Thông minh vốn sẵn tính trời nghĩa là gì

a) Những câu thơ tả tài năng của kiều trong Truyện Kiều:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.


b) Ngòi bút của Nguyễn Du đã thiên về tài năng đánh đàn của Kiều. Vì:

-> Tiếng đàn của Kiều là tiếng lòng của tác giả cũng như là mối dây dẫn Kiều vào còn đường lưu lạc, hồng nhan bạc mệnh.

-> Thúy Kiều đã soạn riêng một khúc bạc mệnh mà ai nghe cũng não lòng. 

=> Chân dung Thúy Kiều mang tính cách màu sắc của số phận. Ngòi bút Nguyễn Du nhuốm màu định mệnh sắc đẹp và tài năng đánh đàn của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì từ đó dự báo cuộc đời nhiều đau khổ.

Từ “tố nga” để nói về ai?

Câu thơ “mai cốt cách, tuyết tinh thần” có nghĩa là gì?

Thúy Kiều được miêu tả như thế nào?

Qua cung đàn Kiều sáng tác, em hiểu gì về nhân vật này?

a. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
    • “Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.
    • Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.

b. Thân bài

b1. Giá trị nhân đạo trong văn học

  • Khái niệm
    • Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.
  • Biểu hiện
    • Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo:
      • Trân trọng vẻ đẹp của con người
      • Thương xót cho số phận đau thương của con người
      • Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
      • Thấu hiểu ước mơ của con người.

b2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều

♦ Trân trọng vẻ đẹp của con người

* Vẻ đẹp ngoại hình: Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.

  • Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung  vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

  • Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So về tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm,  liễu hờn kém xanh”

  • Cũng như những nhà thơ trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.

* Vẻ đẹp đức hạnh

  • Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

  • Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo Hiếu:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh có ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Bây giờ gốc tử đã vừa người ôm”

  • Ở Kiều, người đọc còn trân trọng một đức tính thủy chung:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chân trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

  • Ngoài ra, Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa, khi trả ơn Thúc Sinh, nàng nói:

“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”

  • Và một tấm lòng bao dung, độ lượng khi tha thứ cho Hoạn Thư:

“Tha ra thì cũng may đời

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen

Đã lòng tri quá thì nên”

* Vẻ đẹp tài năng: Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”

⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.

 Thương xót cho số phận đau thương của con người

  • Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng

Ngại ngùng dợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”

  • Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bồn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

  • Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây  mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

♦ Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người

* Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.

  • Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

  • Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ

Mặn nồng một vẻ một ưa,

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.

Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

“Cò kè bớt một thêm hai”

♦ Thấu hiểu ước mơ của con người

* Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.

+ Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng:

  • Với người có ân, một mực trân trọng → Báo ân cho Thúc Sinh:

“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”

  • Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải → Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư:

“Dễ dàng là thói hồng nhan

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

b3. Đánh giá

  • Về nội dung
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương
    • Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
    • Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
  • Về nghệ thuật
    • Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc:
    • Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
    • Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
    • Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc.

c. Kết bài

  • Cảm nghĩ bản thân về giá trị nhân đạo thông qua “Truyện Kiều” nói chung và qua bốn đọa trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.