An chay kiêng thịt có được ăn sáng không

Vi峄嘽 膬n chay v脿 ki锚ng c峄� th瓢峄漬g 膽i chung v峄沬 nhau nh瓢ng l脿 hai vi峄嘽 kh谩c nhau.
膫n chay v峄憂 l脿 m峄檛 t峄� b锚n Ph岷璽 Gi谩o v脿 膽茫 膽瓢峄 cha Alexandre de Rhodes gi岷g trong T峄� 膽i峄僴 Annam-B峄� 膼脿o Nha 鈥� Latinh nh瓢 sau: 膫n chay. 膼铆ch th峄眂 c贸 ngh末a l脿 ki锚ng th峄媡 v脿 c谩, nh瓢ng b芒y gi峄� 膽峄� ch峄� s峄� 膬n chay c峄 nh峄痭g Kit么 h峄痷.聽膫n chay (jejunium) c贸 ngh末a l脿 gi峄沬 h岷 l瓢峄g l瓢啤ng th峄眂 膽瓢峄 膬n v脿o nh峄痭g ng脿y c峄� th峄�. C貌n ki锚ng c峄� (abstinentia) c贸 ngh末a l脿 t峄� b峄� m峄檛 th峄ヽ 膬n kho谩i kh岷﹗ nh瓢 th峄媡, c谩, t么m鈥�

Show

An chay kiêng thịt có được ăn sáng không

膫n chay l脿 vi峄嘽 th峄眂 h脿nh ph峄� bi岷縩 c峄 h岷 h岷縯 c谩c t么n gi谩o. Tuy nhi锚n, m峄 膽铆ch c峄 vi峄嘽 膬n chay l岷 kh么ng gi峄憂g nhau. 膼峄慽 v峄沬 nh峄痭g tu s末 Ph岷璽 Gi谩o hay nhi峄乽 Ph岷璽 t峄� c贸 th贸i quen 膬n chay tr瓢峄漬g l脿 c峄� s谩t sinh kh么ng d霉ng nh峄痭g th峄ヽ 膬n c贸 ngu峄搉 g峄慶 t峄� 膽峄檔g v岷璽聽ho岷穋 kh么ng c贸 s峄� gi岷縯 ch贸c 膽峄檔g v岷璽 trong qu谩 tr矛nh ch岷� bi岷縩 v矛 l貌ng t峄� bi 膽峄慽 v峄沬 t岷 c岷� m峄峣 lo脿i ch煤ng sinh. Trong khi 膽贸 ng瓢峄漣 C么ng Gi谩o 膬n chay 膽峄� bi峄僽 l峄� l貌ng s谩m h峄慽, 膬n n膬n, t瓢峄焠g nh峄� 膽岷縩 cu峄檆 kh峄� n岷 c峄 Ch煤a Kit么. V矛 th岷� m脿 vi峄嘽 膬n chay hai b锚n kh谩c nhau n锚n kh么ng th峄� so s谩nh v矛 kh么ng c霉ng m峄 膽铆ch.

An chay kiêng thịt có được ăn sáng không

膼峄慽 v峄沬 Kit么 gi谩o, ban 膽岷 膽贸 l脿 m峄檛 vi峄嘽 l脿m t峄� nguy峄噉 c峄 gi谩o d芒n l芒u d岷 m峄沬 th脿nh th贸i quen trong H峄檌 Th谩nh. Sau 膽贸 膬n chay tr峄� th脿nh lu岷璽 bu峄檆. Vi峄嘽 膬n chay 膽瓢峄 岷 膽峄媙h cho su峄憈 M霉a Chay. T峄� Th岷� K峄� V 膽岷縩 Th岷� K峄� IX, ngo岷 tr峄� ng脿y Ch煤a Nh岷璽, m霉a n脿y ch峄� 膽瓢峄 d霉ng m峄檛 b峄痑 膬n, th瓢峄漬g l脿 b峄痑 t峄慽. Kh么ng 膽瓢峄 c贸 th峄媡, c谩 trong b峄痑 膬n v脿 c贸 n啤i c貌n c岷 c岷� tr峄﹏g c农ng nh瓢 c谩c s岷 ph岷﹎ t峄� s峄痑. 膼岷 Th岷� K峄� X, b峄痑 n脿y chuy峄僴 v峄� bu峄昳 tr瓢a. Kho岷g Th岷� K峄� XIV, bu峄昳 t峄慽 c贸 th峄� d霉ng m峄檛 b峄痑 膬n nh岷�. 膼岷縩 th峄漣 Trung C峄� th矛 b茫i b峄� lu岷璽 c岷 膬n c谩 v脿 c谩c s岷 ph岷﹎ t峄� s峄痑 nh瓢 b啤, ph贸 m谩t鈥�

Theo Gi谩o Lu岷璽 1917 th峄漣 膽贸 ch峄� 膽瓢峄 d霉ng m峄檛 b峄痑 ch铆nh 膬n no trong c谩c ng脿y m霉a Chay tr峄� Ch煤a Nh岷璽 v脿 hai b峄痑 膬n kh谩c kh么ng c贸 th峄媡 v脿 c农ng kh么ng 膬n nhi峄乽 nh瓢 c谩c b峄痑 膬n th么ng th瓢峄漬g. C谩c ng脿y ki锚ng th峄媡 l脿 c谩c ng脿y th峄� s谩u quanh n膬m c貌n trong m霉a Chay th锚m ng脿y th峄� B岷﹜ (x. Gi谩o Lu岷璽 c农 1250 鈥� 1254).

Lu岷璽 ki锚ng c峄� nghi锚m nh岷穞 v岷玭 膽瓢峄 tu芒n gi峄� cho t峄沬 ng脿y 17 th谩ng 2 n膬m 1966. V峄沬 T么ng Hi岷縩 Poetemini c峄 膼峄ヽ Gi谩o Ho脿ng Paul VI 膽茫 c贸 s峄� thay 膽峄昳 v峄� vi峄嘽 膬n chay v脿 ki锚ng th峄媡.

An chay kiêng thịt có được ăn sáng không

Ng脿y nay, vi峄嘽 膬n chay v脿 膽茫 膽瓢峄 gi岷 b峄泃 膽i ch峄� c貌n 2 ng脿y l脿 Th峄� T瓢 L峄� Tro v脿 Th峄� S谩u Tu岷 Th谩nh theo qui 膽峄媙h c峄 Gi谩o Lu岷璽 膽i峄乽 1251 nh瓢 sau:

Ph岷 ki锚ng th峄媡, hay ki锚ng c峄 膬n n脿o kh谩c theo qui 膽峄媙h c峄 H峄檌 膼峄搉g Gi谩m M峄, c谩c ng脿y th峄� s谩u trong n膬m, tr峄� khi nh峄痭g ng脿y 岷 tr霉ng v峄沬 m峄檛 ng脿y n脿o kh谩c trong s峄� nh峄痭g ng脿y l峄� tr峄峮g; c貌n lu岷璽 ki锚ng th峄媡 v脿 膬n chay th矛 ph岷 gi峄� ng脿y L峄� Tro v脿 ng脿y th峄� S谩u k铆nh cu峄檆 Kh峄� N岷 v脿 s峄� ch岷縯 c峄 Ch煤a Gi锚su Kit么 Ch煤a ch煤ng ta.

B岷 c贸 h峄廼 t岷 sao 膬n chay 铆t th岷� ch峄� c贸 hai ng脿y m峄檛 n膬m ? 膼峄峜 l岷 l峄媍h s峄� ch岷痗 b岷 c农ng th岷 r岷眓g 膽茫 c贸 th峄漣 gian vi峄嘽 膬n chay kh谩 nhi峄噈 nh岷穞. 膫n chay su峄憈 m霉a Chay v脿o th峄漣 k峄� m脿 l瓢啤ng th峄眂 kh么ng l岷 g矛 l脿m sung t煤c l岷痬. Tuy nhi锚n, n岷縰 膬n chay tr峄� th脿nh m峄檛 s峄� 谩p 膽岷穞 c峄﹏g ng岷痶 th矛 c农ng t岷 ra m峄檛 s峄� tu芒n th峄� mi峄卬 c瓢峄g v脿 gi岷� t岷. 膼么i khi c貌n d岷玭 膽岷縩 h矛nh th峄ヽ lu峄搉 l谩ch 膽峄� tr谩nh n茅 th铆 d峄� nh瓢 nh瓢 lu岷璽 kh么ng qui 膽峄媙h th峄漣 gian c峄 b峄痑 膬n n锚n ng瓢峄漣 ta c贸 th峄� k茅o d脿i m峄檛 b峄痑 膬n v脿i gi峄� 膽峄搉g h峄�.

Ch岷痗 b岷 c农ng t峄玭g g岷穚 tr瓢峄漬g h峄 c贸 nh峄痭g ng瓢峄漣 膬n chay 膽茫 ph岷 th峄ヽ ch峄� sau 12 gi峄� 膽锚m ng脿y th峄� T瓢 l峄� tro 膽峄� 膬n cho 膽峄� 膽贸i. Vi峄嘽 膬n chay h岷硁 kh么ng ph岷 l煤c n脿o c农ng d峄� d脿ng v峄沬 nhi峄乽 ng瓢峄漣. V岷瓂 th矛 vi峄嘽 qui 膽峄媙h b岷痶 bu峄檆 ch峄� c貌n 2 ng脿y cho th岷 Gi谩o H峄檌 gi岷 膽i vi峄嘽 b贸 bu峄檆 nh瓢ng v岷玭 cho b岷 膽瓢峄 t峄� do 膬n chay th锚m v脿o nh峄痭g ng脿y b岷 mu峄憂 h茫m m矛nh 膽峄� gi煤p b岷 l脿m ch峄� c谩c b岷 n膬ng v脿 ti岷縩 t峄沬 s峄� t峄� do n峄檌 t芒m, di峄卬 t岷� l貌ng th峄憂g h峄慽 v脿 hi峄噋 th么ng v峄沬 cu峄檆 T峄� N岷 c峄 Ch煤a. N岷縰 th岷 铆t, b岷 v岷玭 c贸 th峄� t峄� nguy峄噉 膬n chay nhi峄乽 h啤n. 膼芒u c贸 ai c岷 b岷! Mi峄卬 l脿 膽峄玭g l脿m h岷 s峄ヽ kho岷� th么i. 膼贸 ch铆nh l脿 vi峄嘽 膬n chay t峄� nguy峄噉 nh瓢 膽茫 膽瓢峄 th峄眂 hi峄噉 thu峄� ban 膽岷 c峄 H峄檌 Th谩nh khi ch瓢a c贸 lu岷璽 bu峄檆.

B脿i 膽峄峜 th锚m: Nh峄痭g 膽i峄乽 c岷 bi岷縯 v峄� ki锚ng th峄媡 v脿 gi峄� chay

V峄� vi峄嘽 ki锚ng th峄媡

膼i峄乽 1251: Ph岷 ki锚ng th峄媡, hay ki锚ng c峄 膬n n脿o kh谩c theo qui 膽峄媙h c峄 H峄檌 膼峄搉g Gi谩m M峄, c谩c ng脿y th峄� s谩u trong n膬m, tr峄� khi nh峄痭g ng脿y 岷 tr霉ng v峄沬 m峄檛 ng脿y n脿o kh谩c trong s峄� nh峄痭g ng脿y l峄� tr峄峮g鈥�

An chay kiêng thịt có được ăn sáng không
膼i峄乽 1252: Ai 膽茫 tr峄峮 14 tu峄昳 bu峄檆 ph岷 gi峄� lu岷璽 ki锚ng th峄媡; c貌n lu岷璽 膬n chay bu峄檆 t岷 c岷� nh峄痭g ng瓢峄漣 th脿nh ni锚n cho 膽岷縩 khi b岷痶 膽岷 60 tu峄昳. Tuy nhi锚n, c谩c v峄� Ch峄� ch膬n v脿 cha m岷� ph岷 lo sao 膽峄� c岷� nh峄痭g ng瓢峄漣 v峄� th脿nh ni锚n kh么ng bu峄檆 膬n chay ki锚ng th峄媡 c农ng 膽瓢峄 th岷 nhu岷 tinh th岷 s谩m h峄慽 膽铆ch th峄眂.

膼i峄乽 1253: H峄檌 膽峄搉g Gi谩m m峄 c贸 th峄� 岷 膽峄媙h r玫 h啤n lu岷璽 gi峄� chay v脿 ki锚ng th峄媡, c农ng nh瓢 c贸 th峄� thay th岷� to脿n ph岷 hay m峄檛 ph岷 vi峄嘽 ki锚ng th峄媡 v脿 膬n chay b岷眓g nh峄痭g h矛nh th峄ヽ s谩m h峄慽 kh谩c, nh岷 l脿 b岷眓g nh峄痭g vi峄嘽 b谩c 谩i v脿 vi峄嘽 膽岷 膽峄ヽ.

Nh瓢 v岷瓂 m峄 膽铆ch c峄 vi峄嘽 ki锚ng th峄媡 hay ki锚ng m峄檛 th峄ヽ 膬n n脿o kh谩c l脿 m峄檛 s峄� h茫m m矛nh, t峄� b峄� b岷 th芒n trong ng脿y s谩m h峄慽 chung c峄 to脿n th峄� Gi谩o H峄檌 l脿 ng脿y th峄� s谩u. Cho n锚n 膽i峄乽 quan tr峄峮g l脿 th岷 nhu岷 tinh th岷 s谩m h峄慽 nh瓢 膽瓢峄 n贸i 膽岷縩 trong 膽i峄乽 1252 ch峄� kh么ng ch峄� tu芒n th峄� m峄檛 qui 膽峄媙h thu岷 tu媒 lu岷璽 l峄�.

Gi谩o Lu岷璽 c农ng 膽茫 膽峄� c岷璸 膽岷縩 vi峄嘽 ki锚ng m峄檛 th峄ヽ 膬n kh谩c c农ng nh瓢 c贸 th峄� 膽瓢峄 thay th岷� b岷眓g nh峄痭g vi峄嘽 b谩c 谩i v脿 膽岷 膽峄ヽ theo quy岷縯 膽峄媙h c峄 H峄檌 膼峄搉g Gi谩m M峄 (膽i峄乽 1253). V矛 v岷瓂 m脿 c贸 n啤i kh么ng n贸i 膽岷縩 ki锚ng th峄媡 n峄痑 nh瓢ng kh么ng v矛 th岷� m脿 kh么ng c岷 ngh末 膽岷縩 s谩m h峄慽 v脿 l脿m c谩c vi峄嘽 膽岷 膽峄ヽ, b谩c 谩i鈥� V脿 nh瓢 膽茫 b岷 th岷痗 m岷痗 ki锚ng th峄媡 m脿 l岷 t矛m nh峄痭g m贸n 膬n ngon h啤n nh瓢 t么m, cua鈥� m脿 膬n th矛 c貌n 膽芒u l脿 媒 ngh末a c峄 ng脿y th峄憂g h峄慽 chung v脿 膬n ki锚ng nh瓢 th岷� c农ng coi nh瓢 ch瓢a ki锚ng g矛 c岷� !

An chay kiêng thịt có được ăn sáng không

T贸m l岷

TU峄擨 GI峄� CHAY: T峄� 18 tu峄昳 tr峄峮 膽岷縩 h岷縯 59 tu峄昳.

TU峄擨 KI脢NG TH峄奣: T峄� 14 tu峄昳 tr峄� l锚n

C脕CH GI峄� CHAY: Trong ng脿y chay ch峄� 膽瓢峄 膬n m峄檛 b峄痑 no (ch峄峮 b峄痑 n脿o c农ng 膽瓢峄), c貌n nh峄痭g b峄痑 kh谩c ch峄� 膽瓢峄 膬n ch煤t 铆t 膽峄� b峄g c貌n 膽贸i. Trong ng脿y chay kh么ng 膽瓢峄 膬n v岷穞 nh瓢 k岷筼, b谩nh…

C脕CH KI脢NG TH峄奣: C岷 膬n th峄媡 lo脿i m谩u n贸ng (heo, b貌, g脿, v峄媡鈥�) bao g峄搈 th峄媡 v脿 t岷 c岷� nh峄痭g th峄� kh谩c nh瓢 tim, gan, l貌ng chay鈥�. Nh瓢ng 膽瓢峄 d霉ng c谩c n瓢峄沜 th峄媡 v脿 c谩c 膽峄� 膬n c贸 pha ch岷 th峄媡, nh瓢 ch谩o n瓢峄沜 th峄媡. 膼瓢峄 膬n c谩 v脿 lo脿i m谩u l岷h (nh瓢 岷縞h, r霉a, s貌, cua, t么m). Ng脿y ki锚ng th峄媡 c农ng 膽瓢峄 ph茅p d霉ng tr峄﹏g v脿 c谩c s岷 ph岷﹎ t峄� s峄痑 nh瓢 b啤 v脿 ph贸 m谩t 鈥�
NG脌Y BU峄楥 GI峄� CHAY V脌 KI脢NG TH峄奣 : Th峄� T瓢 L峄� Tro v脿 Th峄� S谩u Tu岷 Th谩nh

B脿i 膽峄峜 th锚m: 膫n chay, ki锚ng th峄媡 trong Gi谩o h峄檌 C么ng Gi谩o

CuuThe

Ngu峄搉: conggiaovn.com

ĂN CHAY - MÙA CHAY

Hầu như mọi tôn giáo đều coi trọng việc ăn chay, coi đó như là điều không thể thiếu trong đời sống của các tín hữu. Ý nghĩa và mục đích của việc ăn chay có phần giống nhau, nhưng lại cũng khác nhau tùy theo lý tưởng tôn giáo và cùng đích của đời sống mà họ đang hướng tới. Khi nói về Ăn chay – Mùa chay, ta cũng cần tìm hiểu và rút tỉa “những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo” (NA 2), để làm phong phú hơn cho đời sống tâm linh của mình.

I. ĂN CHAY THEO QUAN NIỆM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO

1. Ăn chay

ĂN CHAY, do chữ Hán là Trai. Trai có nghĩa là thanh tịnh, sạch sẽ. Ăn chay là ăn các loại thực phẩm phát xuất từ thảo mộc hay được chế biến từ thảo mộc, như: rau cải, hoa quả, ngũ cốc, các loại đậu, tàu hủ, tương chao… Người ăn chay thường dùng nước chấm là nước tương, được làm bằng đậu nành hay xác đậu phọng. Do đó, người bình dân gọi ăn chay là ĂN TƯƠNG.

Ăn chay còn được gọi là ĂN LẠT. Ăn lạt không có nghĩa là ăn những món ăn lạt lẽo, mà nói như vậy để đối nghĩa với ĂN MẶN. Ăn mặn không có nghĩa là ăn những món ăn được nêm muối cho mặn, mà là ăn các loại thực phẩm xuất phát từ động vật hay được chế biến từ thịt động vật, như: cá, thịt, tôm, cua, sò, ốc, ba-tê, lạc xưởng,.... Vậy, ăn chay, ăn tương hay ăn lạt đều như nhau.

2. Mục đích và ích lợi của ăn chay (theo Phật giáo, Cao đài, Hòa Hảo)

- Ăn chay thì giữ được Ngũ Giới Cấm dễ dàng: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không dùng chất gây nghiện (rượu, thuốc)

- Ăn chay để thanh lọc bản thể, làm tinh khiết chân thần: các loài động vật chỉ bổ dưỡng cho thể xác con người, vì thể xác con người cũng là huyết nhục. Còn các thức ăn chay có hai tác dụng bổ dưỡng:

. Bổ dưỡng xác thân nhờ những chất khoáng hấp thu trong đất và đạm khí trong không khí.

. Bổ dưỡng chân thần nhờ hấp thu ánh sáng và dưỡng khí.

Người ăn chay trường lâu năm thì tạo được vừng hào quang trong sáng nơi đỉnh đầu, chân thần cũng được trong sáng, tinh tấn, nên nhẹ nhàng hơn không khí. Ðến kỳ thoát xác, chân thần xuất ra khỏi thể xác một cách dễ dàng và bay khỏi bầu không khí, đến các cõi thiêng liêng.

-                 Ăn chay là luyện tập Bi, Trí, Dũng. Không giết hại thú vật để ăn thịt nên tâm từ bi. Không dùng thịt máu làm quấy động tâm can nên trí sáng. Không bị lôi kéo vào đam mê dục vọng nên chí dũng.

-                 Ăn chay để kiềm chế lục dục thất tình. Lục dục gồm: Sắc dục (nhãn – mắt), Thinh dục (nhĩ -tai), Hương dục (tỹ- mũi), Vị dục (thiệt-lưỡi), Xúc dục (thân- da thịt), Pháp dục (ý –tư tưởng). Thất tình gồm: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Cụ, Dục. (mừng, giận, thương, ghét, buồn, sợ, muốn).

-                 Ăn chay để tránh quả báo luân hồi. Ăn chay giúp chúng ta không mắc nợ oan nghiệt, không vay nên không phải trả, không nhân tai nên không quả báo.

Có nhiều mức độ ăn chay: nhị trai, tứ trai, thập trai, nguyệt trai, trường trai. Các tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo đã quá quen với việc ăn chay, có nhiều người ăn chay suốt đời. Họ coi đó như một cách cơ bản để tu luyện bản thân. Về tâm sinh học, quả thực việc ăn chay đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho đời sống thể chất cũng như tinh thần, giúp người ta đi vào đời sống tôn giáo cách thanh tịnh và thuần khiết hơn.

  

II. ĂN CHAY THEO KITÔ GIÁO

Kitô giáo quan niệm rằng ăn chay là rèn luyện cho bản thân cách chống lại những ham muốn xác thịt và nhất là tỏ lòng sám hối tội lỗi đối với Thiên Chúa. Cần phân biệt giữa "giữ chay" và "kiêng thịt" (nhưng hai việc này lại thường đi đôi với nhau), thông thường được hiểu như sau:

·         Giữ chay (jejunium) có nghĩa là giới hạn lượng lương thực được tiếp nạp vào cơ thể. Cụ thể, giữ chay là không được ăn và uống những thứ gì ngoài bữa ăn chính trong ngày (như bánh, kẹo, nước ngọt, cà phê, trái cây...).

·         Kiêng thịt (abstinentia) có nghĩa là từ bỏ một thức ăn khoái khẩu thường ngày, cụ thể, cấm ăn thịt nhưng lại cho phép ăn cá, các sinh vật biển hay động vật máu lạnh (tôm, cua, ếch...). Trứng, sữa và các chế phẩm từ trứng, sữa (như , pho mát, sữa chua...) không thuộc danh mục những thứ buộc phải kiêng. Tuy nhiên, xét cho cùng, chúng lại "vướng" vào quy định của "giữ chay".

·         Luật chỉ buộc giữ chay kiêng - thịt vào Thứ tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần Thánh, còn tất cả các ngày thứ sáu trong tuần khuyên các tín hữu phải giữ chay và kiêng thịt.

·         Điều 1252: "Ai đã trọn 14 tuổi buộc phải giữ luật kiêng thịt; còn luật ăn chay buộc tất cả những người thành niên cho đến khi bắt đầu 60 tuổi. Tuy nhiên, các vị chủ chăn và cha mẹ phải lo sao để cả những người vị thành niên không buộc ăn chay kiêng thịt cũng phải được thấm nhuần tinh thần sám hối đích thực."

·         Điều 1253: "Hội đồng Giám mục có thể ấn định rõ hơn luật giữ chay và kiêng thịt, cũng như có thể thay thế toàn phần hay một phần việc kiêng thịt và ăn chay bằng những hình thức sám hối khác, nhất là bằng những việc bác ái và việc đạo đức."

Ăn chay bên ngoài nhắc nhở việc ăn chay trong lòng. Ăn chay trong lòng giúp ta tập làm chủ đời sống mình để luôn biết qui hướng về Chúa và mở lòng ra với tha nhân. Điều quan trọng hơn nữa là sống ý nghĩa Mùa Chay như Giáo Hội mong muốn, đó là sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô trong cuộc đời mình.

III. MÙA CHAY

1. Lịch sử Mùa Chay

Trong thế kỷ II các tân tòng ăn chay hai ngày trước khi được Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh. Dần dần thời gian chuẩn bị và ăn chay kéo dài 2, 3 và 4 tuần. Trong thế kỷ V Giáo Hội thêm lễ Tro là một nghi thức dành cho tội nhân đang hoán cải và sẽ được hòa giải ngày thứ Năm Tuần Thánh.

- Ý nghĩa “Tro”

Từ thời Cựu Ước, “tro” đã mang hai ý nghĩa: tượng trưng cho “sự thống hối ăn năn” và “đời sống khiêm nhường.” Trong sách Sáng Thế 18, 27, chúng ta nghe Abraham tự thú nhận: “Này tôi quả đường đột thưa với Chúa tôi – tôi chỉ là tro bụi.”

Đến thế kỷ thứ 5, Giáo Hội mới bắt đầu dùng tro trong các nghi thức phụng vụ. Trong thời điểm này, những kẻ tội lỗi và hối nhân rắc tro trên thân mình. Họ bị trục xuất ra khỏi cộng đoàn trong một thời gian ngắn, để thống hối ăn năn vì những trọng tội họ đã phạm – như tội phản đạo, chối đạo, sát nhân và ngoại tình.

Đến thế kỷ thứ 7, nghi thức thống hối này đã biến dạng và được áp dụng vào ngày Thứ Tư Lễ Tro. Kẻ có tội phải mặc áo nhặm và xức tro trên mình. Đồng thời, phải sống xa gia đình suốt cả Mùa Chay. Những người này không được bước vào Nhà Thờ và cũng không được nói chuyện với bất cứ một ai. Họ phải làm việc đền tội, cầu nguyện và ngủ dưới đất hoặc trên rơm và cũng không được tắm rửa hoặc cắt tóc cạo râu. Vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, những hối nhân này được ban ơn xá giải và trở về với gia đình. Truyền thống này bắt đầu phổ biến và được áp dụng cho toàn thể Giáo Hội vào thế kỷ thứ 11, dưới triều đại của Đức Thánh Cha Urbanô đệ II.

Ngày nay, vào mỗi Thứ Tư Lễ Tro, các linh mục dùng tro gạch dấu Thánh Giá trên trán của bản thân mình và từng Giáo hữu. Tro này chính là tro của những chiếc lá vạn tuế của Lễ Lá năm trước đã được đốt đi. Tro nhắc nhở các giáo hữu về thân phận con người. Con người được dựng nên từ bụi tro. Tro được sức lên trán để khắc ghi vào tâm trí thực tại cát bụi của con người chúng ta. Vì vậy, khi dùng tro ghi dấu Thánh Giá trên trán, linh mục sẽ đọc: “Ta là thân cát bụi – sẽ trở về cát bụi” (St 3,19) hoặc “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng” (Mc 1,15).

- Ý nghĩa liên lệ giữa “Mùa Chay” và “Lễ Tro”

Lá vạn tuế năm trước được đốt đi thành tro là một dấu chỉ thích đáng cho ý nghĩa của Mùa Chay. Điều đó có ý mời gọi mỗi tín hữu phải nhìn lại cuộc sống của mình trong năm qua. Ta phải thiêu đốt tất cả những gì xấu xa tội lỗi của ta thành tro bụi, và quyết tâm lên đường theo Chúa Giêsu bước vào sa mạc để đối diện với lòng mình, với chính kẻ thù của mình là Satan. Satan hằng luôn xúi dục ta chiều theo tính đam mê xác thịt, ham hố quyền hành và tham lam tiền của. Nhìn nhận mình là bụi cát, ta noi gương Chúa Giêsu sống khiêm nhu, kính sợ và tín thác vào Thiên Chúa. Chỉ lúc đó, Thiên Chúa mới “cất nhắc tôi lên từ đống phân tro.” (TV 113, 7)

Như vậy các tân tòng và tội nhân là nhân vật quan trọng hàng đầu trong Mùa Chay. Lời nguyện và bài đọc của Mùa Chay thường nhắc đến tân tòng đang chuẩn bị chịu phép Rửa Tội và tội nhân đang xin được hòa giải. Thực sự mọi Kitô hữu đã là ‘tân tòng’ cần đi lại và đào sâu con đường dẫn đến Rửa Tội; vẫn là ‘tội nhân’ được mời xức tro và tích cực tham gia vào Mùa Chay để ăn năn sám hối và chuẩn bị lập lại lời hứa khi chịu Phép Rửa Tội.

Công Đồng Vat II muốn đem lại đặc tính đích thực cho Mùa Chay: “Hai đặc tính của mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn… Trong Mùa Chay, việc sám hối không những chỉ ở trong lòng và có tính cách cá nhân, mà còn phải tỏ lộ ra bên ngoài và có tính cách xã hội. Vậy hãy khuyến khích việc thực hành sám hối tùy theo khả năng của thời đại ta, của các miền khác nhau cũng như tùy hoàn cảnh các tín hữu.” (SC 109-110).

2. Chủ đích của Mùa Chay

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để đón nhận ân sủng của Chúa, giúp cho các tín hữu ý thức tình yêu và kế hoạch Thiên Chúa trên cuộc đời mình; là thời gian nhớ lại ngày được Rửa Tội, là biến cố được “dìm xuống” trong Đức Kitô để hoán cải sống thực sự theo vết chân Ngài. Đó cũng là thời gian tìm lại gốc rễ của đời sống đích thực nơi mỗi người. Gốc rễ là Đức Kitô đã chết và sống lại để ban cho nhân loại sự sống mới. Gốc rễ là hành động của Thần Khí nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với anh em trong tình yêu.

Mùa Chay là một hành trình tập luyện thiêng liêng dẫn đến Phục Sinh. Trước khi xức tro có lời nguyện: “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần”.

Như vậy, Mùa Chaymùa phục hồi và bồi dưỡng tâm linh. Nói đúng hơn là chuẩn bị tín hữu tham dự trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, giúp cho tín hữu thực hiện sự phục sinh tâm linh của chính mình.

Mùa Chay không có ý nghĩa tự thân. Nó lệ thuộc vào Lễ Phục Sinh, được lập ra vì Lễ Phục Sinh. Không có Lễ Phục Sinh thì cũng sẽ không có Mùa Chay. Mùa Chay chỉ thực sự có ích nếu giúp ta hồi sinh từng bước, nâng cao phẩm chất đời sống tâm linh, để chính chúng ta cũng sống lại cùng với Chúa.

3. Phục hồi và bồi dưỡng tâm linh trong Mùa Chay

Không thể sống Mùa Chay mà lại thiếu nỗ lực phục hồi và bồi dưỡng tâm linh. Nỗ lực này là điều kiện thiết yếu của đời sống Kitô hữu. Kinh nghiệm hiển nhiên cho thấy, trong mọi lãnh vực, thời gian và hoàn cảnh luôn làm tiêu hao bào mòn mọi sự. Ngay cả tình yêu thắm thiết ban đầu rồi sẽ phai dần: Dầu rằng hẹn núi thề non, nhưng rồi có lúc héo mòn nhạt phai. Vì thế, trong bất cứ lãnh vực nào cũng có nhu cầu phục hồi, tân trang, nâng cấp…để ngăn chặn sự thoái hóa. Đời sống tâm linh cũng không thể khác được.

Trên đường đi theo Chúa rất dễ xảy ra hiện tượng tiêu hao, xuống cấp. Hiện tượng này có khi còn trầm trọng hơn trong các lãnh vực khác. Cám dỗ ngày càng tăng; sức kháng cự ngày càng yếu; lòng sốt sắng ban đầu suy giảm dần; tội lỗi ngày càng tăng áp lực, nên đời sống tâm linh cạn kiệt và tê liệt dần, vì xa rời với nguồn suối linh thiêng.

Trong khi đó, Thiên Chúa lại chờ đợi chúng ta tăng trưởng, tiến tới, vươn lên. Chúa Giêsu luôn bảo các môn đệ của Ngài : Hãy theo Ta. Càng ngày càng phải theo Chúa sâu sát hơn trên con đường Chúa đi: con đường thập giá, từ bỏ, hy sinh, quên mình, để tiến đến sự phục sinh. Phải dám khước từ những con đường dễ dãi, hưởng thụ, lạc thú, phú quí, danh lợi…  là những con đường đưa ta vào ảo mộng, nửa tỉnh nửa mê, dở sống dở chết. Bởi thế, thánh Phaolô đã phải đánh thức các tín hữu của ngài : Hãy chỗi dậy những ai ngủ mê, hãy chỗi dậy từ cõi chết. Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi.

Chúng ta hãy phác họa cho mình một chương trình và cách thức cụ thể để sống Mùa Chay: sống yếu tố Mầu Nhiệm của đời mình trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, để Chúa là tất cả trong tất cả cuộc đời chúng ta.

Lm. Thái Nguyên