Cải cách giáo dục năm bao nhiều

Bất biến trong vạn biến

Trong khoảng 10 - 15 năm trở lại đây, ở Việt Nam  người dân chứng kiến liên tục các động thái cải cách giáo dục. Đây cũng là chủ đề nóng trên các trang báo và mạng xã hội. Chính trong khoảng thời gian đó, giáo dục Việt Nam cũng đối mặt với hàng loạt các vấn đề và có những vấn đề ngày càng trầm trọng. Tại sao càng cải cách, càng có cảm giác giáo dục Việt Nam trở nên rối rắm và các biện pháp thực thi dần đi vào ngõ cụt?

Sẽ có nhiều cách giải thích khác nhau tùy vào cách nhìn và tiêu điểm. Tuy nhiên, nhìn ở góc độ quản trị sẽ thấy có một nguyên nhân nằm ở chỗ hành chính giáo dục đã không được cải cách cho dù đã diễn ra nhiều lần cải cách giáo dục.

Cải cách giáo dục năm bao nhiều
Xu hướng quốc tế hóa tại các đại học Việt Nam
Tính cho đến nay, giáo dục Việt Nam (không kể giáo dục dưới chế độ VNCH) đã trải qua 4 lần cải cách lớn vào các năm 1950, 1956, 1979, 2013 (cuộc cải cách toàn diện triệt để đánh dấu bằng Nghị quyết 29). Tuy nhiên, nhìn vào các cuộc cải cách giáo dục này, chúng ta thấy hành chính giáo dục chưa bao giờ là nội dung trọng tâm hay nội dung lớn. Các nội dung được quan tâm đến trong các cuộc cải cách giáo dục đó thường sẽ vẫn là tái cơ cấu hệ thống trường học, mở rộng mô hình trường, thay đổi chương trình - sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học.

Trong cuộc cải cách giáo dục được gọi là “toàn diện, triệt để” lần này, nếu quan sát kỹ, ta cũng sẽ thấy trọng tâm cải cách chủ yếu nằm ở việc nhấn mạnh “dạy học theo năng lực”, “dạy học tích hợp”. Hệ thống trường học không có sự thay đổi lớn. Ý đồ ban đầu của các nhà làm chính sách là muốn tái cơ cấu các môn học với hàng loạt môn học mới ra đời như “Công dân với tổ quốc”, “Khoa học xã hội”, “Cuộc sống quanh ta”... nhưng rồi trước sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận, giáo viên, giới sử học - giáo dục lịch sử, cuối cùng những người có trách nhiệm đã quay trở lại phương án “rượu mới bình cũ” với các môn học có tên gọi không khác các môn học cũ là mấy.

Tuy nhiên, ngay cả trong một cuộc cải cách “toàn diện, triệt để”, người dân cũng chưa thấy các động thái cải cách thực sự ở phương diện hành chính giáo dục như về cơ chế vận hành hệ thống giáo dục, cơ chế tổ chức và chế tài hạn chế quyền lực của các cơ quan hành chính giáo dục đứng đầu là bộ phụ trách về giáo dục. Người dân cũng không thấy ở đó những động thái, công việc cơ bản nhất cần thiết phải tiến hành để tạo ra một nền hành chính giáo dục hiện đại như: dân chủ hóa bộ máy hành chính giáo dục và thực hiện nguyên tắc phân quyền cho các địa phương, tôn trọng tính tự chủ, tự trị của các địa phương, các trường học và quyền chủ động nội dung, phương pháp giáo dục của giáo viên.

Đây là những động thái rất cơ bản để xây dựng hành chính giáo dục hiện đại và hiệu quả. Một nền giáo dục hiện đại không thể nào không dựa trên các nguyên lý này.

Hệ lụy: bạo lực học đường và dạy học thiếu thực tiễn

\n

“Điểm nghẽn” của cải cách giáo dục

Ở VN hiện tại, hành chính giáo dục đang trở thành “điểm nghẽn” của cải cách giáo dục. Rất nhiều ý tưởng, nội dung cải cách giáo dục học hỏi từ thế giới đã không thể thực hiện được hoặc khi thực hiện đã không thể có kết quả như mong đợi, thậm chí gây ra thêm rối loạn là vì chúng đã không có môi trường thuận lợi để tồn tại và phát triển. Hành chính giáo dục cần phải được cải cách mạnh hơn để tạo ra môi trường thuận lợi cho cải cách giáo dục. Đấy là hướng đi không thể né tránh để tiến tới xây dựng nền giáo dục dân chủ, hiện đại, nhân văn trong thời đại toàn cầu hóa.

Nhìn ở góc độ so sánh với hành chính giáo dục hiện đại trên thế giới, không khó để nhận ra hệ thống hành chính giáo dục mang nặng tính quan liêu và tập trung quyền lực cao độ vào Bộ GD-ĐT ở Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với những vấn đề của hiện trường giáo dục. Có 2 ví dụ về mối liên hệ này.

Tình trạng bạo lực học đường ở Việt Nam  đã không được giải quyết cơ bản, có nguy cơ leo thang và đây cũng có thể xem như là hệ lụy của cơ chế hành chính giáo dục tập trung quan liêu, tập trung quyền lực.

Trong hệ thống hành chính giáo dục tập trung quan liêu, cấp trên sẽ ra các chỉ thị và đề ra, thực thi chính sách chủ yếu dựa trên các báo cáo và con số. “Chất lượng giáo dục” của trường học vì vậy phải được biểu đạt hóa bằng con số cụ thể như tỷ lệ học sinh khá giỏi, giáo viên giỏi, học sinh đỗ tốt nghiệp, các cuộc “thi đua” và “phong trào”... Kết quả là trường học - nơi vốn có sứ mệnh khai mở và phát triển tối đa các cá nhân học sinh có nhân cách riêng biệt, phong phú - bị biến thành cơ quan hành chính và thụ động. Sinh hoạt trường học trở nên đơn điệu và thiếu dân chủ, đầy căng thẳng. Như một quy luật tâm lý, giáo viên chuyển hóa áp lực, sự căng thẳng đó vào học sinh.

Hệ quả tất yếu là nảy sinh bạo lực học đường và hàng trăm dạng bạo hành tinh thần khác khiến cho trường học không còn trở thành nơi an toàn, thú vị nữa. Hành chính giáo dục, thay vì tạo điều kiện, hỗ trợ tối đa trong việc tạo ra môi trường giáo dục lý tưởng, đã trở thành hòn đá đè nặng lên trường học.

Ở nước ngoài, các thực tiễn giáo dục có thể tồn tại, phát triển phong phú, mạnh mẽ vì cơ chế hành chính giáo dục dân chủ, phân quyền đã tôn trọng và đảm bảo cho các thực tiễn này phát triển. Các trường học, địa phương, giáo viên đã trở thành chủ thể năng động được tự chủ nội dung và phương pháp giáo dục của mình.

Ở Việt Nam  trong suốt một thời gian dài, hành chính giáo dục quan liêu tập trung - mà biểu hiện cụ thể rõ nhất là cơ chế “Một chương trình - một sách giáo khoa” đã đè nặng lên trường học, dẫn dắt tư duy và các hoạt động giáo dục của giáo viên, học sinh. Hệ quả là giáo viên đã biến mình thành “thợ dạy” thuần túy. Dấu ấn và sự sáng tạo cá nhân thông qua thực tiễn giáo dục hầu như không tồn tại.

Một nghìn giáo viên (dạy cùng một môn) dạy cùng một nội dung phân thành tiết học, áp dụng một số phương pháp được chỉ dẫn như nhau cho hàng nghìn học sinh trên các địa phương khác nhau trong cùng một ngày, thậm chí cùng một thời điểm là hiện tượng khiến cho các nhà giáo dục nước ngoài khi đến VN khảo sát, nghiên cứu sợ hãi. Nhưng đấy cũng chính là một tiêu chí mà các nhà quản lý giáo dục, cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương mong muốn. Sổ đầu bài, sổ báo giảng là những công cụ được sinh ra và sử dụng chỉ để cơ quan quản lý nắm được giáo viên có theo đúng phân phối chương trình hay không.

Tin liên quan

Cải cách giáo dục cũng giống như xây nhà, phải bắt đầu từ nền móng là đội ngũ giáo viên, sau đó đến chương trình từng cấp học.

Thời gian khoảng một, hai năm đổ lại đây, tôi thấy có nhiều vấn đề về nội dung cải cách chương trình giáo dục được đề cập.

Tiêu biểu là "trường học loay hoay không biết cách sắp xếp giáo viên như thế nào", hay "người cũ - nội dung mới, giáo viên không kịp tập huấn chương trình mới", hay thậm chí có bài báo với tiêu đề "một giáo viên phải dạy hai, ba môn trong một ngày, không biết đường nào mà lần".

Cải cách giáo dục là một việc không đơn giản có thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Không đơn giản chỉ là biên soạn ra một chương trình đào tạo mới rồi sau đó cho đổi sách giao khoa là xong câu chuyện. Không, nó cần một quá trình rất dài.

Vậy thì, quá trình này dài bao lâu và phải đi như thế nào? Tôi nghĩ rằng quá trình này không thể ít hơn 15 năm ròng. Tại sao lại như vậy nhỉ?

Hãy thử hình dung rằng các bạn đang sống trong ngôi nhà của mình đã hai ba chục năm trời, rồi bỗng nhiên vào một ngày đẹp trời các bạn muốn sửa ngôi nhà đó thành một ngôi nhà mới với kiến trúc hoàn toàn mới. Thế là các bạn đi thuê một công ty thiết kế xây dựng vẽ cho các bạn một bản thiết kế đẹp tuyệt vời.

>> Sự thấu cảm và lòng trắc ẩn trong giáo dục

Nhưng, bây giờ sửa từ đâu? Bắt đầu từ tầng mấy? Trình tự nên làm như thế nào đây? Bắt buộc phải theo trình tự các bạn ạ. Có người nghĩ rằng sẽ bắt đầu từ "tầng một"; vâng, nghe thì có vẻ hợp lý đấy, nhưng còn phần móng thì như thế nào nhỉ?

Sửa nhà cũng giống như cải cách giáo dục vậy. Các vị không thể đùng một cái nhảy vào thay đổi chương trình dạy - học của lớp 1, hay lớp 6, hay lớp 10 được.

Phải bắt đầu từ khâu đầu vào, đó chính là hệ thống đào tạo sư phạm của chúng ta, chính là hệ thống cung cấp lực lượng giáo viên cho nền giáo dục nước ta. Sau khi đã hoàn tất quá trình thay đổi cho "đầu vào" rồi, thì khi đó ta mới tiến hành bắt đầu thay đổi từ lớp 1 (lưu ý là chỉ lớp 1 thôi) và cứ thế sau mỗi năm chúng ta sẽ nâng dần lên 1 lớp, và rồi cứ thế cho đến lớp 12.

Như vậy thì ít nhất cũng phải cần đến 15-16 năm cho quá trình chuyển đổi này. Một con suối, nước sạch hay bẩn là do đầu nguồn quyết định. Cho dù chúng ta có làm bất cứ điều gì ở phía hạ nguồn đi chăng nữa, mà trong khi thượng nguồn vẫn tiếp tục "gây ô nhiễm" thì kết quả thì cuối cũng vẫn chỉ là một dòng suối không trong sạch mà thôi.

Trinh Dien

>>Bài viết không nhất thiết trùng với quan điểm VnExpress.net. Gửi bài tại đây.

Sau nhiều lần thực hiện cải cách giáo dục thì hiện nay ở nước ta đang áp dụng hệ 12 năm học cho hệ phổ thông. Câu hỏi mà nhiều người băn khoăn là Hệ 12 năm bắt đầu từ năm nào?

Chúng tôi sẽ giúp quý bạn đọc giải đáp câu hỏi này thông qua bài viết Hệ 12 năm bắt đầu từ năm nào?

Theo Quyết định 135/CP thì bắt đầu từ năm 1981, hệ thống giáo dục được chuyển từ hệ 10 năm sang hệ 12 năm. Hệ thống giáo dục phổ thông trong cả nước là hệ thống trường phổ thông 12 năm, được chia làm hai bậc:

– Bậc phổ thông cơ sở, từ lớp 1 đến lớp 9.

– Bậc phổ thông trung học, từ lớp 10 đến lớp 12.

Bắc đầu từ năm học 1981-1982 các hệ thống giáo dục phổ thông chuyển từng bước, có trọng điểm, sang hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm. Việc mở rộng các trọng điểm bắt đầu từ năm học 1983-1984 nhằm bảo đảm tính liên tục và chất lượng của chương trình giáo dục phổ thông, và phải được chuẩn bị chu đáo ngay từ năm học 1981-1982.

Như vậy câu trả lời cho câu hỏi nêu trên là hệ 12 năm bắt đầu từ năm 1981.

Cải cách giáo dục năm bao nhiều

Hệ 10 năm bắt đầu từ năm nào?

Theo Nghị định số 596-NĐ quy định:

“ Kể từ niên học 1956 – 1957, các trường phổ thông sẽ tổ chức theo hệ thống trường phổ thông 10 năm.”

– Hệ thống trường phổ thông 10 năm chia làm 3 cấp học, bao gồm:

+ Cấp 1: 4 năm: từ lớp 1 đến lớp 4.

+ Cấp 2: 3 năm: từ lớp 5 đến lớp 7.

+ Cấp 3: 3 năm: từ lớp 8 đến lớp 10.

Lớp vỡ lòng chưa sát nhập vào hệ thống trường phổ thông 10 năm. Riêng đối với miền núi, để bảo đảm trình độ kiến thức cho học sinh, thời hạn học tại cấp 1 là 5 năm (không kể lớp vỡ lòng).

– Năm học gồm 9 tháng và chia làm 4 học kỳ:

+ Học kỳ 1 từ 1 – 9 đến 30-10 (2 tháng).

+ Học kỳ 2 từ 2 – 11 đến 31-10 (2 tháng).

+ Học kỳ 3 từ 4 – 1 đến 2-3 (2 tháng).

+ Học kỳ 4 từ 5 – 3 đến 31-5 (3 tháng).

Nếu ngày khai giảng học kỳ trùng vào ngày nghỉ, thì ngày khai giảng lùi lại ngày hôm sau.Các trường phổ thông nghỉ hè từ 1-6 đến 30-8 mỗi năm (3 tháng).

Như vậy, hệ 10 năm bắt đầu từ năm 1956.

Hệ thống giáo dục Việt Nam

Theo điều 6 Luật Giáo dục 2019 quy định hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta như sau:

“ 1. Hệ thống giáo dục quốc dân là hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.

2. Cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:

a) Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo;

 b) Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông;

c) Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác;

d) Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.”

Như vậy theo quy định trên thì hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta là hệ thống giáo dục mở, liên thông gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.Cấp học, trình độ đào tạo như sau:

– Giáo dục mầm non gồm Giáo dục nhà trẻ và Giáo dục mẫu giáo. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam, thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi.Giáo dục mầm non nhằm phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một.

– Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông. Giáo dục phổ thông nhằm mục tiêu phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

– Giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác. Giáo dục nghề nghiệp với mục tiêu nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện cho người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học trình độ cao hơn.

– Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.Giáo dục đại học đào tạo nhân lực trình độ cao, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo người học phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về nội dung Hệ 12 năm bắt đầu từ năm nào? Từ những nội dung trên có thể thấy giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của cá nhân mỗi người và đối với đất nước, do đó mà giáo dục luôn được quan tâm hàng đầu. Chúng tôi hi vọng rằng nội dung bài viết sẽ hữu ích và giúp quý bạn đọc hiểu rõ về nội dung này.