Bảo vệ di sản văn hóa thế giới

Ngày 26/12, tại Hà Nội, Hội Di sản Văn hóa Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội tổ chức hội thảo "20 năm bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam: Từ UNESCO đến cộng đồng".

Hội thảo là hoạt động nhân kỷ niệm 20 năm Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO – Công ước 2003 được thông qua.

Hội thảo khoa học “20 năm bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam: Từ UNESCO đến cộng đồng” nhằm góp phần đánh giá việc thực hiện Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 của UNESCO trong 20 năm qua; liên hệ với Luật Di sản văn hóa; chỉ ra sự tác động của Công ước đối với công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam. BTC Hội thảo mong muốn sẽ đề xuất được các khuyến nghị và kế hoạch hành động, nhằm nâng cao hiệu quả trong bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa.

Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS Đỗ Văn Trụ, Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam nhấn mạnh: Cách đây 20 năm, tại phiên họp lần thứ 32 tại Paris (Cộng hòa Pháp), Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã thông qua Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể - Văn bản mang tính pháp lý quốc tế và là sự cam kết của các quốc gia thành viên về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Ngày 5/9/2005, Việt Nam chính thức tham gia Công ước, trở thành một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới gia nhập Công ước quan trọng này và đã 2 lần trúng cử vào Ủy ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.

“Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của Công ước. Tinh thần của Công ước đã bước đầu vận dụng vào Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 và vào thực tiễn hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở nước ta, với những kết quả bước đầu rất đáng ghi nhận. Việt Nam cũng là quốc gia thành viên đầu tiên trong số 181 quốc gia thành viên của Công ước tính đến thời điểm này, tổ chức kỷ niệm 20 năm Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, với nhiều hoạt động phong phú, thiết thực từ Trung ương tới các địa phương liên quan trong năm 2023…”, PGS.TS Đỗ Văn Trụ nhấn mạnh.

Tại hội thảo, các nhà khoa học khẳng định: Việt Nam là một trong những quốc gia sớm đưa nội dung về di sản văn hóa phi vật thể vào Luật Di sản văn hóa (2001, 2009). Nhiều nội dung về di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Luật. Luật Di sản văn hóa dành riêng một chương để quy định về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Đồng thời, các nội dung về di sản văn hóa phi vật thể quy định trong Luật Di sản văn hóa đã góp phần quan trọng vào thành quả bảo vệ di sản văn hóa nói chung trong suốt hơn 20 năm qua, làm cân bằng hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, phù hợp với tinh thần, quy định của Công ước 2003, được quốc tế đánh giá cao, góp phần bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, tạo bức tranh chung, đa dạng văn hóa của nhân loại.

Một trong những sự kiện nổi bật đánh giá về công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam là tháng 12/2017, Hát Xoan Phú Thọ trở thành di sản đầu tiên được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và sau đó ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Với kết quả nêu trên, Việt Nam đã đóng góp kinh nghiệm cũng như thể hiện nỗ lực cho việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà quản lý, cộng đồng, nghệ nhân cũng đã đối thoại đa chiều và khách quan, nhằm chia sẻ thông tin, thảo luận nhận diện các thách thức, tồn tại trong công tác bảo vệ di sản những năm qua; chia sẻ các trường hợp điển hình về thực hành tốt và bài học kinh nghiệm, với điểm nhấn là thành phố Hà Nội.

Hội thảo cũng đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, trong đó có việc điều chỉnh và sửa đổi Luật Di sản văn hóa.

Căn cứ 7 loại hình này, nếu di sản đáp ứng được 4 tiêu chí: Thể hiện sự đa dạng văn hóa và sự sáng tạo của con người, được kế tục qua nhiều thế hệ; có khả năng phục hồi và tồn tại lâu dài; được cộng đồng đồng thuận, tự nguyện đề cử và cam kết bảo vệ, thì các địa phương có thể lập hồ sơ trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch (VH-TT-DL) xem xét, ghi danh vào danh mục di sản VHPVT quốc gia theo quy định tại Thông tư 04, năm 2010.

Đến nay, khoảng 70.000 Di sản VHPVT được kiểm kê trên cả nước, trong đó có 498 di sản được đưa vào danh mục Di sản VHPVT quốc gia, 15 di sản được UNESCO ghi danh tại danh mục Di sản VHPVT đại diện của nhân loại và Di sản VHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp.

Chia sẻ về phát huy vai trò di sản trong phát triển kinh tế - xã hội, bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản, Bộ VH-TT-DL, nhấn mạnh Việt Nam đã là điểm đến về du lịch di sản hàng đầu của thế giới, đặc biệt với sự kiện vịnh Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh và quần đảo Cát Bà thuộc TP Hải Phòng chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

Theo Cục trưởng Cục Di sản, UNESCO ghi nhận Việt Nam là quốc gia thành viên rất có kinh nghiệm và trách nhiệm trong bảo vệ di sản thế giới. Tổng Giám đốc UNESCO cho rằng Việt Nam có thể được coi là mô hình mẫu vừa bảo tồn di sản vừa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.

"Di sản chính là nguồn tài nguyên rất quý giá gắn với phát triển du lịch để phát triển kinh tế - xã hội. Gìn giữ, phát huy giá trị những di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh cũng là một hình thức quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam đến thế giới. Đó là một giải pháp rất tốt trong định vị thương hiệu quốc gia, khẳng định vị thế của văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế" - Cục trưởng Cục Di sản nhấn mạnh.

Trước mong muốn di sản trở thành một lĩnh vực có đóng góp tích cực trong chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, bà Lê Thị Thu Hiền gợi ý có thể tính đến việc làm hồ sơ ghi danh cho nghề may áo dài hay tập quán sử dụng áo dài, tri thức dân gian nấu phở hay làm bún chả, nem...

"Nếu được ghi danh, những di sản VHPVT này sẽ cùng di sản văn hóa vật thể góp phần định vị thương hiệu quốc gia, khẳng định, giới thiệu quảng bá giá trị văn hóa phong phú, đặc sắc của dân tộc cũng như hình ảnh đất nước con người Việt Nam" - bà Hiền cho hay.

Đời sống nghệ nhân vẫn khó

Làng gốm Bàu Trúc thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Đây là một trong những làng nghề cổ xưa nhất Việt Nam vẫn duy trì hoạt động sản xuất hoàn toàn bằng phương pháp thủ công. Làng có khoảng 400 hộ dân, trong đó 70% người dân biết làm gốm.

Cụ Trượng Thị Gạch (81 tuổi) - một trong những nghệ nhân lớn tuổi nhất của làng gốm Chăm Bàu Trúc, cho biết cái khó nhất của nghề làm gốm là phải luôn mày mò, sáng tạo để tạo ra những sản phẩm tươi mới, không rập khuôn. Do làm hoàn toàn bằng tay, không dùng bàn xoay nên mỗi sản phẩm là một ý tưởng không giống nhau,. Điều này đòi hỏi người làm gốm phải chỉn chu, chịu khó, tỉ mỉ khi tạo hình các sản phẩm, trong khi giá trị sản phẩm chưa mang lại thu nhập đủ tốt.

Theo ông Phú Hữu Minh Thuần - Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc HTX Gốm Chăm Bàu Trúc, kể từ khi dòng gốm mỹ nghệ được đưa vào sản xuất song song với dòng gốm gia dụng thì đời sống của bà con làng nghề phần nào cải thiện. Tuy nhiên, nhìn chung đời sống của nghệ nhân vẫn còn khó khăn, thu nhập thiếu ổn định.

Bên cạnh là di sản VHPVT quốc gia, tháng 11-2022, UNESCO đã ghi danh Di sản "Nghệ thuật làm gốm của người Chăm" vào danh sách Di sản VHPVT cần bảo vệ khẩn cấp.

"Tôi tin sau khi được UNESCO công nhận là Di sản VHPVT thì làng gốm Bàu Trúc sẽ được nhà nước quan tâm đầu tư hơn, nhất là về vốn, nguyên liệu cũng như các chính sách khác" - ông Thuần bày tỏ.

Cách Bàu Trúc gần 100 km, làng gốm Đức Bình (xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình, Bình Thuận) cũng được ghi danh là Di sản VHPVT quốc gia. Gốm Đức Bình cũng của người Chăm, được lưu truyền qua nhiều đời theo mẫu hệ. Làng gốm Đức Bình hiện còn 43 hộ với 46 người đang làm gốm thường xuyên với phương pháp thủ công hoàn toàn. Việc được UNESCO đưa nghệ thuật làm gốm Chăm vào danh sách Di sản VHPVT cần được bảo vệ khẩn cấp giúp nhiều hộ trong thôn, trong làng phấn khởi, vững tin giữ lửa nghề.

Kiểm tra chất lượng nước mắm truyền thống tại một doanh nghiệp sản xuất ở TP Phú Quốc (Kiên Giang) Ảnh: Quốc Trần

Cần kinh phí lớn

Tỉnh Khánh Hòa có lễ hội cầu ngư, lễ Bỏ mả của người Raglai, lễ hội Tháp Bà Ponagar được công nhận là Di sản VHPVT quốc gia. Ông Lê Văn Hoa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Khánh Hòa, cho biết việc thực hiện cam kết phát huy giá trị di sản VHPVT, tỉnh Khánh Hòa triển khai nhiều đề án bảo vệ.

Theo ông Nguyễn Tuấn Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa, lễ hội Tháp Bà được phát huy tốt, trở thành điểm hội tụ các giá trị truyền thống của quá trình giao lưu văn hóa Việt - Chăm trong lịch sử.

Riêng lễ Bỏ mả của người Raglai, ông Lê Văn Hoa đánh giá đây là một tập tục có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của từng người Raglai. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, người Raglai có nhiều điều kiện giao lưu với các nền văn minh khác thì các lễ hội này cũng bị mai một đi nhiều. Lý do vì để làm được một lễ Bỏ mả lớn cần nhiều kinh phí, trong khi đời sống khó khăn. Hiện Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Khánh Hòa và UBND các huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh - hai huyện có đồng bào Raglai cư trú - đang có kế hoạch tổ chức đề án triển khai hỗ trợ về nhân lực, kinh phí nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ Bỏ mả của người Raglai; phòng văn hóa của các huyện này đang thường xuyên tổ chức các lớp truyền dạy cách đánh chiêng, hát Akhat juca (hát kể Trường ca Raglai)... nhằm bảo tồn vốn văn hóa dân gian Raglai trong cộng đồng.

Tại các tỉnh ở Tây Nguyên, trước sự phát triển mạnh mẽ của âm nhạc hiện đại, cồng chiêng Tây Nguyên cũng như một số loại âm nhạc dân tộc đang có nguy cơ mai một nên cần có những giải pháp mạnh để bảo tồn và phát huy giá trị kiệt tác của nhân loại.

Ông Trần Đức Nhật - Phó Chủ tịch UBND TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - cho biết không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận. Cho nên, bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ là bảo tồn những bộ cồng chiêng mà còn là các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng, những địa điểm tổ chức các lễ hội đó.

Nhằm giữ gìn và phát huy giá trị không gian văn hóa cồng chiêng, TP Buôn Ma Thuột đã có nghị quyết chuyên đề về bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng. Trong đó, tập trung đầu tư cho giữ gìn bản sắc văn hóa theo hướng "buôn trong phố, phố trong buôn". Cùng đó, tiếp tục quan tâm đầu tư cho 33 buôn của TP Buôn Ma Thuột giữ gìn không gian nhà dài, bến nước, văn hóa đặc trưng của dân tộc Ê Đê, tô đậm thêm giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.

Trong khi đó, ông Lại Đức Đại, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Đắk Lắk, cho biết trong các buôn làng, những người biết đánh cồng chiêng còn rất ít và tuổi cao, sức yếu. Chính sách ưu đãi cho các nghệ nhân và kinh phí dành cho bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống còn hạn hẹp. Nếu không có giải pháp cụ thể, những giá trị văn hóa truyền thống đứng trước nguy cơ mai một.

Cụ Trượng Thị Gạch là một trong những nghệ nhân lớn tuổi nhất của làng gốm Chăm Bàu Trúc, Ninh ThuậnẢnh: Châu Tỉnh

Tiêu chí phải rõ

Liên quan đến đề xuất công nhận các làng nghề làm nước mắm thủ công của Việt Nam là Di sản VHPVT mà dư luận đang quan tâm, PGS-TS Trần Đáng, Chủ tịch Hiệp hội Nước mắm Việt Nam, cho hay để nâng tầm nước mắm Việt Nam thì việc công nhận này là cần thiết.

Theo PGS-TS Trần Đáng, dựa vào thực tế là nước mắm đã có tại Việt Nam từ ít nhất là thế kỷ thứ X, phổ biến vào thế kỷ thứ XVII - đáp ứng tiêu chí đầu tiên về bề dày lịch sử. Thứ hai, đó là nghề thủ công. Thứ ba, công nghệ sản xuất được lưu truyền liên tục nhiều đời, hình thành nên nhiều làng nghề sản xuất nước mắm như vùng: Phú Quốc (Kiên Giang), Nha Trang (Khánh Hòa), Thanh Hóa, Đà Nẵng, Nam Định… Thứ tư, nước mắm là sản phẩm được gần 100% dân số Việt Nam sử dụng, không có chống chỉ định; có thị trường khoảng 5 triệu kiều bào và ngày nay có đến 40% các đầu bếp phương Tây cũng sử dụng nước mắm làm gia vị.

"Từ 4 tiêu chí trên nên chúng tôi mới dự định đề xuất cơ quan có thẩm quyền công nhận nghề làm nước mắm thủ công là Di sản VHPVT. Nếu được công nhận, các làng nghề làm nước mắm sẽ được tôn vinh, góp phần thu hút khách trong và ngoài nước đến nhiều hơn" - ông Đáng bày tỏ.

Cũng theo ông Đáng, hiệp hội với tư cách là người trong cuộc sẽ đề xuất các cơ quan chức năng, phối hợp lập hồ sơ, cung cấp tư liệu và đây là một chương trình dài hơi. "Đời mình chưa làm xong thì con cháu sẽ thực hiện" - ông Đáng nhấn mạnh.

Còn TS Trần Thị Dung, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Nước mắm truyền thống Việt Nam, cho biết sau khi "Nghề làm nước mắm Phú Quốc" được nhận bằng Di sản VHPVT quốc gia vào tháng 12-2022, các hội viên trong hiệp hội có ý tưởng làm sao để nghề làm nước mắm Việt Nam cũng được công nhận là di sản. Tuy nhiên, đó chỉ mới là ý tưởng do Hiệp hội Nước mắm truyền thống Việt Nam nguồn lực hạn hẹp, đang tập trung cho công tác xây dựng tiêu chuẩn nên chưa triển khai gì.

Tại TP Đà Nẵng, làng nghề nước mắm Nam Ô (phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu) được công nhận là Di sản VHPVT quốc gia vào năm 2019. Ông Trần Ngọc Vinh, Chủ tịch Hội Làng nghề nước mắm Nam Ô, cho hay từ ngày được công nhận là di sản, làng nghề được quan tâm đầu tư hơn từ khâu sản xuất đến phân phối ra thị trường. Các hộ trong làng nghề đã thay đổi từ khâu nhận diện thương hiệu, thay chai đựng từ chất liệu nhựa sang thủy tinh để giữ nguyên hương vị tự nhiên của nước mắm. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã hình thành từ làng nghề thay vì hộ kinh doanh nhỏ lẻ như trước. Chính quyền địa phương đang làm chỉ dẫn địa lý cho làng nghề để quảng bá mạnh hơn sản phẩm của địa phương.

Ông Bùi Thanh Phú, chủ thương hiệu nước mắm Hương Làng Cổ ở làng nghề nước mắm Nam Ô, cho biết từ ngày được công nhận di sản, làng nghề được nhiều người biết hơn. Việc sản xuất và kinh doanh có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên, việc sản xuất của các hộ trong làng vẫn mang tính chất manh mún, không có liên kết. Ông Phú đề xuất chính quyền cần có một khu sản xuất tập trung để có thể nâng cao chất lượng cũng như sản lượng của làng nghề.

Trước khi Hiệp hội Nước mắm Việt Nam đưa ra ý tưởng trên thì nghề làm nước mắm truyền thống hơn 200 năm của Phú Quốc đã đón nhận bằng Di sản VHPVT quốc gia từ tháng 12-2022. Hiện cơ quan chức năng địa phương và Hội Nước mắm Phú Quốc đang phối hợp xúc tiến để lập hồ sơ trình UNESCO công nhận nghề làm nước mắm Phú Quốc là Di sản VHPVT thế giới.

Ông Nguyễn Văn Sáu, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Kiên Giang, cho biết: "Nghề làm nước mắm truyền thống ở Phú Quốc phải trải qua cả một quá trình lịch sử và được ghi nhận, không dễ dàng để được công nhận là di sản VHPVT quốc gia. Nếu đánh đồng tất cả nghề sản xuất nước mắm đều là di sản thì nỗ lực của các làng nghề nước mắm truyền thống như Phú Quốc trở nên vô nghĩa".

Ông Đặng Thành Tài, quyền Chủ tịch Hội Nước mắm Phú Quốc, cho hay nếu công nhận nghề làm nước mắm thủ công chung chung là Di sản VHPVT thì rất khó thuyết phục, phải làm rõ cơ sở nguồn gốc làm ra nước mắm đó từ đâu, lịch sử hình thành như thế nào, gắn liền với vùng miền ra sao và sự độc đáo của nó được xã hội thừa nhận. Còn nếu chỉ nói chung chung thì cơ sở nào để gọi là di sản?

Thẩm quyền thuộc địa phương

Bà Lê Thị Thu Hiền cho biết theo quy định hiện nay, chủ tịch UBND tỉnh công bố danh mục di sản của địa phương, sau đó chỉ đạo giám đốc sở quản lý văn hóa lập hồ sơ khoa học đối với các di sản. Trên cơ sở hồ sơ khoa học đó, chủ tịch UBND tỉnh ký tờ trình và hồ sơ đề nghị Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL xem xét, quyết định ghi danh di sản vào danh mục Di sản VHPVT của quốc gia. Điều này đồng nghĩa với việc Hiệp hội Nước mắm Việt Nam không có thẩm quyền xây dựng hồ sơ trình Chính phủ công nhận nghề làm nước mắm là Di sản VHPVT.

Việt Nam có bao nhiêu di sản tư liệu thế giới?

Mộc bản là bản gỗ khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm ngược để in ra thành trang sách. Đây là kỹ thuật in ấn thời kỳ trước. Việt Nam đã có 9 di sản tư liệu được UNESCO vinh danh, trong đó 3 di sản là Di sản tư liệu thế giới và 6 di sản là Di sản tư liệu khu vực châu Á- Thái Bình Dương.

Hiện nay có bao nhiêu di sản văn hóa thế giới?

Tính đến tháng 7 năm 2016, thế giới có tất cả 1.052 di sản nằm ở 165 "quốc gia thành viên". Trong 1,052 di sản, có 814 di sản văn hóa, 203 di sản tự nhiên và 35 di sản hỗn hợp.

Bảo tồn di sản văn hóa như thế nào?

Khái niệm bảo tồn di sản văn hóa Bảo tồn di sản (heritage preservation) được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn có của nó.

Di sản văn hóa vật thể bao gồm những gì?

Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Chủ đề