: Quy mô dân số gồm 2 tiêu chuẩn (dân số toàn đô thị, dân số nội thị)

iii) Tiêu chí 3: Mật độ dân số gồm 2 tiêu chuẩn (mật độ dân số toàn đô thị, mật độ dân số nội thị trên diện tích đất xây dựng đô thị)

iv) Tiêu chí 4: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp gồm 2 tiêu chuẩn (tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị, khu vực nội thị).

  1. Tiêu chí 5: Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị.

+ Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng xã hội gồm 10 tiêu chuẩn (nhà ở, công trình công cộng).

+ Nhóm các tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật gồm 12 tiêu chuẩn (giao thông, cấp điện và chiếu sáng công cộng, cấp nước, viễn thông)

+ Nhóm các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường gồm 11 tiêu chuẩn (thoát nước mưa và chống ngập úng; thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà tang lễ, cây xanh đô thị)

+ Nhóm các tiêu chuẩn về kiến trúc, cảnh quan đô thị gồm 5 tiêu chuẩn

+ Nhóm các tiêu chuẩn về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan khu vực ngoại thành, ngoại thị gồm 8 tiêu chuẩn.

3. Chương trình phát triển đô thị

3.1. Phương pháp tiếp cận quốc tế

Một trong những phương pháp tiếp cận của nước ngoài mà Chương trình phát triển đô thị có thể tham khảo, đó là Chiến lược phát triển thành phố (CDS). Theo Hướng dẫn CDS ở Trung Quốc: CDS là một quá trình xây dựng một tầm nhìn dài hạn của thành phố trong tương lai; từ đó đưa ra được một kế hoạch hành động ngắn hạn. Tiêu điểm của một CDS là tăng cường tính cạnh tranh kinh tế, bao gồm cả các vấn đề giảm nghèo, môi trường, cấu trúc đô thị, hạ tầng cơ sở và tài chính. Đây là một quá trình có sự tham gia của nhiều bên liên quan chủ yếu của xã hội. Sản phẩm của CDS là một chiến lược phát triển được xây dựng phù hợp với quá trình thực hiện và những thay đổi mang tính cạnh tranh của thành phố. Theo Liên minh các Thành phố, CDS có 5 đặc điểm sau: i) Quá trình lập một CDS, sản phẩm và thực hiện CDS là do chính quyền thành phố đó quyết định; ii) CDS sẽ đưa ra một tầm nhìn dài hạn nhưng tập trung vào một kế hoạch ngắn hạn; iii) CDS có sự tham gia một cách đáng kể của các bên liên quan trong quá trình, thể giện cho sự cam kết của họ cho việc thực hiện CDS; iv) Sản phẩm CDS mang tính chiến lược và đề cập đến nhiều khía cạnh; không bị chi phối bởi một vấn đề duy nhất hoặc một tài liệu cố định như một kế hoạch tổng thể; v) CDS mang đến một cách nghĩ mới về sự phát triển của thành phố và tính bền vững của sự phát triển.

Theo Liên minh các thành phố, CDS có 5 chủ đề cơ bản: i) Việc làm: Như là tạo công ăn việc làm, phát triển kinh doanh, tạo nguồn thu nhập; ii) Tính bền vững về môi trường và hiệu quả năng lượng của thành phố và chất lượng phân phối các dịch vụ; iii) Cấu trúc không gian và hạ tầng cơ sở; iv) Các nguồn lực tài chính; v) Chính thể quản lý đô thị.

Tại Việt Nam, CDS đã được áp dụng cụ thể tại một số đô thị trong đó có TP Cần Thơ và TP Hạ Long. Báo cáo kinh nghiệm của UBND TP Cần Thơ cho rằng CDS đã cung cấp cho chính quyền thành phố những cơ sở khoa học để lập nên những chiến lược phát triển theo những kế hoạch ngắn hạn (2-3 năm), trung hạn (5 năm) và dài hạn (10 năm). Các kế hoạch này được coi là “thực đơn” gồm nhiều sự lựa chọn để khuyến khích đầu tư trong TP. Trước hết, đó là sự rà soát lại các quy hoạch kế hoạch hiện hành để thiết lập cơ chế và khởi động chương trình. UBND TP Cần Thơ đã tổ chức nhiều buổi thảo luận, lấy ý kiến của người dân về tương lai TP. Sau gần 1 năm thực hiện CDS, chính quyền các cấp ở Cần Thơ đã có nwhnxg bước thay đổi đáng kể. CDS đã tạo ra một tầm nhìn cho TP, sở hữu bởi TP, xác định các hành động ưu tiên, xác định được vai trò của các bên liên quan trong việc tập trung xóa đói giảm nghèo và cải thiện môi trường, kêu gọi đầu tư…

Từ danh mục các dự án ưu tiên phát triển, chính quyền thành phố có thể kêu gọi và đề ra chính sách khuyến khích đầu tư trong thành phố. Người dân trong thành phố thấy được tiềm năng khu vực mình sinh sống, hiểu được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc đóng góp vào xây dựng tương lai của thành phố. Như vậy, một kết quả nữa của dự án CDS là kêu gọi sự tham gia từ phía cộng đồng và các bên liên quan trong việc hoạch định các dự án chiến lược.

3.2. Phương pháp tiếp cận theo quy định tại Việt Nam

Chương trình phát triển đô thị tại Việt Nam hiện nay thực hiện theo quy định tại Nghị định số 11/2013/NĐ-CP ngày 14/1/2013 của Chính phủ về quản lý đầu tư phát triển đô thị và Thông tư số 12/2014/TT-BXD ngày 25/8/2014 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn lập, thẩm định và phê duyệt Chương trình phát triển đô thị; theo đó có Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và Chương trình phát triển từng đô thị trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Theo quy định tại Thông tư 12/2014/TT-BXD, Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh là cơ sở lập đề án và đánh giá nâng loại đô thị, còn chương trình phát triển từng đô thị là cơ sở lập hồ sơ đề xuất khu vực phát triển đô thị, lập kế hoạch thực hiện khu vực phát triển đô thị và xây dựng kế hoạch huy động vốn đầu tư phát triển đô thị.

Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh được lập cho tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương, nội dung bao gồm:

- Xây dựng danh mục, lộ trình nâng loại đô thị toàn tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ cho từng giai đoạn 5 năm, phù hợp Chương trình phát triển đô thị Quốc gia và quy hoạch xây dựng vùng tỉnh. Xác định chương trình ưu tiên giai đoạn đầu (5 năm và hàng năm).

- Cụ thể hóa các chỉ tiêu phát triển đô thị cần đạt được giai đoạn đầu (5 năm và hàng năm) phù hợp quy hoạch xây dựng vùng tỉnh hoặc quy hoạch chung thành phố trực thuộc TƯ.

- Xây dựng danh mục ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng khung và công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật kết nối hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh.

- Xây dựng các giải pháp về cơ chế, chính sách huy động nguồn vốn, phân bổ nguồn lực, sự tham gia phối hợp trong nước và quốc tế.

- Phân công tổ chức thực hiện

Chương trình phát triển đô thị từng đô thị được lập cho đô thị trực thuộc tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương không có đô thị trực thuộc, nội dung bao gồm:

- Xác định danh mục lộ trình triển khai xây dựng các khu vực phát triển đô thị bao gồm các khu vực phát triển đô thị mới, mở rộng, cải tạo, bảo tồn, tái thiết hoặc đô thị có chức năng chuyên biệt cho từng giai đoạn 5 năm và ưu tiên giai đoạn đầu (5 năm và hàng năm) phù hợp các giai đoạn của quy hoạch chung đô thị.

- Cụ thể hóa các chỉ tiêu phát triển đô thị cần đạt được cho từng giai đoạn 5 năm và hàng năm phù hợp quy hoạch chung đô thị, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

- Xây dựng danh mục dự án hạ tầng kỹ thuật khung và công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ưu tiên đầu tư nhằm kết nối các khu vực phát triển đô thị với hệ thống hạ tầng kỹ thuật chung của đôthị

- Xác định kế hoạch vốn cho các công trình hạ tầng kỹ thuật khung và công trình đầu mối ưu tiên phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của địa phương.

- Xây dựng các giải pháp về cơ chế, chính sách huy động các nguồn vốn hợp pháp trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển đô thị.

- Phân công tổ chức thực hiện

Về bản chất nội dung Chương trình phát triển đô thị hiện nay mới đảm bảo được yêu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lĩnh vực xây dựng. Các chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và từng đô thị trên cả nước hiện nay cơ bản thực hiện theo đúng quy định của Thông tư 12. Một số trường hợp đặc thù tại các địa phương có các chương trình, nghiên cứu khác; ví dụ như CDS Cần Thơ do WB tài trợ thực hiện trước đây, nội dung Chương trình PTĐT Cần Thơ có thêm sự lồng ghép, đánh giá tình hình thực hiện của CDS; một số đô thị có kế hoạch hành động ứng phó BĐKH cụ thể trong các dự án hợp tác quốc tế cũng được đưa vào nội dung của Chương trình phát triển đô thị. Trong xu hướng về xây dựng đô thị thông minh, một số Sở ngành tỉnh cũng thường yêu cầu đưa thêm định hướng mới này vào Chương trình phát triển đô thị

Như vậy, về cơ bản nội dung chủ yếu của Chương trình phát triển đô thị hiện nay vẫn tập trung trong lĩnh vực xây dựng và phục vụ phân loại đô thị; bên cạnh đó bổ sung lồng ghép thêm một số định hướng khác về lồng ghép ứng phó BĐKH, đô thị thông minh…

4. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong Chương trình phát triển đô thị

Lồng ghép nội dung xây dựng đô thị thông minh bền vững

Đô thị thông minh bền vững là đô thị đổi mới, được ứng dụng ICT và các phương tiện khác để cải thiện chất lượng cuộc sống, hiệu quả quản lý vận hành, cung cấp dịch vụ và mức độ cạnh tranh của đô thị, trong khi vẫn đảm bảo đáp ứng những nhu cầu của các thế hệ hiện tại và tương lai về mọi khía cạnh kinh tế, môi trường, văn hóa và xã hội. Theo đó ĐTTM có thể giải quyết các vấn đề phát sinh do tốc độ đô thị hóa quá nhanh, cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân, tạo động lực giúp cải thiện sức cạnh tranh của đô thị, đó cũng chính là mục tiêu mà quy hoạch đô thị hướng tới.

Một trong những vấn đề lớn đã và đang vướng mắc cho việc xây dựng đô thị thông minh đó là dữ liệu dùng chung vẫn còn đơn lẻ, thiếu tính nhất quán, chưa đồng bộ, thống nhất theo hướng một hạ tầng dữ liệu không gian thống nhất từ trên xuống. Việc sử dụng dữ liệu không gian còn hạn chế, chưa phát huy được hết năng lực thông tin, chưa phục vụ được nhu cầu hiện đại hóa quy hoạch thông qua phân tích không gian. Các dữ liệu không gian này chưa được cập nhật thường xuyên. Các dữ liệu không gian đang tồn tại dưới dạng tập hợp dữ liệu hoặc cơ sở dữ liệu đơn lẻ, chưa được kết nối trong một hạ tầng thông tin không gian thống nhất. Cần thiết xây dựng hạ tầng dữ liệu không gian thống nhất. Cần thiết xây dựng hạ tầng dữ liệu không gian đô thị (trung tâm tích hợp dữ liệu, lựa chọn công nghệ phù hợp, xây dựng chuẩn dữ liệu địa lí các lĩnh vực chuyên ngành, xây dựng cơ chế cập nhật, chia sẻ cơ sở dữ liệu dùng chung).

Quy hoạch và quản lý đô thị trên nền tảng đô thị thông minh: ứng dụng GIS trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Một đô thị thông minh cần phát triển dựa trên nền tảng GIS quốc gia, từ đó phát triển các hệ thống ứng dụng (như Hệ thống thông tin quản lý đất đai, hệ thông thông tin quy hoạch, các hệ thống ứng dụng chuyên biệt…) và hệ thống GIS nâng cao cũng như hệ thống hỗ trợ ra quyết định sử dụng dữ liệu dùng chung trong Ngân hàng dữ liệu Quốc gia cũng như hạ tầng dữ liệu từng chuyên ngành. Việc áp dụng công nghệ và phân tích trong quản lý và phân tích nhằm tăng tính hiệu quả trong nhiều lĩnh vực.

Phát triển không gian đô thị và sử dụng đất: Tăng cường quản lý đất đai làm tăng hiệu quả sử dụng đất đô thị, giúp thay đổi hình thái đô thị theo hướng bền vững hơn, giảm quy mô đất đai đô thị trong khi vẫn đảm bảo hoạt động của các chức năng, dịch vụ cho một quy mô dân số lớn.

Sử dụng quỹ đất hiệu quả và phát triển đô thị nén – các công trình cao tầng gắn kết với phát triển mạnh hoạt động giao thông công cộng. Tuy nhiên khi phát triển mật độ cao thì yêu cầu quản lý hết sức khó khăn. Các quy trình điều khiển, kiểm soát hoạt động đô thị phải rất nhanh gọn, chặt chẽ mà chỉ có thông qua mô hình ĐTTM mới có thể thực hiện hiệu quả.

Xây dựng các hệ thống quản lý hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật thông minh theo từng chuyên ngành: Giáo dục và đào tạo, y tế và sức khỏe, cộng đồng giao thông công cộng, giám sát và an toafngiao thông, quản lý cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, thu gom, phân loại, tái chế chất thải, cấp điện và chiếu sáng, cây xanh công viên…

Lồng ghép nội dung xây dựng đô thị xanh

Cách tiếp cận đô thị xanh nhằm khuyến khích phát triển không gian để mang lại lợi ích cho người dân và môi trường tự nhiên. Mục đích của cách tiếp cận “Đô thị xanh” là thông qua quy hoạch tích hợp và đầu tư tổng hợp, môi trường đô thị sẽ:

- Đáp ứng, tận dụng tốt các điều kiện về khí hậu, vị trí địa lý, định hướng phát triển, và bối cảnh, tối ưu hóa các giá tự nhiên (ánh sáng tự nhiên, chế độ gió…)

- Yên tĩnh, sạch, và có hiệu quả với vi khí hậu tốt

- Giảm hoặc không có khí thải CO2 thông qua tự cung cấp năng lượng dựa trên các nguồn năng lượng tái tạo

- Loại bỏ chất thải dựa trên hệ sinh thái khép kín thông qua tái chế, tái sử dụng, tái sản xuất, và composting

Xây dựng đô thị xanh liên quan đến đầu tư đa ngành với 5 tiêu chí chủ yếu: i) Giao thông phát thải Carbon thấp; ii) Khu liên hợp công nghiệp xanh; iii) Công trình sử dụng năng lượng hiệu quả; iv) Xanh hóa đô thị; v) Hạ tầng xanh co stisnh chống chịu tốt.

Lồng ghép xây dựng đô thị ứng phó với BĐKH

Các thách thức đặt ra do biến đổi khí hậu: Thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng, sự gia tăng các hiện tượng cực đoan (mưa, bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, lũ, lụt, sụt lún, sạt lở, xâm nhập mặn…) tới khả năng chống chịu của con người, xã hội, không gian phát triển và hạ tầng đô thị.

BĐKH với sự dâng cao mực nước biển sẽ ảnh hưởng lớn đến các thành phần tạo dựng nên cấu trúc không gian đô thị, đặc biệt là các đô thị ven biển như ảnh hưởng đến đặc điểm, cấu trúc khung thiên nhiên đô thị (như thay đổi đặc điểm địa hình, diện mạo đô thị, làm suy giảm tài nguyên đất, nước ngọt, thay đổi hệ sinh thái đô thị…) ảnh hưởng đến cấu trúc không gian đô thị (khu công nghiệp, khu nhà ở, hệ thống các trung tâm…) ảnh hưởng đến mạng lưới công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị (ngập úng, lũ lụt, gây quá tải đối với hệ thống thoát và xử lý nước thải, thay đổi không gian mặt nước, công viên cây xanh, quảng trường, phá hỏng hệ thống cơ sở hạ tầng kũ thuật, ảnh hưởng tới không gian ngầm đô thị…)

BĐKH và nước biển dâng còn gây áp lực lên vấn đề di cư, đặc biệt là lòng người từ nông thôn lên thành thị, làm trầm trọng thêm những vấn đề mà các đô thị đang phải đối mặt từ việc cung cấp nhà ở, cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị, đến giảm thiểu đói nghèo, dịch bệnh, hạn chế ô nhiễm môi trường và bảo đảm an ninh lương thực.

Mực nước biển tăng làm ngập lụt, xói lở bờ sông, bờ biển, tác động trực tiếp đến nơi cư trú của người dân trong đô thị, các hạ tầng kỹ thuật du lịch (khu nghỉ dưỡng, khách sạn, bãi tắm…) ảnh hưởng đến đời sống dân cư, giảm tính hấp dẫn của các khu du lịch trong đô thị. Các đô thị ở Việt Nam tập trung chủ yếu dọc theo vùng duyên hải và đồng bằng có thể chịu các tác động do BĐKH như nước biển dâng, bão và áp thấp lũ lụt, xâm nhập mặn…thì các đô thị vùng núi và trung du, dọc các lưu vực sông thường chịu ảnh hưởng của lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán cũng như các hiện tượng thời tiết cực đoan… Hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị đều có thể chịu tác động của BĐKH. Do đô thị thường là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị nên khả năng dễ bị tổn thương và thiệt hại về kinh tế, xã hội, môi trường, cơ sở hạ tầng…sẽ lớn hơn. Các cộng đồng có khả năng dễ bị tổn thương cũng đa dạng hơn do các vấn đề xã hội ở đô thị phức tạp hơn. Tuy vậy, khả năng ứng phó ở các khu vực đô thị luôn cao hơn các khu vực nông thôn do có mặt bằng chung về nhận thức cao hơn, trình độ và năng lực quản lý, hệ thống hạ tầng tốt hơn.

Dựa trên kịch bản và kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của từng địa phương để xây dựng kế hoạch hành động cho từng chuyên ngành và lĩnh vực. Cần có giải pháp nghiên cứu, lựa chọn không gian và quy hoạch sử dụng đất đô thị hiệu quả, hạn chế phát triển dàn trải, bê tông hóa, bảo tồn và phát triển không gian xanh, mặt nước; quản lý quy hoạch cao độ nền địa hình đa dạng, linh hoạt, hình thành không gian đệm trữ nước, lưu chứa nước; nghiên cứu hệ thống hạ tầng kỹ thuật xanh để ứng phó với những biến đổi lớn, bất thường do gia tăng lượng mưa; Quản lý tổng hợp nguồn nước (tái chế, xử lý, tuần hoàn nước, trữ nước…); các giải pháp tổng hợp tăng sức chống chịu của đô thị và hạ tầng ứng phó với BĐKH…

Xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển đô thị phù hợp với bối cảnh địa phương

Bên cạnh những nghiên cứu, quy định hiện hành với các bộ chỉ tiêu về đô thị xanh, đô thị thông minh, đô thị chống chịu với BĐKH, bộ chỉ tiêu về phát triển đô thị theo Quyết định 1659 hay Nghị quyết 1210; cần nghiên cứu lựa chọn thông minh bộ chỉ tiêu tổng hợp vừa đáp ứng yêu cầu quy định vừa đảm bảo yếu tố đặc thù của địa phương dựa trên một tầm nhìn và những mục tiêu cụ thể đặt ra. Điều quan trọng cho tính khả thi của một bộ chỉ tiêu đó là:

- Nếu không đảm bảo được dữ liệu tốt, được giám sát cập nhật liên tục, sẽ không thể đưa ra được bộ chỉ tiêu tốt.

- Thước đo thực hiện trên quan điểm mục tiêu cần đạt được (chứ không phải sử dụng để so sánh mức độ thực hiện).

- Mỗi địa phương khác nhau có quan điểm về chỉ tiêu đánh giá cũng như thang giá trị khác nhau. Bộ chỉ tiêu phải được xây dựng theo điều kiện riêng của từng địa phương, con người, văn hóa và thể chế.

- Bộ chỉ tiêu hiếm khi được hoàn thiện trọn vẹn, cần liên tục được cải tiến.

- Vẫn tồn tại yếu tố không chắc chắn trong thang đánh giá các chỉ tiêu

- Các chỉ tiêu có thể đóng vai trò quan trọng trong cách thức hoạt động con người có tác động tới môi trường – sự thay đổi các chỉ tiêu cũng sẽ làm thay đổi hệ thống.

Nội dung và phương pháp tiếp cận cho Chương trình phát triển đô thị

Cả hai nội dung Chương trình phát triển đô thị toàn tỉnh và từng đô thị đều nhấn mạnh đến việc cụ thể hóa các chỉ tiêu phát triển đô thị. Đối với cấp tỉnh các chỉ tiêu phát triển đô thị chung chủ yếu bám theo 14 chỉ tiêu hạ tầng theo Quyết định 1659/QĐ-TTg; tuy nhiên do liên quan đến nội dung xác định lộ trình nâng loại đô thị toàn tỉnh do vậy từng đô thị được đánh giá sơ bộ theo 5 tiêu chí và 59 tiêu chuẩn phân loại đô thị theo Nghị quyết 1210/2016/UBTVQH13. Đối với cấp đô thị, 59 tiêu chuẩn của Nghị quyết 1210 được đánh giá chi tiết làm cơ sở xây dựng danh mục dự án và kế hoạch khắc phục các tiêu chuẩn chưa đạt theo tiêu chí phân loại đô thị. Việc đánh giá và thực hiện các chỉ tiêu này mới mang ý nghĩa của “Chương trình phát triển đô thị ngành Xây dựng”. Ngoài ra, việc yêu cầu cụ thể hóa các chỉ tiêu cần đạt được hàng năm trong giai đoạn 5 năm đầu là khó khả thi và đôi khi khó đoán khi mà mỗi chỉ tiêu chịu tác động từ nhiều dự án đầu tư và hiếm khi các dự án này hoàn thành được 1 năm.

Nội dung quan trọng của cả 2 cấp Chương trình đó là đưa ra được danh mục dự án hạ tầng khung; cấp tỉnh được căn cứ chủ yếu theo Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh với những dự án trọng điểm kết nối hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh và một số dự án quan trọng của các đô thị trực thuộc Tỉnh; cấp đô thị nhằm kết nối các khu vực phát triển đô thị theo Quy hoạch chung đô thị và mở rộng thêm các dự án khắc phục tiêu chuẩn chưa đạt hoặc còn yếu theo phân loại đô thị. Bởi vì các dự án này phục vụ mục tiêu thực hiên Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh và Quy hoạch chung đô thị, đồng thời triển khai theo các chỉ tiêu phát triển đô thị chủ yếu lĩnh vực hạ tầng vì vậy đây cũng là “Danh mục dự án đầu tư phát triển đô thị ngành Xây dựng”. Thời gian quy hoạch theo từng loại hình được quy định theo Luật Xây dựng và Luật Quy hoạch đô thị, nhưng theo khái toán kinh phí chung về hạ tầng đô thị thì trong hầu hết các trường hợp nguồn lực đầu tư của địa phương không thể đảm bảo để triển khai được 100% các dự án theo quy hoạch. Vì vậy, hướng dẫn đưa ra yêu cầu xác minh danh mục dự án ưu tiên đầu tư; nhưng ngay cả chỉ với dự án ưu tiên thì nguồn kinh phí cũng là rất lớn so với nguồn lực địa phương, trong khi đây mới chỉ là danh mục đầu tư về cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực xây dựng. Tính khả thi về nguồn lực đầu tư luôn là một câu hỏi lớn trong nhiều Chương trình phát triển đô thị.

Một quan điểm khác của Chương trình PTĐT là xây dựng danh mục dự án để đưa ra định hướng ưu tiên đầu tư tập trung có trọng điểm, phát triển theo chiều dọc để tăng tính hiệu quả, hạn chế phát triển dàn trải. Nhưng các dự án hạ tầng đô thị từ lúc triển khai đến lúc hoàn thành khó có thể thực hiện chỉ trong 1 năm, thường kéo dài 2-3 năm hoặc dài hơn và có nhiều nội dung trong nhiều lĩnh vực vẫn phải triển khai song song tại nhiều đô thị, như vậy, tính dàn trải vẫn tồn tại và việc đánh giá kết quả thực hiện phải sau 2-3 năm chứ khó đánh giá được hàng năm.

Trong nền kinh tế thị trường với sự chi phối lớn của dự tham gia của khối kinh tế tư nhân, trong nhiều trường hợp, nguồn lực đầu tư từ ngân sách chỉ chiếm khoảng 20% tổng mức đầu tư xây dựng phát triển đô thị và trên 80% từ xã hội hóa hoặc các hình thức PPP, BOT, BT… Do vậy, khi xây dựng danh mục dự án phải làm rõ được loại hình nào cần đưa vào danh mục đầu tư công và khuyến nghị danh mục các dự án có sự tham gia tư nhân. Và cũng chính vì sự liên quan đến khối tư nhân nên khó chắc chắn trong khả năng dự báo và đánh giá tình tình thực hiện.

Phương pháp tiếp cận lập Chương trình phát triển đô thị hiện nay mặc dù đã khớp nối các quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành để đưa ra danh mục dự án đầu tư nhưng chủ yếu vẫn là lĩnh vực xây dựng và chủ yếu tập trung vào triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và phục vụ phân loại đô thị. Trong xu hướng tích cực của Quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, trong thời gian tới nội dung Chương trình phát triển đô thị cũng như hệ thống văn bản pháp quy về Chương trình phát triển đô thị cũng cần thay đổi theo xu hướng tích hợp mang tính phát triển đô thị theo nghĩa rộng và toàn diện hơn. Trong bối cảnh hiện nay, các đô thị đang chạy đua theo trào lưu xây dựng đô thị thông minh, đô thị bền vững, đô thị xanh, đô thị thích ứng với BĐKH…đây là những nội dung mà các địa phương đều đặt ra yêu cầu lồng ghép gần đây.

Tùy đặc thù mỗi địa phương mà quá trình phát triển đô thị có những vấn đề cấp thiết, bức xúc khác nhau. Do vậy trong quy định pháp lý không nên bó buộc nội dung thực hiện mà cần có tỉnh “mở” để bổ sung những yêu cầu giải quyết linh hoạt và đa dạng theo đặc trưng từng đô thị; hướng tiếp cận cần đổi mới theo hướng “bottom-up” để khuyến khích sự tham gia của các thành phần kinh tế theo một tầm nhìn chung của đô thị trong tương lai.