Nuôi dê đơn giản lại cho hiệu quả kinh tế cao nên không ít hộ đã có cơ hội thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Show
Tận dụng địa thế có vùng đồi núi rộng, nguồn thức ăn từ lá cây tự nhiên dồi dào, người dân An Phú nuôi dê bằng hình thức chăn thả tự nhiên hoặc nuôi nhốt bán chăn thả. Ở An Phú, nhà nhiều thì nuôi 50 - 70 con, nhà ít nuôi vài ba con. Tính ra, nuôi dê lãi hơn nhiều so với các loại vật nuôi khác, nhanh thu hồi vốn, không sợ ế hàng. Theo kinh nghiệm những người nuôi lâu năm, dê không khó nuôi nhưng mẫn cảm với thời tiết, người nuôi cần cẩn thận, tỉ mỉ, nhất là trong những thời điểm chuyển mùa.Phó Chủ tịch UBND xã An Phú Nguyễn Mạnh Ngự cho biết, xã có diện tích hơn 2.200ha, trong đó có 560ha rừng thuộc vùng đệm của rừng đặc dụng Hương Sơn và 800ha rừng trồng trên những dãy núi đá vôi nên rất thuận tiện cho việc chăn nuôi dê núi. Hiện, cả xã có 70 hộ nuôi dê với tổng đàn hơn 1.200 con, cho hiệu quả kinh tế cao, tập trung ở 2 thôn Thanh Hà và Đồng Chiêm. Dê núi thương phẩm ở An Phú đang đươc bán với giá trung bình 130.000 đồng/kg, hiệu quả gấp nhiều lần nuôi lợn.Hộ gia đình anh Lê Văn Tiến, ở thôn Thanh Hà đang nuôi 70 con dê ở sâu trong núi. Anh Tiến chia sẻ: “Dê là loài sinh sản nhanh, dê cái 2 năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa 2 - 3 con nên người nuôi có điều kiện nhân đàn nhanh. Nuôi dê rất thuận lợi nhờ địa phương có những dãy núi đá nên chúng tự leo trèo lên núi kiếm ăn. So với vật nuôi khác, nuôi dê hiệu quả hơn bởi không tốn công chăm sóc, chi phí thấp”. Vào mùa Đông, cây lá ít, anh Tiến còn cho dê ăn thêm chút cám, uống thêm nước ấm pha muối để dê nhớ đường về. Hiện nay, không chỉ cung cấp dê thịt, anh Tiến còn bán dê giống và sẵn sàng giúp đỡ các hộ trong thôn về kỹ thuật, cách chăm sóc đàn dê. Không chỉ nuôi dê, gia đình anh Tiến còn nuôi 5.000 con gà, 200 con vịt đẻ, hàng chục con bò, trâu và ao cá... cho thu lãi trung bình mỗi năm từ 250 – 300 triệu đồng.Theo ông Nguyễn Mạnh Ngự, nhờ phát triển chăn nuôi đa dạng loại vật nuôi thay thế chăn nuôi lợn mà hiệu quả kinh tế của địa phương tăng lên rõ rệt. Đến hết năm 2018, xã đã đạt và cơ bản đạt 16/19 tiêu chí nông thôn mới. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 15%. Ngoài mô hình nuôi dê, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội tặng 30 con bò sinh sản cho hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển sinh kế, vươn lên thoát nghèo. Trong thời gian tới, xã sẽ tiếp tục phối hợp với các đơn vị nhân rộng mô hình nuôi dê thông qua hỗ trợ vốn mua con giống và tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi cho hộ sản xuất. Bài, ảnh: Bình Minh
Nhiều người thắc mắc Giải thích ý nghĩa Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng là gì? Bài viết hôm nay THPT Đông Thụy Anh sẽ giải đáp điều này. Giải thích ý nghĩa Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng là gì?Giải thích Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng:
Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng có nghĩa là ám chỉ việc người nào nhà giàu có thì nuôi chó giữ nhà giúp gia đình giữ tiền của – tài sản, nhà nào khó khăn thì nuôi dễ vì khỏe mạnh dễ nuôi và mang lại giá trị kinh tế cao, còn với những người không nghề ngỗng thì gì ngồi mát ăn bát vàng đợi của trời cho cứu giúp bản thân mình.
Với những người không nghề ngỗng gì thì bản thân 1 là đã quá giàu có của dư dả gửi ngân hàng kiếm lãi ăn hàng tháng hoặc là những người nghèo rớt cả mồng tơi không còn gì để ăn để mặc phải đợi từ thiện giúp đỡ sống cho qua ngày mà bản thân chẳng có ý chí hay quyết tâm gì cả. Đồng nghĩa – Trái nghĩa Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng:
Qua bài viết Giải thích ý nghĩa Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng là gì? của chúng tôi có giúp ích được gì cho các bạn không, cảm ơn đã theo dõi bài viết. Tác giả: Trường THPT Đông Thụy Anh Chuyên mục: Hỏi đáp Tổng hợp Từ khóa tìm kiếm: Giải thích ý nghĩa Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng là gì?
Người xưa có câu “giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng”, thật đúng với hoàn cảnh của ông Nguyễn Văn Bình ở thôn Đại Áng, xã Ninh Hòa, (Hoa Lư, Ninh Bình). Theo lời ông Nguyễn Hùng Vương – Chủ tịch Hội Nông dân xã Ninh Hòa, gia đình ông Bình từng là hộ nghèo nhất nhì trong xã, nhưng sau nhiều năm bén duyên với nghề nuôi dê, đến nay gia đình ông đã thoát nghèo, có tiền xây được nhà khang trang, cho con cái ăn học. Hiện gia đình ông đang có trong tay đàn dê gần 50 con trị giá vài trăm triệu đồng. Ông Bình bảo: “Nhà nuôi được dê nên khi có công, có việc hay cần đóng tiền học cho con chỉ cần nhấc điện thoại gọi khách vào bắt là có tiền tươi ngay không phải chạy ngược xuôi vay lãi như trước nữa”. Chia sẻ về quá trình gian nan để phát triển kinh tế, ông Bình cho biết, trước ông cũng làm đủ mọi nghề để kiếm sống, từ phụ hồ đến chạy chợ, cứ ở đâu có người thuê là làm nhưng được một thời gian thấy sức khỏe yếu dần, ông chuyển về nhà làm nông nghiệp, rồi bén duyên với nghề nuôi dê núi. Nói về mức thu nhập của gia đình ông Bình, không ít người trong và ngoài xã phải nể phục, bởi ở vùng đất bán sơn địa “khỉ ho, cò gáy” đất đai cằn cỗi, khắc nghiệt này, để tìm ra hướng đi thoát nghèo đã khó nói gì đến làm ra tiền thu nhập cả trăm triệu đồng mỗi năm. Tính đến nay, ông cũng đã có hàng chục năm gắn bó với nghề nuôi dê nên khi nói về kinh nghiệm nuôi con vật này thì ít ai trong vùng sánh được. Ông Bình bảo: Nuôi dê biết thì rất dễ, nhưng không biết thì cũng rất khó vì dê là con vật ít dịch bệnh nhưng khi đã mắc bệnh nấm (giống bệnh lên sởi ở người) rất khó chữa, chỉ có để dê chết mang đi tiêu hủy thôi. Để dê được khỏe mạnh, tránh được dịch bệnh ông luôn phải theo sát đàn dê mỗi khi cho đi ăn, không để dê ăn ở các bờ ruộng dưới đồng bằng vì khi mùa vụ đến nông dân phun thuốc trừ sâu rất nhiều. Dê ăn phải cỏ có nồng độ thuốc trừ sâu cao rất nguy hiểm. Ông Bình cho biết thêm, tại địa phương hiện đang có kiểu nuôi dê hoang dã, chăn thả tự do trên rừng núi đá không làm chuồng cho dê ở, dù cho chất lượng thịt dê ngon nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro dịch bệnh nên gia đình chọn cách chăn nuôi bán hoang dã (ngày cho ăn trên núi, tối đuổi về chuồng nhốt) sẽ vừa kiểm soát được dịch bệnh lại dễ bắt bán khi khách hàng cần. Ông bày tỏ: “Trong những năm gần đây, nhờ có ngành du lịch phát triển, du khách đến tham quan nhiều, tạo điều kiện cho nghề nuôi dê phát triển, người dân có thu nhập cao”. Ông Bình chia sẻ thêm: “Khách du lịch đến địa phương ngày một nhiều hơn, cũng là vì lý do ở đây có nhiều thắng cảnh đẹp và đặc biệt là có món thịt dê được người địa phương chế biến ngon nức tiếng đó”.
Từ hàng ngàn năm trước, các nước giàu ở châu Âu, châu Mỹ đều coi thường việc nuôi dê. Thậm chí, nhiều nước còn khuyến cáo nông dân nước họ không nên nuôi dê vì ngại cái tính lý lắc, phá hại cây trồng của chúng. Cái đại họa to lớn mà người Bồ Đào Nha mắc phải vào đầu thế kỷ thứ 16 làm cho nhiều nước trên thế giới e dè việc nuôi dê hơn. Nguyên vào năm 1502, người Bồ tìm ra được đảo Sainte Hélène, nhưng không khai thác được gì vì toàn đảo chỉ là rừng cây tạp rậm rạp, muốn khai hoang cũng phải bỏ ra nhiều công của và thời gian. Sau cùng, họ thả lên đảo này một đàn dê, hy vọng đàn dê sẽ ăn hết các loại cỏ lá để “khai hoang” giùm họ. Cuối cùng dê đã giúp họ được việc đó, không những chúng ăn trụi hết cây cối mà còn đào bới tất cả những thân rễ cây trên đảo mà ăn, đến nỗi cả một hòn đảo trước đây xanh tươi nay trở nên hoang tàn. Đất đai trước đây nhờ rễ cây chằng chịt cầm giữ, nay gốc rễ không còn nên chỗ nào cũng trơ ra những gộp đá vì đất đai đã bị nước mưa xói mòn trôi hết ra biển. Cây cối thì biến mất nhưng đàn dê bấy giờ lại sinh sản rất đông…
Vì vậy, vùng đất sống lý tưởng nhất của loài dê suốt một thời gian dài trong quá khứ vẫn là những nước chậm phát triển, chứ chúng không chen chân vào được những nước giàu, ở châu Âu, châu Mỹ… Dê sống nhiều ở các quốc gia vùng cận đông, vùng Địa Trung Hải và châu Á. Những quốc gia nuôi dê nhiều nhất ở châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa., ở tại các quốc gia này, con dê được coi là con bò của nhà nghèo. Nhưng, ngày nay “con bò của nhà nghèo” đã được nhiều nước như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Đan Mạch, Thụy Sĩ…nhập về nuôi, và nước nào cũng bỏ công ra lai tạo được những nòi dê cao sản nổi tiếng cho riêng mình. Đây là những nước trước đây họ chỉ chú trọng đến việc phát triển đàn bò sữa, và xem thường mối lợi không nhỏ từ dê thịt và dê sữa mang lại. Nhờ đó mà con dê ngày nay đã có mặt trên khắp các châu lục. nuôi dêThân xác con dê tuy nhỏ hơn bò nhiều lần, nhưng vẫn là thứ tài sản khá lớn đối với người nghèo. Nó cũng cung cấp thịt và sữa để nuôi sống dân nghèo. Vì vậy, trong những nước chậm phát triển mà nhà nào tự gầy dựng cho mình một đàn dê nhỏ độ năm bảy con, cũng được đánh giá là đã thoát được cảnh nghèo. Tại sao lại có câu: “Nhút khương nhì dương”?Chữ khương, tiếng Hán Việt có nghĩa là cây gừng (củ gừng), còn chữ dương có nghĩa là con dê. Câu đó có nghĩa: thứ nhất trồng gừng, thứ nhì nuôi dê. Đây là câu ngạn ngữ của người Trung Hoa, dạy cho người đời biết cách nuôi, trồng để mau sinh lợi, mau làm giàu. Trồng gừng chỉ cần đất tơi xô”p và tưới đủ ẩm. Đầu năm chỉ cần giâm vào đất một “mắt” củ gừng giống bằng vài lóng tay, cuối năm ta đã thu được hơn nửa ký củ rồi. Nếu cứ để mặc như vậy trong vài năm, bụi gừng sẽ có nhiều tầng củ, và củ càng già lại càng có giá cao, vì “gừng càng già càng cay”. Trong khi đó, nuôi dê cũng mau sinh lợi. Một con dê cái mỗi năm đẻ được gần hai lứa con (mỗi lứa đẻ khoảng hai con con), mà dê mẹ đẻ qua lứa thứ hai thì lứa con so trước đỏ đã bắt đầu cấn chửa, thế là mẹ con thi nhau đẻ. Dê con lớn lên sáu tháng tuổi đã bắt đầu động dục. Vì vậy, chỉ nuôi độ mười dê cái, trong vòng hai năm ta đã có một bầy đàn hơn trăm con lớn nhỏ rồi. Như vậy trồng gừng và nuôi dê là hai thứ mau sinh lợi. Có phải thịt dê là một thứ dược liệu quí?Không những chỉ có thịt dê có vị thuốc, mà nhiều cơ quan nội tạng của dê cũng đều có vị thuốc cả. Thịt dê có tác dụng trợ dương nên đàn ông bất lực mà ăn nhiều thịt dê thì cơ thể sẽ khỏe mạnh, sức lực cường tráng. Còn đàn bà sau kỳ sinh đẻ thân mình gầy yếu nếu được ăn thịt dê một thời gian dài sẽ mau hồi sức, đỏ da thắm thịt trở lại. Thịt dê còn giúp cho người bị bệnh lao phổi có thêm sức đề kháng để chống chọi lại với vi trùng Koch. Huyết dê chủ trị chứng chóng mặt, chứng xây xẩm mặt mày mỗi khi đứng lên ngồi xuống. Huyết dê cũng chủ trị các bệnh nhức đầu và đau lưng. Những người lớn tuổi thường pha huyết dê vào rượu trắng để trị bệnh nhức mỏi xương cốt. Còn gan dê chữa được bệnh mờ mắt, bệnh quáng gà. Bao tử dê cũng làm thuốc trị người cơ thể gầy yếu, chứng khi ăn thường bị nôn mửa. Tinh hoàn dê được đánh giá là thức ăn bổ dương nhất, rất cần cho những ai bị bệnh yếu thận. Ngoài ra, người ta còn dùng cao dê để bồi bổ khí huyết, trị bệnh dau bụng, mỏi lưng. Muốn có cao dê, người ta dùng xương dê và sừng dê để nấu nhiều giờ cho đến lúc tan ra thành chất dẻo, hoặc dùng cả xương lẫn thịt dê (chỉ bỏ lông và ruột) nấu cho tan nát nhừ ra gọi là “cao dê hoàn tính” dùng chữa được nhiều bệnh, rất tốt. Tại sao thời trước thịt dê không được tiêu thụ rộng rãi như thịt heo, thịt bò?Dù thịt dê được mọi người đánh giá là “món ăn có vị thuốc”, nhưng thời trước thịt dê không được tiêu thụ phổ biến bằng các loại thịt heo, thịt bò vì nhiều lý do sau đây: Trước hết do số đàn dê được nuôi rất ít lại nuôi ở các vùng “mạn ngược” xa xôi, nên người miền xuôi muốn có thịt dê để ăn cũng khó kiếm. Do đó muốn mua ăn tất phải lặn lội đường xa và phải trả giá cao. Kế đó là ông cha mình ngày xưa chê thịt dê có mùi khét nắng, hôi, khai nên không ai muốn ăn, trừ những người cần ăn để trị bệnh. Lý do quan trọng sau cùng là do cách làm thịt dê của người mình trước đây quá tàn nhẫn, nếu không muốn nói là độc ác nên nhiều người sợ tội, nên không ai nỡ giết nó. Đúng là thịt dê có mùi khét, mùi hôi và khai thật nhưng nếu biết cách ướp gia vị và nấu nướng thì sẽ là món ăn khoái khẩu đối với mọi người. Thịt dê do ít mỡ nên dù ăn đến no bụng vẫn không thấy ngán, đến nỗi ăn chán chê hôm trước, hôm sau vẫn cứ ăn ngon miệng. Muốn đánh tan cái mùi khét nắng này ta nên ướp thịt dê với thật nhiễu tỏi băm nhuyễn. Khi xào lên, mùi thơm của tỏi sẽ đánh tan hết mùi đặc trưng của thịt dê, nên ăn còn hấp dẫn hơn thịt trâu, thịt bò. Còn cách làm thịt dê của người mình trước đây quả có tàn nhẫn thật. Người ta cột con dê định giết thịt vào gốc cây, rồi dùng roi quất túi bụi vào mình nó trong nhiều giờ liền, khiến con vật vô tội đau quá nên chạy lòng vòng quanh gốc cây mà ỉa hét đến khản cổ. Dê càng la hét càng chạy vả mồ hôi ướt đẫm mình người ta càng” mừng, vì nghĩ rằng có như vậy mùi hôi khai trong mình nó mới thoát hết ra ngoài để thịt được ngon hơn, do hết mùi hôi. Con dê càng bị đánh càng cố bươn chạy và la hét, cho đến khi khuỵu xuống vì mệt thì mới được đem giết thịt. Có người không đánh đập mà ép con dê uống cả lít rượu trắng, khiến dê nằm dài ra do say bí tỉ. Sau đó, dê được đắp phủ thân mình nhiều lớp bao bố, nhằm hy vọng nó sẽ toát hết mồ hôi để lôi theo mùi hôi trong da thịt nó ra ngoài. Thật ra cả hai cách nghĩ và cách làm trên đều sai, vì không có chuyện hễ dê la hét và xuất nhiều mồ hôi là thịt bớt hôi. Ngày nay, người ta làm thịt dê theo cách làm thịt heo, thịt bò, chứ đâu cần đánh đập hoặc cho uống rượu đến say bí tỉ… Tại sao mãi đến mấy thập niên sau này người mìn mới nuôi dê sữa?Điều này rất dễ hiểu, vì trước đây ba bốn mươi năm, đại đa số người mình chưa có thói quen uống sữa tươi. Ngay sữa bò người ta còn không uống, đừng nói chi là sữa dê, dỡ đó không ai nuôi dê sữa và bò sữa. Nếu nhà nào có nuôi được con bò, con dê có bầu sữa tốt, họ cũng vắt sữa để nuôi, heo con cho mau lớn mà thôi. Trước năm 1975, ngành nghề chăn nuôi bò sữa và dê sữa do người Ấn độc quyền khai thác hết, sản lượng sữa được sản xuất hằng ngày cũng khá nhiều, nhưng họ có thị trường tiêu thụ riêng: bán hết cho Ấn kiều và Pháp kiều chứ người Việt mình chắc không ai dùng đến. Thịt dê người ta còn chê hôi thì sữa dê, thời đó có cho tiền chắc cũng không ai dám uống. Có phải người xưa dùng dê vào việc kéo xe?Những con đực xồm giống tốt thường có thân mình to lớn như con hươu, con nai, nặng đến trên dưới 70 kg và rất mạnh khỏe, nếu tập kéo xe để chở một người trong một quãng ngắn chắc nó cũng làm được. Thế nhưng, chỉ ở một số vùng có băng giá mà thiếu tuần lộc, người ta mới dùng dê để kéo xe trượt tuyết trong một đoạn đường ngắn mà thôi. Trong sử cổ cũng có ghi chuyện vua Tấn Võ Đế bên Trung Hoa cũng sử dụng loại xe do dê kéo mỗi lần đi thăm các cung phi mỹ nữ. Hễ khi dê mỏi chân dừng lại ở nơi nào thì nhà vua liền xuống xe để nghỉ qua đêm với người đẹp gần đấy. Tương truyền các phi tần của vua dùng lá dâu tằm tẩm nước muối rồi rải dài trên đường xe vua đi cho tới tận cửa phòng mình để tạo dịp được vua sủng ái. Có thể tiên đoán trong tương lai nghề nuôi dê thịt và dê sữa tại nước ta có phát triển mạnh hơn không?Do giống dê sinh sản nhanh, mặt bằng chăn nuôi không cần rộng cũng được (vì có thể nuôi theo phương pháp thâm canh và bán thâm canh), thức ăn lại dễ kiếm và có sẵn quanh năm nên mọi người đều thấy nuôi dê rất có lợi. Mặt khác, ngày nay ta đã có thị trường tiêu thụ thịt dê và sữa dê khá mạnh, do mọi người đã biết rõ giá trị dinh dưỡng cao từ sữa dê và nguồn dược liệu quí hiếm từ thịt dê, không ai còn chê bai nữa. Bằng chứng trước mắt cho thấy, ngày nay số hộ nuôi dê đã khá đông, số đàn dê đã khá nhiều, nhưng từ thịt lẫn sữa dê vẫn chỉ mới đáp ứng được một phần nào nhu cầu tiêu thụ mà thôi. Điều này gỉúp cho chúng ta hồ hởi tin rằng ngành nghề nuôi dê thịt và dê sữa tại nước ta sẽ còn phát triển mạnh hơn nhiều trong tương lai gần. |