Cách nuôi cua cốm

Cua cốm (cua lột) là 1 loại cua biển và được biết đến với tên gọi khác là cua 2 da. Đây là loại cua cực kì hiếm bởi có độ thơm ngon đứng đầu trong tất cả các loại cua.

Vốn dĩ có tên gọi như thế là vì sau nhiều lần lột xác, thì thời gian này cua biển đang đến ngày lột vỏ để lớn lên trưởng thành và trong quá trình chuẩn bị thành cua lột.

Đặc điểm của cua cốm

Cua cốm có lớp vỏ cứng và chắc chắn bao bọc bên ngoài được cấu tạo từ kitin, canxi và vôi hóa. Tuy nhiên, khi sắp đến ngày lột xác, lớp vỏ bên ngoài sẽ trở nên giòn và dễ vỡ hơn.

Thông thường, quá trình lột xác của cua cốm sẽ diễn ra trong vòng 1 - 2 ngày. Khi đã hấp thụ đủ lượng nước biển vừa đủ để cơ thể phồng ra, giúp dễ dàng mở rộng lớp vỏ cũ và tạo ra đường nứt trên cơ thể. Cuối cùng, cua cốm sẽ tự đẩy ra cho đến khi thoát khỏi lớp vỏ cũ.

Để phân biệt với các loại cua thông thường, thì nên nhìn vào phần yếm, bởi cua cốm có lớp lông màu hồng đỏ, còn cua thường thì lại có lông màu trắng.

Bên cạnh đó, cua cốm thường có lớp thịt chắc nịt và không bị bọng nước, do đó vẫn thường được chế biến thành các món ngon hảo hạng như món nướng, món hấp,...

2. Cua cốm có gạch không?

Đối với cua cốm, phần gạch cua lại chính là lớp chất dinh dưỡng vô cùng quan trọng mà cua cốm dùng để dự trữ nuôi sống cơ thể trong những ngày lột xác, không thể đi kiếm ăn được.

Lớp gạch cua cốm có màu vàng nhạt, đồng thời tỏa ra hương thơm thoang thoảng, khi ăn cảm nhận ngay độ béo, bùi và quan trọng không hề gây đến cảm giác ngấy như các loại cua thông thường khác.

3. Cách chọn mua cua cốm (cua lột) ngon

Cua cốm tươi ngon trên lớp vỏ sẽ xuất hiện các đốm nhỏ li ti màu cam hoặc màu vàng. Đồng thời lớp vỏ mỏng, không quá dày.

Bạn nên chọn những con còn sống, khỏe, chân có lực và càng vẫn cử động được.

Ngoài ra, để chọn mua cua cốm ngon, khi ấn vào phần yếm cảm nhận được sự rắn chắc, không quá mềm nhũn.

4. Cua cốm bao nhiêu 1 kg, mua ở đâu?

Hiện nay, để mua cua cốm bạn có thể dễ dàng tìm đến các cửa hàng chuyên kinh doanh hải sản. Tại đây, bạn còn kiểm tra được chất lượng và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Ngoài ra, ở các chợ và các trang thương mại điện tử thì cua cốm cũng được bày bán phổ biến nhằm giúp mọi người có thêm nhiều sự lựa chọn khi cần thiết.

Mức giá của cua cốm dao động từ 650.000 - 800.000 đồng/kg (cập nhật vào tháng 07/2021).

Vậy là Điện máy XANH đã cùng bạn đi tìm hiểu xem cua cốm (cua lột) là gì, mua ở đâu? Cách chọn mua cua cốm Cà Mau chính xác nhất. Mong rằng những thông tin trên sẽ thật hữu ích với bạn!

Biên tập bởi Lê Thị Thùy Linh • 02/07/2021

NGUYỄN VĂN TUYẾNGIÚP NHÀ NÔNG LÀM GIÀU KỸ THUẬT NUÔICUA BIỂNNHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN31 32 LỢI ÍCH TỪ VIỆC NUÔI CUA BIỂNCua biển là một trong những đối tượng nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao và là món ăn cao cấp rất được ưa chuộng ở Việt Nam và trên thế giới. Nghề nuôi cua biển ở Việt Nam đã phát triển ở nhiều tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Khánh Hoà, Cà Mau, Bạc Liêu và nó đã đem lại lợi ích không nhỏ cho người dân. Để việc nuôi cua biển đạt hiệu quả và cho năng suất cao, đòi hỏi bà con phải nắm bắt được kỹ thuật nuôi, chăm sóc và phòng trị bệnh. Những kiến thức trình bày trong sách đã được chúng tôi sưu tầm và nghiên cứu từ nhiều nguồn tài liệu quý giá, sau đó chắc lọc những kiến thức cần thiết rồi biên soạn thành sách với mục đích là giúp bà con có thêm kinh nghiệm trong việc nuôi cua biển để làm giàu cho gia đình. Hy vọng quyển sách sẽ mang lại nhiều điều bổ ích cho bà con nông dân. 31 32 PHẦN 1ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CUA BIỂNI. Đặc điểm hình thái cấu tạo và phân loại Cua biển thuộc: - Ngành: Arthropoda- Lớp: Crustacea- Lớp phụ: Malacostraca- Bộ: Decapoda (mười chân)- Họ: Portunidae- Giống: ScyllaCua biển có tên tiếng Anh là mud-crab, green crab, hay mangrove crab; tên tiếng Việt gọi là cua biển, cua sú, cua xanh, cua bùn, loài phân bố chủ yếu ở vùng biển nước ta là loài Scylla paramamosain (cua sen) và loài Scylla olivacea (cua lửa). Hai loài nầy có kích thước lớn. Cua có thân hình dẹp theo hướng lưng bụng. Toàn bộ cơ thể được bao bọc trong lớp vỏ kitin dầy và có màu xanh lục hay vàng sẫm. Cơ thể cua được chia thành hai phần: phần đầu ngực và phần bụng.- Phần đầu ngực: là sự liên hợp của 5 đốt đầu và 8 đốt ngực nằm phía dưới mai. + Do ranh giới giữa các đốt không rõ ràng nên việc phân biệt các đốt có thể dựa vào số phụ bộ trên các đốt: đầu gồm có mắt, anten, và phần phụ miệng. + Mai cua to và phía trước có nhiều răng. Trước mai có hai hốc mắt chứa mắt có cuống và hai cặp râu nhỏ (a1) và râu lớn (a2). Trên mai chia thành nhiều vùng bằng những rãnh trung gian, mỗi vùng là vị trí của mỗi cơ quan.+ Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng và làm thành vùng lõm ở giữa để chứa phần bụng gập vào. 31 32 + Cua đực có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc của đôi chân bò thứ 5 và dính vào đó một dương vật ngắn. + Cua cái có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc đôi chân bò thứ 3. - Phần bụng: Phần bụng của cua gấp lại phía dưới phần đầu ngực. Phần bụng phân đốt và tùy từng giới tính, hình dạng và sự phân đốt cũng không giống nhau. + Con cái trước thời kỳ thành thục sinh dục phần bụng (yếm) có hình hơi vuông, khi thành thục yếm trở nên phình rộng với 6 đốt bình thường. + Con đực có yếm hẹp hình chữ V, chỉ có các đốt 1,2 và 6 thấy rõ còn các đốt 3, 4, 5 liên kết với nhau.+ Đuôi có một đốt nhỏ nằm ở tận cùng của phần bụng với một lỗ là đầu sau của ống tiêu hóa. Bụng cua dính vào phần đầu ngực bằng 2 khuy lõm ở mặt trong của đốt 1, móc vào 2 nút lồi bằng kitin nằm trên ức cua. II. Đặc điểm sinh học1. Tập tính sống Vòng đời cua biển trãi qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập tính sống, cư trú khác nhau.- Ấu trùng Zoea và Mysis: sống trôi nổi và nhờ dòng nước đưa vào ven bờ biến thái thành cua con.- Cua con: bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rúc vào gốc cây, bụi rậm đồng thời với việc chuyển từ đời sống trong môi trường nước mặn sang nước lợ ở rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay ngay cả vùng nước ngọt trong quá trình lớn lên.- Cua đạt giai đoạn thành thục: có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển sinh sản. Cua có khả năng bò lên cạn và di chuyển rất xa. Đặc biệt, vào thời kỳ sinh sản cua có khả năng vượt cả rào chắn để ra biển sinh sản.- Ấu trùng Zoea thích hợp với độ muối từ 25-30‰, cua con và cua trưởng thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2-38‰. Tuy nhiên, trong thời kỳ đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ 22-32‰. Cua biển là loài phân bố rộng, tuy nhiên, nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-300C. Cua chịu đựng pH từ 7.5-9.2 và thích hợp nhất là 8.2-8.8. Cua thích sống nơi nước chảy nhẹ, dòng chảy thích hợp nhất trong khoảng 0.06 - 1.6m/s.2. Tính ăn - Tính ăn của cua biến đổi tùy theo giai đoạn phát triển. Giai đoạn ấu trùng, cua thích ăn thực vật 31 32 và động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn tạp như rong tơ, giáp xác, nhuyển thể, cá hay ngay cả xác chết động vật. Cua con cỡ 2-7cm ăn chủ yếu là giáp xác, cua cỡ 7-13cm thích ăn nhuyễn thể và cua lớn hơn thường ăn cua nhỏ, cá - Cua có tập tính trú ẩn vào ban ngày và kiếm ăn vào ban đêm. Nhu cầu thức ăn của chúng khá lớn nhưng chúng có khả năng nhịn đói 10-15 ngày.- Cảm giác, vận động và tự vệ. - Cua có đôi mắt kép rất phát triển có khả năng phát hiện mồi hay kẻ thù từ bốn phía và có khả năng hoạt động mạnh về đêm. Khứu giác cũng rất phát triển giúp phát hiện mồi từ xa. Cua di chuyển theo lối bò ngang. Khi phát hiện kẻ thù, cua lẩn trốn vào hang hay tự vệ bằng đôi càng to và khỏe. 3. Lột xác và tái sinh- Quá trình phát triển cua trải qua nhiều lần lột xác biến thái để lớn lên. Thời gian giữa các lần lột xác thay đổi theo từng giai đoạn. Ấu trùng có thể lột xác trong vòng 2-3 hoặc 3-5 ngày/lần. Cua lớn lột xác chậm hơn nửa tháng hay một tháng một lần. Sự lột xác của cua có thể bị tác động bởi 3 loại kích thích tố: kích thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đẩy lột xác và kích thích tố điều khiển hút nước lột xác.- Đặc biệt, trong quá trình lột xác cua có thể tái sinh lại những phần đã mất như chân, càng Cua thiếu phụ bộ hay phụ bộ bị tổn thương thường có khuynh hướng lột xác sớm hơn nên có thể ứng dụng đặc điểm này vào trong kỷ thuật nuôi cua lột. 4. Sinh trưởng của cua Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4 năm qua mỗi lần lột xác. Trọng lượng cua tăng trung bình 20-50%. Kích thước tối đa của cua biển có thể từ 19-28cm với trọng lượng từ 1-3kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ khoảng 7.5-10.5 cm. Với kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng carapace thì cua đực nặng hơn cua cái.31 32 31 32 PHẦN 2KỸ THUẬT NUÔI CUA BIỂNCua biển phân bố nhiều ở vùng biển nước ta, trong đó là cua xanh có tên khoa học là Scylla serrata (Forskal) là loài có kích thước tương đối lớn, có giá trị kinh tế cao I. XÂY DỰNG AO NUÔI- Ao nuôi cua con thành cua thương phẩm thường có diện tích từ 500m2 đến 5000m2. Đây là hình thức nuôi thâm canh: thả giống, cho ăn tích cực, chăm sóc quản lý chặt chẽ.- Ao nuôi cần được xây dựng ở vùng dễ thay nước nhờ vào thuỷ triều để giảm chi phí. Ở những vùng có nguồn nước sạch, không bị ô nhiễm công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt, ít sóng gió mạnh và dòng chảy lớn. - Bờ ao được đắp bằng đất (cũng có thể xây gạch nếu có khả năng đầu tư), bờ cần được nén kỹ để chống mội, rò rỉ và sạt lỡ. - Chân bờ ao rộng từ 3-4m, chiều cao từ 1.5 đến 2m, cao hơn mực nước triều cao nhất ít nhất là 0.5m. Mỗi ao nuôi nên có hai cống ở hai đầu đối diện nhau, nếu ao hình chữ nhật thì hai cống sẽ đặt ở hai bờ thuộc chiều rộng. Cống thoát đặt sát đáy và thông với kênh trong ao. - Phía trong ao, cách bờ 2-3m đào một kênh rộng 3-4m bao quanh ao. Ở giữa ao đắp một cồn nổi cao hơn mặt nước ao 0.2-0.3m. Trong kênh nên bỏ thêm chà cho cua ẩn nấp. Làm đăng chắn quanh bờ không cho cua vượt bờ ra ngoài, có thể dùng lưới mùng loại thưa bao quanh, đăng tre, …. Đăng chắn phải nghiêng về phía trong ao một góc 600, đăng phải cao từ 0.8-1m.- Tuỳ theo độ phèn của đáy ao mà có cách xử lý cho phù hợp, nếu pH của đất dưới 6 thì rải vôi bột 31 32 (CaCO3) cho đáy ao: tháo cạn nước rải vôi đều trên đáy ao, cả lòng kênh và mép bờ ao. Lượng vôi rải từ 7-10 kg/100m2 ao. Phơi đáy ao 2-3 ngày, sau đó cho nước ra vào 3-4 lần xả sạch nước phèn.Độ mặn của nước: cua con trong giai đoạn sinh trưởng sống ở vùng nước lợ mặn 15- 25‰. Tuy vậy cua chịu sự thay đổi độ mặn rất lớn, cua sống và phát triển tốt ở độ mặn 5‰ đến 30‰.II. THẢ GIỐNGNguồn cua giống cung cấp cho nghề nuôi cua chủ yếu dựa vào nguồn giống tự nhiên. Nguồn cua giống thu được ở hàng đáy, ghe cào ở các cửa sông, tìm bắt ở các bãi sình vùng ngập mặn.Cua giống có các cỡ:- Loại nhỏ 60-120 con/kg;- Loại vừa 25-50 con/kg;- Loại lớn 10-15con/kg. Tốt nhất là nên thu mua cua giống từ vùng lân cận và sau khi đã đánh bắt được chuyển nhanh về nơi thả nuôi. Tính toán số lượng cần thả đặt mua trong mấy ngày liên tục để thả cua vào ao nuôi trong thời gian tương đối ngắn.Trong từng ao nên thả cua cùng cỡ. Cũng có thể chọn cỡ cua theo mong muốn ngay ở nơi cung cấp cua giống, hoặc tuyển chọn trước lúc thả nuôi.III. MẬT ĐỘ THẢCua nhỏ 3-5 con/m2, loại vừa 2-3 con/m2, cỡ lớn 0.5-1 con/m2. Thả giống ở nhiều điểm khác nhau trong ao. Cắt bỏ dây buộc, buông từ từ cua trên mép bờ để cua tự bò xuống nước. Đây là cách để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của cua: những con khoẻ mạnh nhanh chóng chạy xuống nước, những con yếu thường nằm tại chổ hoặc bò chậm. Những con như vậy thu lại cho vào giai để theo dõi, nếu phục hồi thì thả xuống ao. Mỗi ao nên thả giống trong một hai ngày cho đủ số lượng.31 32 IV. QUẢN LÝ, CHĂM SÓC- Cho ăn: cua nuôi trong ao chủ yếu dựa vào thức ăn cung cấp hàng ngày, lượng thức ăn tự nhiên trong ao không có nhiều. Thức ăn chủ yếu là thức ăn tươi sống: cá vụn, còng, ba khía, đầu cá … - Lượng thức ăn hàng ngày khoảng 4 – 6% trọng lượng cua, cua thường hoạt động bắt mồi vào buổi tối. Mỗi ngày cho cua ăn một lần vào thời gian từ 17 – 19h. - Thức ăn được rải đều quanh ao để cua khỏi tranh nhau. Có thể dùng sàng ăn để kiểm tra sức ăn của cua. - Định kỳ thu mẫu để tính sản lượng cua có trong ao mà điều chỉnh lượng thức ăn cho vừa đủ. Sau 2-3 giờ cho ăn kiểm tra sàng ăn, nếu cua ăn hết thức ăn trong sàng thì có thể tăng lượng thức ăn, nếu thức ăn vẫn còn thì giảm lượng thức ăn.- Hàng ngày phải cho cua ăn, không được để cua đói. Những cua lớn bị đói sẽ giết những cua nhỏ ăn thịt. Vì vậy nuôi cua phải có thức ăn dự trữ. Những ngày không có thức ăn tươi sống thì cho cua ăn thức khô : cá vụn, tép, moi phơi khô. Trước lúc rải xuống ao cho cua ăn nên ngâm cá khô vào nước vài chục phút cho cá mềm ra.- Việc đảm bảo môi trường nước trong sạch rất quan trọng đối với cua, nhất là nuôi mật độ dày cho ăn thức ăn tươi sống. Ở những nơi có thuỷ triều lên xuống, hằng ngày cần thay nước thường xuyên. Mỗi ngày thay từ 20-30% lượng nước trong ao. Một tuần thay toàn bộ nước trong ao một lần. Khi thay nước nên lấy nước ở tầng dưới và tầng giữa tránh lấy nước ở tầng mặt hay bị ô nhiễm. Nước mới trong sạch kích thích cua hoạt động, ăn nhiều, lột xác tốt.- Thường xuyên kiểm tra tình trạng bờ, cống, rào chắn tránh thất thoát cua.- Trong thời gian nuôi, khoảng 2 tuần một lần bắt cua cân đo để xem sinh trưởng của cua, xem xét tình trạng của cua: cua nhanh nhẹn, không bị ký sinh ngoài vỏ, xem trong xoang mang có bị ký sinh 31 32 hay không. Nếu có hiện tượng bị nhiễm bệnh thì phải tìm nguyên nhân và biện pháp xử lý.- Thời gian cuối của vụ nuôi trọng lượng cua trong ao tăng lên, cho ăn thức ăn nhiều nên môi trường rất dễ bị nhiễm bẩn. Cho nên việc thay nước thường xuyên kiểm tra môi trường rất có ý nghĩa. Trong một số trường hợp, đáy ao tích tụ nhiều thức ăn thừa, thối rữa, có thể phải tháo cạn, gạn cua và làm vệ sinh đáy ao: cào bỏ lớp bùn trên mặt và thức ăn thừa thối rữa đi.V. THU HOẠCHĐánh thử cua lên kiểm tra chất lượng. Cua thương phẩm phải đạt 250g/con trở lên. Cua chắc thịt hoặc đã đầy gạch (cua cái). Khi thấy cua đã đạt tiêu chuẩn, được giá thì thu hoạch cua để bán.Những cua chưa đạt kích thước, trọng lượng, cua ốp hoặc chưa đầy gạch nếu còn khoẻ mạnh thì có thể đem nuôi ở các ao nhỏ, nuôi vỗ tích cực sau một thời gian đạt tiêu chuẩn thu hoạch bán sẽ được giá hơn.Nuôi cua thương phẩm từ cua con, thời gian từ 3 – 8 tháng thường tỉ lệ hao hụt tương đối lớn (40 – 60%) nhưng trọng lượng cua tăng từ 3 – 4 lần (tăng từ 60-80g/con lên 250-350g/con). Tổng trọng lượng của cua thương phẩm tăng từ 1.5 – 2 lần tổng trọng lượng cua giống.Một số điểm cần chú ý để nuôi cua thành công:- Cua giống phải đồng cỡ, thả cùng một lúc;31 32 - Phải có đủ nguồn nước trong sạch để thay thường xuyên;- Phải có đủ nguồn thức ăn tươi sống;- Phải có đăng chắn ở trên bờ ao;- Trong ao phải có các ụ chà làm nơi trú ẩn cho cua.PHẦN 3KỸ THUẬT NUÔI CUA LỘTI. AO NUÔICó 3 loại ao nuôi:- Ao nuôi cua nguyên liệu: Diện tích 500-1.000m2, sâu 0,8-1m. Ao có 2 cống cấp và thoát nước. Bờ và xung quanh ao rào chắn phên, đăng lưới để chống thất thoát cua.- Ao nuôi cua tạo "nu" (cua tái sinh càng chân): Diện tích 200-300m2, sâu 0,6-0,8m, có 2 cống cấp, thoát nước. Ao có hình chữ nhật, chiều dài gấp 4-5 lần chiều rộng để dễ thu hoạch cua. Đáy ao bằng phẳng, hơi dốc về phía cống thoát nước, nền đáy là đất thịt pha sét, lớp bùn dày không quá 15cm.- Ao nuôi cua lột: Có diện tích 150-200m2, ngoài ra có thể nuôi trong lồng với kích thước (1,5-2)m chiều dài x (1-1,2)m chiều rộng x (0,5-0,7)m chiều cao; làm bằng tre, ngập nước 0,25-0,3m.31 32 II. KỸ THUẬT NUÔI1) Nuôi cua nguyên liệuCua nguyên liệu được thu gom ở các ao nuôi cua thịt để phục vụ cho nuôi cua lột, theo tiêu chuẩn: khối lượng 50-100g/con, không bị tổn thương ở mai, có đầy đủ các chân, càng, cua bò di chuyển nhanh nhẹn.- Cua thường lột quanh năm nhưng tập trung vào từ tháng 3-7, nên phải tuyển chọn cua nguyên liệu đưa vào nuôi từ tháng 2.- Mật độ nuôi từ 10-12 con/m2.- Thức ăn nuôi cua là cá tạp, moi, ốc, nhuyễn thể Khẩu phần thức ăn chiếm 3-4% khối lượng cua nuôi. Ngày cho cua ăn 2 lần vào sáng và chiều tối.2) Nuôi cua tạo nuVào mùa cua lột, chọn cua nguyên liệu đưa vào ao tạo nu.- Trước khi thả nuôi cần tiến hành kích thích cua tạo nu như sau: bắt từng con cua, dùng kìm bẻ nhẹ đôi càng, những đôi chân bò, chỉ để lại chân bơi. Chú ý khi bẻ dùng kìm dẹp phân giữa của càng hoặc chân bấm nhẹ, không được kẹp sát mai hay bẻ quá mạnh làm tổn thương đến việc tái sinh càng và chân. Tiếp đó đặt cua vào khay men chứa 5-10cm nước.- Sau đó đem cua đã bẻ càng và chân thả vào ao nuôi nu. Mật độ nuôi từ 25-50 con/m2, mực nước trong ao nuôi nu 0,6-0,8m. Thay nước cho ao nuôi hàng ngày theo lịch thuỷ triều.- Cho cua ăn cá tạp hoặc đầu tôm, nhuyễn thể, rau củ băm nhỏ, trộn đều. Khẩu phần thức ăn và số lần cho ăn giống như nuôi cua nguyên liệu.- Sau khi nuôi được từ 7-10 ngày, kiểm tra cua nếu thấy càng và chân đã tái sinh nhú mầm (mọc nu), chuyển cua sang nuôi ở ao hoặc lồng nuôi để cua lột.3) Nuôi cua lột (trong lồng)- Bắt những con cua đã nhú mầm tái sinh càng, chân thả vào lồng nuôi.- Mật độ 3-5kg/m3 lồng.- Cho cua ăn bình thường và thường xuyên theo dõi cua lột xác. Nếu thấy càng, chân tái sinh hoàn chỉnh, mai cua khô giòn có vết nứt vòng quanh mai là cua chuẩn bị lột xác.- Sau khi cua lột xác 1-2 giờ phải nhanh chóng nhặt cua đem bảo quản.31 32 - Dụng cụ bảo quản cua lột gồm: thùng gỗ kích thước 1,5x1,8x0,4m, trong thùng có lót lớp vải.- Cua được xếp vào thùng theo từng lớp, giữa các lớp lót một lớp lá làm lớp đệm, được rửa sạch và còn ướt để giữ ẩm.- Khi xếp cua vào thùng không để ánh sáng chiếu vào cua và gió lùa vào thùng.Nếu điều kiện bảo quản tốt thì cua có thể để được trong 92 giờ.PHẦN 4KỸ THUẬT SẢN XUẤT CUA GIỐNGTrại sản xuất cua giống nên xây dựng ở gần biển, có nguồn nước biển tốt, ở vùng đầm phá, rừng ngập mặn ven biển có nhiều cua sinh sống, gần vùng nuôi cua, có điều kiện giao thông thuận lợi, có nguồn điện lưới quốc gia, an ninh tốt.31 32 I. TUYỂN CHỌN VÀ NUÔI VỖ CUA BỐ MẸCó thể tuyển chọn cua cái đã giao vĩ, lên gạch hoặc cua cái so (cua yếm vuông) nuôi chung với cua đực đã thành thục sinh dục, để cua cái so lột xác, giao vĩ, lên gạch đẻ trứng.1. Nuôi cua cái đã giao vĩ - Chọn cua cái đã giao vĩ: trước mùa sinh sản vào khoảng tháng 8, 9 cua cái đã giao vĩ có tuyến sinh dục phát triển, thường đánh bắt được ở vùng cửa sông, vùng biển ven bờ. Chọn những con cua cái lên gạch tốt, khỏe mạnh còn nguyên càng, chân bò, chân bơi, tốt nhất là chọn những con cua vừa đánh bắt được, chuyển về ao hoặc các bể xi măng để nuôi vỗ. Những con cua cái như vậy thường có trọng lượng từ 250-800g. Tuỳ theo số lượng cần thiết mà chọn cua, tốt nhất là chọn đủ số lượng cho một đợt cho đẻ để cùng thả nuôi một lần.- Nuôi trong ao: + Tùy theo số lượng cua nuôi cho đẻ mà xây dựng ao có diện tích tương ứng. Nhưng để dễ dàng quản lý và chăm sóc nên xây dựng ao có diện tích từ 100 đến 500m2, sâu từ 1,2 đến 1,5m. Ao phải được xây dựng ở nguồn nước tốt, có độ mặn từ 20 đến 30‰ đất sét hoặc pha cát. Nếu gặp nơi đất sình thì phải kiểm tra độ phèn và các độc tố và có biện pháp cải tạo, bờ ao được đắp chắc chắn: chặt, không bị mội, chân bờ rộng tối thiểu 2m, mặt bờ 0,8-1m. Dùng đăng tre cao trên 0,8m (hoặc lưới) làm hàng rào chắc trên bờ và miệng cống, ngăn không cho cua bò ra ngoài. Ở giữa ao nên để một "cù lao" (chiếm 1/10 diện tích ao) có cây bụi để cua có chỗ ẩn, bò lên cạn. Ao nên đặt hai cống: lấy nước và xả nước. + Trước khi thả cua nuôi cần dọn tẩy ao, xả nước nhiều lần, tháo hết nước, rải vôi một ở đáy và bờ ao (1kg/10 m vuông) phơi 1-2 ngày, cho nước vào rửa lại ao, kiểm tra độ pH đạt 7,5-8,5 là thích hợp. Mật độ nuôi: 2-5m2/ con.- Nuôi trong lồng: + Có thể nuôi cua cái đã giao vĩ trong lồng. Lồng làm bằng tre hoặc các vật liệu khác (lưới thép không rỉ, nhựa compozid, v.v ) bảo đảm vững chắc chịu được nước mặn và dòng chảy. + Lồng thường có kích thước: dài 3m x rộng 2m x cao 1,2m, có phao nâng để lồng không bị chìm, có miệng lồng rộng 0,5m2, có neo chắc chắn để neo giữ. Lồng có thể chia ra những ô nhỏ để nuôi riêng từng con, cũng có thể nuôi chung. + Lồng được đặt ở chỗ có nguồn nước lưu thông: ở dọc bờ sông, trong các eo vịnh đầm phá, ở 31 32 gần cống các đầm nuôi thủy sản v.v độ sâu tối thiểu 1,5m, lúc triều xuống vẫn giữ được mực nước trên 0,5m. Mật độ 2-4 con/ m3.- Nuôi trong bể xi măng: + Bể xi măng có kích thước diện tích từ 4 đến 30m2, cao 1,3m, có thể hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn có mái che toàn bộ hoặc một phần. Đáy bể rải một lớp cát 3-5cm, sắp một số gạch để làm chỗ ẩn cho cua, đáy có van xả để thay nước. Mực nước trong bể từ 0,7 đến 1m, có hệ thống sục khí. Có thể nuôi chung hoặc chia ô để nuôi riêng từng con. Mật độ 2 con/m3. Nuôi trong bể xi măng dễ chăm sóc quản lý nhưng phải có điện và cấp nước chủ động và thường số lượng cua không lớn.- Chăm sóc, quản lý: khi ao, lồng, bể đã chuẩn bị xong thì chọn đủ số lượng cua cần nuôi để thả vào ao, lồng, bể một lúc. Thường cua đánh bắt được buộc dây và có khi có đất, sình bám vào, rửa cua sạch sẽ, cắt bỏ dây và buông nhẹ cua vào ao, lồng, bể, tránh làm gãy càng, chân cua.- Nếu áp dụng phương pháp cắt mắt để ép đẻ thì có thể tiến hành trước lúc thả cua vào ao nuôi, dùng lưỡi dao lam sắc đã sát trùng cắt một đường vào giữa con mắt, dùng tay bóp mạnh hoặc kẹp bóp hết dịch ở mắt ra, sát trùng cho vết cắt.- Thức ăn của cua rất đa dạng, cua thích ăn động vật: cá, tôm, cá loại nhuyễn thể (nghêu, sò, vẹm ) và một số thực vật thủy sinh. Cá lớn cắt thành miếng nhỏ, còng gỡ bẻ đôi, vẹm, nghêu, sò xẻ ra lấy thịt rải đều khắp ao cho cua ăn. Số lượng thức ăn mỗi lần từ 2-5% trọng lượng cua, tùy theo chất lượng thức ăn. Khi kiểm tra thấy cua ăn hết thì có thể cho thêm, nếu thức ăn còn thừa thì giảm. Thường cho cua ăn vào buổi chiều tối, cua sẽ tìm mồi ăn về đêm. Buổi sáng kiểm tra nếu còn thức ăn thừa thí vớt bỏ đi. Không nên để cua đói: cho ăn thiếu hoặc không cho ăn một ngày. Thiếu ăn cua có thể cắn nhau làm gãy càng, chân, thậm chí ăn thịt đồng loại.- Cần theo dõi kỹ các yếu tố của môi trường nước. Cua chuẩn bị sinh sản cần được nuôi trong nước biển có độ mặn từ 25 đến 32‰, độ pH từ 7,5 đến 8,5 hàm lượng ôxy hoà tan không dưới 5mg/l, nhiệt độ nước từ 270C đến 300C, không để nước bị nhiễm bẩn hữu cơ và vô cơ. Cần thay nước trong ao nuôi, trong bể: mỗi ngày thay 20 đến 30% nước, một tuần nên thay nước toàn bộ và vệ sinh bể, đáy ao. Cua nuôi trong bể xi măng nên sục khí nhẹ.- Tùy theo mức độ chín muồi của tuyến sinh dục của cua lúc đưa vào nuôi mà sau thời gian từ 10 ngày (có khi ngắn hơn) đến hai tháng cua để trứng.31 32 2. Nuôi cua cái so (cua yếm vuông) lột xác tiền giao vĩ cho giao vĩ phát dục để sinh sản- Cua cái so có trọng lượng từ 150 đến 200 gram, trước mùa sinh sản thường di cư ra vùng cửa sông, ven biển ghép đôi với cua đực đã thành thục sinh dục, lột xác, giao vĩ, phát triển buồng trứng và đẻ trứng. - Chọn những con cua cái so nguyên vẹn, khỏe mạnh chắc (sắp cốm), đồng thời chọn những con cua đực to (từ 300 đến 700g) nguyên vẹn khỏe mạnh theo tỉ . Ao, lệ 2 cái/ 1 đực đem thả nuôi trong ao, lồng, bể với mật độ như nuôi cua gạch (cua cái đã giao vĩ). Ao, lồng, bể nuôi cua cái so cũng được xây dựng như để nuôi cua gạch đã trình bày ở mục 1. - Cách chăm sóc, cho ăn cũng tương tự như nuôi cua cái đã giao vĩ. Đáng chú ý là nuôi cua cái so sắp cốm, chuẩn bị lột xác tiền giao vĩ ăn rất ít hoặc không ăn, nhưng chúng cần được yên tĩnh để ghép đôi. Trong thời gian từ 5-10 ngày đến một tháng cua cái so (sống cùng cua đực) hoàn thành ghép đôi, lột xác và giao vĩ. Trong bể xi măng có thể quan sát quá trình ghép đôi, lột xác và giao vĩ. Cua đực dùng càng, chân ôm lên lưng cua cái, tha cua cái đi. Sự ghép đôi có thể kéo dài vài ba ngày, chỉ trước lúc cua cái lột xác cua đực mới buông cua cái ra và ở cạnh để bảo vệ, và ngay sau khi cua cái lột xác xong, cua đực lật ngửa cua cái ra ôm chặt, cua cái mở yếm ra và xảy ra sự giao vĩ . Quá trình giao vĩ kéo dài 4-5 giờ đến 1-2 ngày. Sau đó cua đực buông cua cái ra nhưng vẫn ở cạnh. Trong mùa sinh sản một cua đực có thể giao vĩ với nhiều cua cái.- Đem cua cái đã giao vĩ ra nuôi riêng, chăm sóc cho ăn để tuyến sinh dục phát triển, chín và đẻ trứng. Từ lúc giao vĩ đến lúc đẻ trứng phải kéo dài 2-3 tháng hoặc hơn nữa. Sau khi lột xác kích thước cua cái tăng lên đột ngột và trong quá trình phát dục trọng lượng của cua cũng tăng lên đáng kể (từ 70 đến 150% so với cua cái so).II. ĐẺ TRỨNG - Điều kiện của ao, lồng, bể nuôi vỗ cua ở giai đoạn cuối cần được kiểm tra chặt chẽ, bảo đảm nước sạch, độ mặn từ 25-32‰, pH = 7,5-8,5, lượng oxy hoà tan trên 5mg/lít, nhiệt độ nước 28-300C, độ sâu của nước trong ao 1,2-1,5m trong bể xi măng 0,7-1m. - Trong bể xi măng có thể quan sát thấy cua đẻ trứng. Cua mở yếm ra hết độ, ép mình xuống, phần trước đầu ngực hơi dướn lên, càng và chân tì vào đáy, bắt đầu đẻ trứng và thụ tinh. Trứng đẻ ra thụ tinh và hoạt hóa, niêm dịch giữa hai lớp màng linh 31 32 hoạt, làm cho màng ngoài có sức dính và với tác động của ngoại lực kéo ra làm cho trứng dính vào lông tơ của chân bụng bằng "cuống trứng", nhờ vậy mà các hạt trứng vẫn rời nhau tự do. - Quá trình đẻ trứng diễn ra ở đáy ao, đáy bể và kéo dài từ 30 phút đến 2 giờ, cua đẻ trứng tốt, trứng dính đều, dày trên tất cả các lông tơ của các chân bụng và có rất ít trứng rơi ra ở dưới đáy, không dính được vào lông chân bụng. Ngược lại, trường hợp đẻ trứng không tốt, trứng chỉ bám một ít vào một số lông tơ của chân bụng, còn phần lớn trứng đẻ ra rơi trên đáy. Ở những cua cái đẻ trứng tốt buồng trứng dày có dạng hình "tán nấm" tròn làm cho yếm cua mở ra rất rộng, những cua cái đẻ trứng kém, trứng bám ít, có dạng hình "trăng khuyết", yếm mở hẹp.III. NUÔI CUA ÔM TRỨNG - Do cua có đặc tính ôm trứng (thực chất là ôm phôi phát triển) một thời gian khá dài (từ 10-20 ngày tùy thuộc điều kiện môi trường, trong đó chủ yếu là nhiệt độ nước) nên trong mùa sinh sản, trong khai thác người ta đánh bắt được cả cua ôm trứng. Có thể thu những cua ôm trứng trong tự nhiên, bảo quản tốt đưa về ấp nở để nhận ấu trùng, sản xuất cua giống.- Cua ôm trứng nuôi riêng từng con, có thể nuôi trong giai đoạn giai thả dưới ao, ngăn bể thành những ô nhỏ để tiết kiệm diện tích, tốt nhất là nuôi riêng mỗi con trong một bể xi măng có thể tích từ 0,5 đến 1m3. - Môi trường nước cần được quản lý chặt chẽ: độ mặn 30‰ ± 2‰ , oxy hòa tan trên 5mg/lít (sục khí nhẹ thường xuyên), pH = 7,5-8,5, nhiệt độ 29 ± 10C, giữ yên lặng nơi nuôi cua. Cho cua ăn đầy đủ, thức ăn có chất lượng cao: thịt nghêu, mực, tôm. Mỗi ngày cho ăn một lần vào buổi chiều tối, thu bỏ thức ăn thừa vào buổi sáng. Thay nước 20-30% hàng ngày.- Theo dõi quá trình phát triển của phôi. Để xác định chất lượng của trứng phôi cần quan sát dưới kính hiển vi: 2-3 ngày 1 lần, xác định "tốc độ" phát triển của phôi, tỉ lệ trứng bị hỏng, nhiễm bệnh: nấm, vật ký sinh và có biện pháp xử lý. Cũng có thể đánh giá tốc độ phát triển của phôi qua sự biến đổi màu sắn của buồng trứng vàng sáng, vàng sẫm, xám tro và cuối cùng là xám đen. Màu sắc của buồng trứng chuyển đồng đều chứng tỏ buồng trứng tốt, phát triển đồng đều. Buồng trứng chuyển đều sang màu xám đen tức là phôi đã phát triển đến giai đoạn "mọc mắt" và trong một hai ngày sau là nở ra ấu trùng.31 32 - Trong điều kiện nhiệt độ nước từ 28 đến 300C, sau khi đẻ trứng từ 10-12 ngày nở ra ấu trùng Zoea 1.- Đối với cua ôm trứng thu ngoài tự nhiên cần vận chuyển tốt: chứa vào xô nước biển (lấy nước nơi bắt cua), cho ít nước và thay nước nhiều lần, sục khí, khống chế nhiệt, tránh nhiệt độ nước lên trên 300C trong lúc vận chuyển. Trước khi cho cua ôm trứng vào bể ương ấp nên xử lý cua ôm trứng: cho cua vào xô nước biển có pha formaline 20ppm trong thời gian 20-30 phút. Xem màu sắc của trứng và lấy một ít trứng quan sát dưới kính hiển vi để xác định giai đoạn phát triển và chất lượng của trứng phôi, dự kiến ngày nở của ấu trùng để chuẩn bị các điều kiện ương nuôi tiếp theo một cách chủ động. Điều kiện và cách nuôi cua ôm trứng thu được ngoài tự nhiên cũng giống như nuôi cua ôm trứng cho đẻ nhân tạo.IV. ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG THÀNH CUA BỘT 1- Công việc ương nuôi ấu trùng Zoea 1 thành cua bột 1 là công đoạn quan trọng và đòi hỏi nhiều yếu tố kỹ thuật sinh học chặt chẽ. Có thể ương nuôi ấu trùng thành cua bột trong ao đất, trong bể xi măng (bể composite). Ở đây chủ yếu trình bày qui trình ương nuôi trong bể xi măng và trên cơ sở đó có thể tiến hành các biện pháp kỹ thuật tương tự để ương nuôi trong ao ở những nơi có điều kiện.Ương nuôi trong bể xi măng- Hiện nay ở nước ta chưa có cơ sở nào xây dựng một trại sản xuất giống nhân tạo loài cua biển (Scylla serrata). Trên cơ sở nghiên cứu thử nghiệm đạt kết quả, chúng tôi nhận thấy có thể sử dụng hệ thống thiết bị trại sản xuất giống các loài tôm biển để sản xuất cua giống. 1. Thu nhận ấu trùng Zoea 1 từ cua mẹ "ôm trứng"- Bể xi măng có thể tích 1-2m3 được làm vệ sinh sạch, khử trùng chlorine, dẫn nước biển có độ mặn 30‰ đã được xử lý: lắng lọc, khử trùng bằng chlorine hoặc tia cực tím, cho EDTA 10ppm, 31 32 pH = 7,5-8,5, nhiệt độ 29-300C, sục khí nhẹ, đều. Chuyển cua mẹ ôm trứng sắp nở (thường từ ngày 9-11 kể từ lúc cua đẻ trứng) vào bể xi măng trên.- Trước đó xử lý cua ôm trứng bằng dung dịch formaline 20ppm trong 15 đến 20 phút. Cua ôm trứng ở trong bể cần được yên tĩnh, không cho ăn. Trong thời gian 1-2 ngày thì ấu trùng nở. Quá trình này thường kéo dài từ 2-4 giờ, cũng có trường hợp kéo dài từ 8-10 giờ. Quan sát thấy mật độ ấu trùng đã "dày", bắt cua mẹ lên kiểm tra, nếu cua đã thải hết ấu trùng, yếm đã đóng lại thì đưa cua vào bể nuôi cua bố mẹ để nuôi vỗ tiếp.- Ấu trùng Zoea vừa mới nở có màu đen (do đôi mắt kép to có nhiều sắc tố đen làm cho ta thấy ấu trùng có màu đen) bơi lội trong tầng nước giữa và trên mặt. - Ấu trùng có đặc tính hướng quang mạnh. Dùng tấm che có màu tối che phần lớn miệng bể xi măng lại, dùng bóng đèn 100W chiếu ở phần miệng bể còn lại. Ấu trùng sẽ tập trung về phần bể có chiếu sáng. Dùng ống siphon thu ấu trùng vào thùng nhựa đã được khử trùng. Thường ấu trùng yếu nằm ở đáy, không bơi được đến vùng chiếu sáng. Những ấu trùng yếu loại bỏ đi. Cần đếm số ấu trùng thu được trước lúc đưa vào bể ương. Lấy tấm vải đen bọc kín thùng nhựa chứa ấu trùng trong vòng 10 phút, dùng tay đảo nước trong thùng nhựa ba vòng theo một chiếu và một vòng theo chiều ngược lại, dùng ống đong 100ml lấy đầy nước có ấu trùng vào ống đong, đem đếm số ấu trùng trong ống đong. Làm như vậy ba lần và lấy số trung bình của ba lần đếm. - Biết được thể tích nước chứa ấu trùng trong thùng nhựa suy ra số ấu trùng thu được. Thường cua mẹ có trọng lượng 300g-350g, đẻ và ấp trứng tốt có thể thu được 60-80 vạn ấu trùng, trọng lượng 500g-700g, có thể thu được 100-160 vạn ấu trùng.2. Ương nuôi ấu trùng Zoea : từ Zoea 1 đến Zoea 531 32 2.1. Chuẩn bị bể, nguồn nước, thức ăn cho ấu trùng- Dự tính được ngày ấu trùng nở, công việc chuẩn bị bể ương, nguồn nước thức ăn, thuốc phòng bệnh cần được thực hiện chu đáo (hệ thống bể ương ấu trùng được xây dựng trong nhà có mái che, có tường bao, cách ly tốt với xung quanh, chỉ để một cửa vào và một cửa ra có đèn cực tím sát trùng. Số lượng và sức chứa của hệ thống bể ương phụ thuộc vào qui mô sản xuất của trại giống. Nên xây các bể có diện tích khác nhau: 2m khối, 4 m khối, 8m khối, 16 m khối v.v )- Bể ương được làm vệ sinh: rửa, ngâm chlorine, rửa sạch. Nước biển có độ mặn 30‰ ±1‰ lọc (nếu ở nơi cấp nước, nguồn nước đục phải cho vào bể lắng "hoặc ao lắng" để lắng trước lúc bơm vào lọc, xử lý): sỏi, cát, than hoạt tính, xử lý chlorine 20ppm: sục khí 48 giờ cho bay hết mùi clo, nếu chưa hết phải sục khí tiếp, cho 10ppm EDTA.- Dẫn nước vào bể ương ấu trùng: mực nước ao 0,6-0,8m, tính thể tích nước trong bể để đưa đủ số lượng ấu trùng vào theo mật độ ương hợp lý. Sục khí đều, 1m3 nước đặt 1 vòi sục khí.- Thức ăn của ấu trùng Zoea của cua là tảo khuê, luân trùng (loài luân trùng nước lợ: Branchionus plicatilis), ấu trùng naupli của Artemia. Có thể dùng thức ăn chế biến công nghiệp dùng cho ấu trùng tôm biển để cho ấu trùng cua ăn: bột tảo Spirulina, thức ăn tổng hợp dạng vi nang của hãng MAXIMA (Mỹ).- Tảo khuê và luân trùng cần ương nuôi trước để khi ấu trùng cua nở có đủ số lượng cung cấp cho cả thời gian ương kéo dài trong 12 ngày đầu.2.2 Ương nuôi ấu trùng Zoea 1 đến Zoea 5- Mật độ ương: Ương nuôi ấu trùng cua từ Zoea 1 đến Zoea 5 trong bể xi măng có sục khí có thể ương mật độ từ 80-120 con/lít. Trong quá trình ương ấu trùng có thể bị hao hụt từ 20 đến 50%. Theo dõi mật độ ấu trùng trong bể ương từng giai đoạn và có thể giảm bớt lượng nước hoặc chuyển ấu trùng sang bể có kích thước nhỏ hơn để bảo đảm mật độ thích hợp, giảm được lượng thức ăn cho vào bể.- Cho ăn: Tảo khuê Chaetoceros và Skeletonema costatum ương trong bể tảo để ngoài trời thường đạt đỉnh cao vào ngày thứ 3 (phụ thuộc thời tiết). Thu tảo lúc tảo sắp đạt đỉnh cao bằng lưới phytoplankton cỡ 100, đem xử lý bằng formol 20ppm trong 10 phút rồi đem rãi đều vào bễ ương. Thường dùng 10 lít tảo cho 1 m khối nước ương. Sục khí nhẹ, đều. Chuyển ấu trùng vừa đếm được vào bể. Sau khoảng 6-8 giờ cho luân trùng vào bể ương. Luân trùng thu được từ bể ương cho vào chậu nước sạch, độ mặn 31 32 20-25‰ lọc sạch, xử lý dung dịch frmol 20ppm trong 10 phút, cho vào bể ương ấu trùng, rãi đều khắp bể, mật độ luân trùng 15 con/ml. Mỗi ngày cho ăn 2 lần: sáng 8 giờ, chiều 14 giờ.+ Cho ấu trùng ăn tảo khuê trong thời gian 6 ngày đầu.+ Cho ấu trùng ăn luân trùng trong thời gian 12 ngày đầu.+ Từ ngày 12 trở đi giảm lượng luân trùng xuống 1/2 và cho naupli của Artemia và bể ương, mật độ 10-15 con/ml. Đến ngày 14 ngừng cho thức ăn luân trùng, tăng mật độ naupli của Artemia lên 20con/ml.- Vệ sinh bể thay nước hằng ngày làm vệ sinh bể: dùng mút mềm cọ rữa thành, đáy bể, xi phông cặn bã ở đáy. Khi làm vệ sinh có thể dùng đèn chiếu sáng một đầu bể cho ấu trùng tập trung lại và cọ rữa phía tối không có ấu trùng. Khi xi phông ấu trùng có thể ra theo nên dùng bình lọc để thu lại. Hai ngày đầu không thay nước, ngày thứ 3 thay 30% lượng nước, ngày thứ 5 thay 30%, ngày thứ 7 thay 30%. Và tiếp tục thay cách ngày như vậy cho đến ngày thứ 17. Tùy theo độ nhiễm bẩn của nước, tình trạng phát triển và nhiễm bẩn của ấu trùng mà thay nước 100% hay không. Nếu ấu trùng phát triển tốt, lột xác đều, sinh trưởng tương đối đồng đều, không bị nhiễm bệnh, bơi lội khỏe thì hạn chế thay nước nhiều. Nếu ấu trùng bị bệnh thì sử dụng các loại thuốc kháng sinh và đặc biệt kiểm tra nguồn nước và thức ăn kỹ trước lúc cho vào bể ấu trùng.- Theo dõi các yếu tố của môi trường nước, bảo đảm độ mặn 30‰ ±1‰, nhiệt độ nước 290C ±10C, pH = 7,5-8,5, oxy hòa tan trên 5mg/lít trong suốt quá trình ương nuôi.- Từ Zoea 1 đến Zoea 5 ấu trùng lột xác 4 lần. Zoea 5 đã phát triển đầy đủ 5 đôi chân ngực, trong đó có đôi chân càng phát triển nhưng tất cả còn nằm trong giáp đầu ngực. Tập tính bơi lội của Zoea 5 vẫn giống các giai đoạn trước. Zoea 5 lột xác cho ấu trùng Megalops. Megalops có giáp đầu ngực dạng chữ nhật, có 5 đôi chân ngực, trong đó có đôi chân càng phát triển hoạt động bắt mồi và tự vệ. Đuôi thu ngắn nhưng rất linh hoạt là động lực chính để bơi lội. Megalops vừa bơi lội, vừa bám vào thành, giá thể, vừa bò cả lên thành, trên đáy.- Trong điều kiện nhiệt độ nước 29-300C từ lúc nở đến lúc xuất hiện ấu trùng Megalops đầu tiên từ 16-18 ngày.- Nếu ấu trùng Zoea nở ra chất lượng tốt, ương nuôi tốt từ Zoea 1 đến Zoea 5 có thể đạt tỉ lệ sống 45-60%, thường chỉ đạt 35-40%, thậm chí còn thấp hơn.31 32 2.3 Ương nuôi Zoea 5 lên cua bột 1 - Khi phát hiện thấy Megalops đầu tiên xuất hiện thì chuyển toàn bộ ấu trùng ra bể ương lớn hơn hoặc đưa ra ương ở ao đất, để làm giảm mật độ, tránh ấu trùng Megalops nở trước ăn ấu trùng Zoea chưa chuyển sang Megaplos. - Trong bể lớn rải một lớp mỏng cát sạch ở phần sát thành bể (đã chừa lại khoảng đáy giữa bể không có cát), thả nhiều tấm lưới mùng có phao cho phân cắt bể ra thành nhiều phần, thả một số chùm sợi nylon nhỏ làm giá thể, tạo nơi bám cho ấu trùng Megalops. Mật độ ương từ 15.000 đến 20.000 ấu trùng/m3. - Nước được xử lý như giai đoạn đầu, có thể giảm dần độ mặn xuống 28 rồi 20‰ trong thời ương Megalops. Thức ăn gồm ấu trùng 2 ngày tuổi Artemia sinh khối, thức ăn chế biến: thịt nghêu, tôm xay nhỏ trộn với lồng đỏ trứng gà, vitamin, hấp chín, rây nhỏ cho ăn. Lượng thức ăn: Artemia và ấu trùng 50 con/lít/ngày, thức ăn chế biến 5g/m3/ngày, mỗi ngày cho ăn 2 lần: sáng và chiều. Tăng dần lượng thức ăn chế biến, giảm dần ấu trùng Artemia. Sục khí, làm vệ sinh bể hàng ngày, rửa bể, xiphông thức ăn thừa, thay 30% nước hàng ngày.- Sau 8-12 ngày phần lớn megalops lột xác biến thành cua bột 1.- Tỷ lệ sống từ Zoea 5 đến cua bột 1 thường đạt 50% có khi còn thấp hơn 40-30%, tùy thuộc chủ yếu vào việc cách ly (giảm mật độ) Megalops trong giai đoạn dầu.V. ƯƠNG NUÔI CUA BỘT THÀNH CUA GIỐNG 1. Chuẩn bị ao - Giai đoạn này chỉ nên ương nuôi cua trong ao đất. Cua bột có hình thái giống cua trưởng thành. Cua thích sống ở đáy, (chất đáy cát pha bùn), hoặc bám vào các thực vật thủy sinh, cua bột có thể sống được ở nước có độ mặn 15‰ hoặc thấp hơn, ăn các động vật nhỏ và thức ăn chế biến, rong, tảo. - Ao ương cua bột lên cua giống có thể xây bên cạnh ao nuôi cua thịt. Ao ương có diện tích 200 đến 500m2, sâu 0,8-1,2m. Bờ ao đắp chắc chắn ở giữa để cù lao đất 20% trên diện tích ao, cao hơn mực nước triều cao nhất 0,3-0,5m. Xây 2 cống lấy và thoát nước, có lưới chắn. Trên bờ ao, ở mép trong chắn lưới mùng cao trên 0,7m, chếch về phía trong ao 1 góc 650C. Vệ sinh ao: bón vôi, diệt tạp, bón phân, cho nước vào qua lưới lọc, độ sâu 0,6-0,8m. Ao được chuẩn bị một tuần trước khi cho cua bột xuống.- Mật độ ương nuôi: 200-300 con/m2. Cua bột từ trại giống được vận chuyển có thể bằng túi nhựa 31 32 nylon có oxy hoặc bằng khay ẩm, tùy khoảng cách giữa trại giống đến ao ương. Độ mặn của ao ương không được sai lệch với trại giống quá 5‰. Cua bột đem rải đều quanh ao theo số lượng đã tính trước.2. Cho ăn và chăm sóc - Trong ao ương cua giống có thể gây màu nước cho phù du động vật phát triển làm thức ăn tự nhiên cho cua, nhưng chủ yếu phải cho cua ăn thức ăn chế biến từ các loại bột, cám, thịt cá, tôm, còng, nhuyễn thể xay nhỏ nấu chín. Thức ăn đem rải ven ao. Mỗi ngày cho ăn từ 6-10% trọng lượng cua, chia làm 2 lần: sáng sớm và chiều tối. Số lượng thức ăn tăng dần theo sinh trưởng, tăng trọng của cua. Có thể dùng giai đoạn cho ăn để kiểm tra sức ăn của cua để tăng giảm lượng thức ăn.- Thay nước hằng ngày 20-30% nước, kiểm tra pH, oxy, nhiệt độ, độ mặn, bờ ao, chống mội, xói lở, hỏng rào, bệnh và các dịch hại vào trong ao, ngăn ngừa bắt cắp.Khoảng 10 ngày cân, đo đánh giá sinh trưởng của cua một lần. Từ 30 đến 35 ngày cua đạt chiều rộng mai 2,5-3,0cm. Trọng lượng 5g. Tỷ lệ sống đạt 40-60%. Cỡ cua này có thể chuyển sang ao lớn để nuôi cua thịt.- Nếu cần cua giống cỡ lớn hơn thì phải san cua ra ao lớn hơn và nuôi mật độ thấp hơn.PHẦN 5KỸ THUẬT NUÔI GHÉP CUA XANH VỚI TÔM SÚCua xanh (Scylla spp) là đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, được nuôi ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, là nguồn cung cấp thực phẩm tươi sống và là nguồn thu nhập quan trọng của cộng đồng cư dân ven biển. Ở nước ta, người dân một số địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An đã nuôi cua xanh từ rất lâu, hầu hết nuôi theo hình thức quảng canh, năng suất thấp, trung bình 120 – 150 kg/ha; nguồn cua giống thả hoàn toàn dựa vào khai thác ngoài tự nhiên. Năm 2003, các nhà khoa học nước ta đã nghiên cứu thành công và hoàn thiện công nghệ sản xuất giống cua xanh. Do chủ động nguồn cua giống nhân tạo, nghề nuôi cua xanh đã phát triển mạnh với nhiều hình thức như nuôi ghép với tôm sú, nuôi ghép với cá, nuôi trong hệ sinh thái ngập mặn, nuôi chuyên canh, đạt năng suất 1,5 – 2 tấn/ha.31 32 Dưới đây là hình thức nuôi ghép cua xanh với tôm sú, đạt năng suất 1 tấn/ha để bà con cùng tham khảo. Mô hình này được áp dụng cho tất cả các tỉnh ven biển trong cả nước.I. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG- Môi trường ao nuôi: + Chất đáy của ao là bùn cát, độ lún 10 - 15 cm Độ mặn dao động 15 – 25 ‰. + Các chỉ tiêu thủy hóa: pH = 8,0 - 8,5, nhiệt độ nước 26 - 300C, NH3 - N, NO2, H2S < 0,02 mg/lít, ôxy hòa tan 6 mg/lít.+ Độ sâu nước: 0,8 - 1,5 m. - Diện tích ao nuôi: Từ 0,3 - 1 ha, mỗi ao có 1 - 2 cống cấp và thoát nước.II. KỸ THUẬT NUÔI- Vị trí ao nuôi: Chọn ao nuôi ở vùng trung triều hoặc hạ triều để thuận lợi cho việc cấp và thoát nước, giao thông đi lại, cung cấp thức ăn và tiêu thụ sản phẩm dễ dàng. - Cải tạo ao và vệ sinh diệt tạp: Do ao nuôi thường ở vị trí trung triều nên sẽ rất khó tháo cạn nước để phơi đáy ao diệt tạp, do đó cần tiến hành tẩy dọn ao bằng cách dùng saphonin diệt tạp với liều lượng 10 - 15 g/m3, thời gian xử lý 24 - 36 giờ. Bón vôi để khử chua và diệt tạp với liều lượng 1.000 - 1.500 kg/ha, tùy thuộc vào pH của đất và nước. Dùng lưới 2a = 1cm, khổ 0,5 - 0,7m chắn quanh bờ ao để bảo vệ, lưới chắn có góc nghiêng vào trong lòng ao 450 nhằm đảm bảo cua trong ao không thể bò qua được.Cấp nước vào ao nuôi: Trước khi cấp nước vào ao cần tiến hành kiểm tra cống cấp và thoát nước, dùng lưới 2a = 2mm để chắn và bảo vệ không cho địch hại vào ao nuôi. Trong 2 tháng đầu duy trì mức nước ao 0,8 – 1m, sau đó tăng dần nước đạt 1 – 1,4 m.- Thả giống:Kích cỡ con giống: Cua giống có độ rộng vỏ đầu ngực (mai cua) đạt 17 - 20mm, trọng lượng 0,8 - 1g/con; tôm giống cỡ PL15 trở lên. Mật độ thả 0,5 con cua/m2 nuôi ghép với 10 con tôm sú/m2. Thời điểm thả giống: Thả cua giống trước 45 ngày, sau đó mới thả tôm giống.31 32 III. CHO ĂN VÀ QUẢN LÝ CHĂM SÓC- Cho ăn: + Thức ăn dùng để nuôi cua và tôm là cá tạp, nhuyễn thể, giáp xác kích thước nhỏ, thức ăn tổng hợp dạng viên. Tỷ lệ trộn thức ăn cho cua ăn: cá tạp 50 - 60%, nhuyển thể 30 - 40%, giáp xác 10%. Để đảm bảo cua phát triển tốt cần bổ sung thức ăn tổng hợp dạng viên. + Lượng thức ăn cho ăn hàng ngày phụ thuộc vào kích cỡ của cua và tôm, tăng dần trong khi nuôi nhưng tỷ lệ % thức ăn cho ăn so với trọng lượng của cua giảm dần; thường cho ăn 3 - 10% trọng lượng thân. + Thời gian cho ăn: Dựa vào tập tính của cua và tôm hoạt động tìm mồi vào sáng sớm và chiều tối nên cho cua và tôm ăn 2 lần/ngày vào lúc 7 - 9 giờ và 17 - 18 giờ. Nếu thức ăn dư thừa cần vớt khỏi ao nuôi sau 10 giờ tính từ lúc cho ăn. + Phương pháp cho ăn: Cho cua ăn trên sàng ăn, sàng được bố trí đều trong ao nuôi, khoảng cách giữa các sàng là 4 - 7m - Chế độ kiểm tra, thay nước: Hàng ngày kiểm tra các yếu tố môi trường như pH, độ sâu của ao, độ mặn…Thay 1/3 - 2/3 nước cũ và cấp nước mới, thay nước 3 - 5 ngày liên tục trong mỗi kỳ con nước.IV. THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN SẢN PHẨM- Thu hoạch cua: Sau 4 tháng nuôi, tiến hành thu hoạch cua đực đạt cỡ thương phẩm để giảm dần mật độ. Thu bằng cách cho thức ăn vào sàng để cua vào ăn, sau đó kéo sàng lên để bắt những con đạt tiêu chuẩn. - Thu hoạch tôm: Sau 2,5 - 3 tháng nuôi, dùng đăng hình chữ A thu hoạch tôm đạt kích cỡ thương phẩm bằng Đó hoặc Hom, trong Đó, Hom đặt một cây đèn dầu để dẫn dụ tôm vào. - Bảo quản sản phẩm: Sau khi thu hoạch, trói cua bằng dây đay hoặc dây chuối…, tùy theo thời gian bảo quản mà có thể trói tất cả các chân bò (đôi càng) và chân bơi hoặc cũng có thể chỉ trói đôi chân bò; để cua trong bóng mát, giữ độ ẩm. Đối với tôm sú thì bảo quản sống bằng cách sục ôxy.31 32

Video liên quan

Chủ đề