Làm thế nào để nhận diện được những người mắc bệnh đồng tính, đó là một loại “bệnh” hay “tình”, và nếu là bệnh thật thì cách chữa trị, khắc phục như thế nào, còn là tình thì phải làm sao?... Nhân viên y tế thôn bản cần trang bị cho mình cũng như người dân trên địa bàn những kiến thức cơ bản về căn bệnh này để giúp họ có cái nhìn đúng đắn và giúp người bệnh hòa nhập được với xã hội. Show
Vì sao bị đồng tính? Làm thế nào để nhận diện được những người mắc bệnh đồng tính, đó là một loại “bệnh” hay “tình”, và nếu là bệnh thật thì cách chữa trị, khắc phục như thế nào, còn là tình thì phải làm sao?... Nhân viên y tế thôn bản cần trang bị cho mình cũng như người dân trên địa bàn những kiến thức cơ bản về căn bệnh này để giúp họ có cái nhìn đúng đắn và giúp người bệnh hòa nhập được với xã hội.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng mắc phải hiện tượng đồng tính Cho đến thời điểm này, không thể quy trọn vẹn hiện tượng đồng tính luyến ái cho nguyên nhân sinh học hay nguyên nhân tâm lý. Theo những nghiên cứu mới nhất, nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, vùng đồ thị trên não của những người thuộc giới thứ 3 có sự khác biệt nhất định so với những người thuộc giới tính thứ nhất hay giới tính thứ 2. Rõ ràng, nguyên nhân sinh học có ảnh hưởng không nhỏ. Tuy vậy, chính môi trường gia đình, sự chăm sóc và cách giáo dục của bố mẹ và sự tương tác của cuộc sống xung quanh cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá rõ đến biểu hiện của hiện tượng này. Các nhóm đối tượng đồng tính? Có thể phân nhóm đối tượng này một cách đơn giản như sau: - Nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ; - Nhóm đối tượng chuyển hướng vì thực sự tìm được chính mình; - Nhóm đối tượng tự chấp nhận vào cuộc tự nguyện. - Nhóm đối tượng chấp nhận đồng thuận bằng sự giả vờ vì một mục tiêu cá nhân vụ lợi nào đó. Đối tượng này thực sự rất đáng phải quan tâm vì những nguy hiểm nhất sẽ xảy ra xoay quanh mối quan hệ phức tạp này. Đồng tính có phải là bệnh? Với nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ, có thể phân biệt hai thời kỳ mắc bệnh là thể bào thai (tức là mắc bệnh khi còn ở trong tử cung) và thể mắc bệnh sau khi sinh. Thực tế lâm sàng thường gặp thể bào thai, ít gặp thể sau khi sinh. Thể nam hóa ở các bé gái: Chiếm tỷ lệ 60% các ca bệnh. Trường hợp thứ nhất, bệnh gây tăng tiết androgen trước khi phát triển hoàn chỉnh cơ quan sinh dục nên dẫn đến phát triển cơ quan sinh dục kiểu giả ái nam ái nữ. Biểu hiện trên cơ thể: âm vật phì đại giống như dương vật, môi lớn, môi bé to, âm đạo, tử cung không phát triển. Trường hợp thứ hai, tăng tiết androgen sau khi đã biệt hóa các cơ quan sinh dục và các ống sinh dục, ở bé gái bị bệnh lúc này chỉ thấy phì đại âm vật. Trường hợp thứ ba, tăng tiết androgen sau khi sinh: ở bé gái sơ sinh, cơ quan sinh dục phát triển bình thường, nhưng về sau, cơ quan sinh dục bị biến đổi tùy thuộc vào tình trạng rối loạn chức năng vỏ thượng thận. Vì vậy trên lâm sàng có thể có các triệu chứng: trẻ mọc lông sớm theo kiểu đàn ông, âm vật phì đại, tử cung, tuyến vú không phát triển, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc vô sinh. Ở trẻ trai sau khi sinh, rối loạn phát triển sinh dục với các biểu hiện: phát triển sớm các triệu chứng sinh dục thứ phát, dương vật to, tuyến tiền liệt to, nhưng tinh hoàn không phát triển và không có hiện tượng tạo tinh trùng. Trẻ sớm có ham muốn sinh dục, cường dương, trường hợp bệnh xảy ra trong thời kỳ dậy thì, thường có tăng huyết áp. Nhiều quốc gia trên thế giới đã chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần từ những năm đầu thập niên 80 thế kỷ 20. Theo đó, chỉ nên kết luận đây là một biểu hiện của xu hướng tình dục chứ không nên kết luận là sự biến thái hay suy đồi đạo đức. Làm gì để xác định giới tính? - Kiểm tra ngoại hình: Với kỹ thuật hình ảnh như siêu âm và hoạt động thăm khám trực tiếp, bác sĩ tìm hiểu đường sinh dục, tuyến sinh dục để xác định giới tính cho bệnh nhân. - Tiến hành các xét nghiệm di truyền học: Nhiễm sắc thể đồ (khảo sát bộ nhiễm sắc thể của bệnh nhân với tiêu chuẩn 46XX với nữ, 46XY với nam). - Xét nghiệm xác định nồng độ trong máu của một loạt các hormone nam và nữ như FSH, LH, oestradiol, progesteron, prolactin, testosteron. - Khảo sát tâm lý về mặt tính cách, tâm lý xã hội, sở thích, thói quen bằng trò chuyện với bệnh nhân; đồng thời tìm hiểu mong ước của người thân về giới tính bệnh nhân. Trường hợp nào cần phẫu thuật? Phẫu thuật chỉ áp dụng với nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ, nếu phát hiện sớm, điều trị đúng thì bệnh nhân vẫn phát triển sinh dục bình thường. Ngược lại, nếu phát hiện muộn thì tuy bệnh nhân có thể phát triển sinh dục bình thường nhưng sẽ bị lùn, rậm lông và có những biến chứng của tăng huyết áp. Những trường hợp trẻ sinh ra có cơ quan sinh dục ngoài lớn hơn âm vật nhưng nhỏ hơn dương vật, có thể có dính một phần môi lớn/bìu; trẻ phát triển cơ quan sinh dục ngoài kiểu nữ, mặc dù vẫn có tinh hoàn trong ổ bụng; trẻ có tinh hoàn hoạt động nhưng dương vật bé giống như một âm vật và bìu giống như môi lớn… là những trường hợp bắt buộc phải phẫu thuật sớm để tránh xảy ra các biến chứng. Với những người đồng tính không phải do bẩm sinh, nếu có nhu cầu phẫu thuật chuyển giới, nên thực hiện tại các cơ sở y tế chuyên khoa có uy tín. Làm gì để những người đồng tính có thể hòa nhập với cuộc sống hiện tại? Đồng tính luyến ái ở cả nam và nữ, về bản chất tâm lý, không có tội dù rằng chưa thể hoàn toàn bình thường nếu xét theo hệ quy chiếu chuẩn mực xã hội. Hiện vẫn chưa có một loại thuốc hay liệu pháp tâm lý đặc hiệu nào có thể giúp những con người như họ hòa nhập với cuộc sống. Chính vì vậy, nhân viên y tế thôn bản hãy tích cực tuyên truyền để mọi người có thể thông cảm và chia sẻ với những người đồng tính. Họ rất cần sự cảm thông và trân trọng của xã hội. BS. Nguyễn Như Theo Tổng hợp một người phụ nữ đang cầm cờ LGBT Từ tiếng Anh "homosexual" ("đồng tính luyến ái") là từ lai giữa tiếng Hy Lạp và tiếng La-tinh, với yếu tố đầu tiên bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "ὁμός homos", nghĩa là "giống nhau" (không liên quan đến từ homo trong tiếng Latinh nghĩa là "đàn ông", như trong Homo sapiens), do đó ám chỉ hành vi tình dục và tình cảm giữa những người cùng giới tính, kể cả đồng tính nữ. "Đồng tính luyến ái" là một từ Hán Việt, viết bằng chữ Hán là "同性戀愛", dịch sát nghĩa từng chữ là "yêu người cùng giới tính".[cần dẫn nguồn] Từ "homosexual" lần đầu tiên xuất hiện dưới dạng in trong một tập sách tiếng Đức in năm 1869 của tiểu thuyết gia người Áo Karl-Maria Kertbeny, được xuất bản ẩn danh, trong đó tác giả đưa ra lập luận chống lại luật chống chế độ thống trị của Phổ. Năm 1886, bác sĩ tâm thần Richard von Krafft-Ebing đã sử dụng thuật ngữ homosexual (đồng tính) và heterosexual (dị tính) trong cuốn sách Psychopathia Sexualis (Chứng thái nhân cách về tình dục) của mình. Cuốn sách của Krafft-Ebing phổ biến đối với cả người thường và giới bác sĩ đến nỗi thuật ngữ heterosexual và homosexual đã trở thành thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi nhất cho xu hướng tình dục. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ này hiện nay có nguồn gốc từ truyền thống phân loại của thế kỷ 19. Nhiều tài liệu hướng dẫn văn phong hiện đại ở Hoa Kỳ khuyến cáo không nên sử dụng homosexual (đồng tính luyến ái) như một danh từ, thay vào đó sử dụng từ gay (đồng tính nam) hoặc lesbian (đồng tính nữ). Tương tự, một số nơi khuyến cáo nên tránh hoàn toàn việc sử dụng từ homosexual vì nó thể hiện tiền sử bệnh lý tiêu cực và vì từ này chỉ đề cập đến hành vi tình dục của một người (trái ngược với cảm xúc tình yêu) và do đó nó mang hàm ý tiêu cực. Gay và lesbian là những lựa chọn thay thế phổ biến nhất. Các chữ cái đầu tiên thường được kết hợp để tạo ra từ viết tắt là LGBT (đôi khi được viết là GLBT), trong đó B và T dùng để chỉ những người song tính (bisexual) và chuyển giới (transgender). Gay dùng để chỉ đồng tính luyến ái nam, nhưng cũng có thể được dùng theo nghĩa rộng hơn để chỉ tất cả những người LGBT. Nếu xét về mặt tính dục, lesbian chỉ đề cập đến đồng tính luyến ái nữ. Từ lesbian có nguồn gốc từ tên của hòn đảo Hy Lạp Lesbos, nơi nữ nhà thơ Sappho đã viết phần lớn về các mối quan hệ tình cảm của cô với những phụ nữ trẻ. Mặc dù các nhà văn trước đây cũng sử dụng tính từ homosexual để chỉ bất kỳ bối cảnh đơn giới tính nào (chẳng hạn như trường học toàn học sinh nữ), ngày nay thuật ngữ này chỉ được sử dụng để chỉ sự hấp dẫn giới tính, và xu hướng tính dục. Thuật ngữ homosocial hiện được sử dụng để mô tả bối cảnh đơn giới tính nhưng không bao gồm tình dục. Ngoài ra còn có một từ chỉ tình yêu đồng giới là homophilia. Một số từ đồng nghĩa với hấp dẫn đồng giới hoặc hoạt động tình dục bao gồm nam quan hệ tình dục với nam hay MSM (được sử dụng trong cộng đồng y học khi thảo luận cụ thể về hoạt động tình dục) và gợi dục đồng tính (đề cập đến các tác phẩm nghệ thuật). Các thuật ngữ mang ý miệt thị trong tiếng Anh bao gồm queer, faggot, fairy, poof và homo. Bắt đầu từ những năm 1990, một số từ trong số này đã được những người đồng tính nam và đồng tính nữ coi là những từ tích cực, như trong các cụm từ queer học, lý thuyết queer, và thậm chí cả trong chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ Queer Eye for the Straight Guy. Từ homo xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ khác mà không mang hàm ý miệt thị như trong tiếng Anh. Cũng như những từ ngữ khinh miệt về sắc tộc và chủng tộc, việc sử dụng những thuật ngữ này vẫn có thể gây xúc phạm mạnh. Phạm vi sử dụng được chấp nhận cho các thuật ngữ này tùy thuộc vào ngữ cảnh và người nói. Ngược lại, gay, một từ ban đầu được nam và nữ đồng tính chấp nhận như một thuật ngữ mang tính khẳng định, tích cực (như trong phong trào giải phóng người đồng tính và quyền của người đồng tính), đã được sử dụng rộng rãi với ý miệt thị trong giới trẻ Tổ chức quyền LGBT của Mỹ GLAAD khuyên giới truyền thông tránh sử dụng thuật ngữ homosexual để mô tả người đồng tính hoặc các mối quan hệ đồng giới vì thuật ngữ này "thường được những người cực đoan chống đồng tính sử dụng để hạ thấp những cá nhân đồng tính, các cặp vợ chồng và các mối quan hệ đồng tính". Trong tiếng Việt người đồng tính luyến ái nam thường được gọi là "người đồng tính nam" hoặc "gay" /ɣaj/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "gay" /ɡeɪ/), "bê đê" /ɓe ɗe/, "pê đê" /pe ɗe/ (bắt nguồn từ tiếng Pháp "pédérastie"), người đồng tính luyến ái nữ thường được gọi là "người đồng tính nữ" hoặc "lét" /lɛt/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "lesbian" /ˈlezbiən/, thường được viết phỏng theo tiếng Anh là "les" dù phát âm khác với tiếng Anh).[cần dẫn nguồn] Người đồng tính rất đa dạng về mọi mặt. Không có đặc điểm ngoại hình đặc trưng nào để "nhận dạng" người đồng tính so với những người khác trong xã hội. Từ "bóng" hay "bê đê" (từ mang hàm ý thể hiện sự miệt thị) mà người ta hay dùng để chỉ một người con trai ăn mặc, cư xử và hành động như con gái thực ra là nói đến người chuyển giới nữ nhưng chưa có điều kiện phẫu thuật. Lịch sửSửa đổiBài chi tiết: Dòng thời gian của lịch sử LGBT Một số học giả cho rằng thuật ngữ "đồng tính luyến ái" không phù hợp khi áp dụng cho các nền văn hóa cổ đại, chẳng hạn như người Hy Lạp hay người La Mã đều không sở hữu bất kỳ từ nào có cùng phạm vi ngữ nghĩa như khái niệm hiện đại về "đồng tính luyến ái". Hơn nữa, có rất nhiều hành vi tình dục được chấp nhận khác nhau tùy thuộc vào thời gian và địa điểm. Các học giả khác cho rằng có sự tiếp diễn liên tục đáng kể giữa đồng tính luyến ái cổ đại và hiện đại. Thái độ xã hội đối với quan hệ đồng giới thay đổi theo thời gian và nơi chốn bao gồm từ việc mong muốn tất cả nam giới có quan hệ cùng giới hoặc chấp nhận hòa hợp tự nhiên cho đến xem như một tội lỗi nhẹ, chịu sự cấm đoán của luật pháp hay thậm chí là tử hình. Trong một cuộc sưu tập các tài liệu lịch sử và dân tộc học của các nền văn hóa thời kỳ Trước Công nghiệp, "có 41% trong số 42 nền văn hóa phản đối mạnh mẽ, 21% chấp nhận hoặc phớt lờ và 12% không có khái niệm. Trong số 70 dân tộc, 59% không có hoặc hiếm có sự xuất hiện của đồng tính luyến ái; tại 41% còn lại, đồng tính có xảy ra hoặc không phổ biến."[21] Trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, luật pháp và nhà thờ quy định kê gian là một tội lỗi chống lại thần thánh hoặc tự nhiên. Tuy nhiên, sự lên án tình dục hậu môn của nam và nam có từ tư tưởng Kitô giáo. Sự lên án này cũng thường thấy ở Hy Lạp cổ đại, cụm từ "không tự nhiên" có thể có từ triết gia Plato.[20] Những cụm từ như đồng tính luyến ái hoặc song tính luyến ái từng được dùng bởi nhiều nhân vật lịch sử như Socrates, Lord Byron, Edward II và Hadrian. Vài học giả, chẳng hạn như Michel Foucault, coi đây là sự giải thích sai về mặt niên đại, dựa trên quan niệm tình dục đương đại cho thời đại của những nhân vật này,[22] mặc dù nhiều học giả khác đã không thừa nhận quan điểm của những học giả trên.[23] Về sự tự nhiên của đồng tính luyến ái và sự biểu hiện trong lịch sử, có hai quan điểm trái ngược nhau đại diện bởi cách tiếp cận kiến tạo luận (constructionist) và bản chất luận (essentialist). Nhìn chung, chủ nghĩa kiến tạo luận xã hội xem xét rằng nhiều đặc tính của một nhóm xã hội nào đó, chứ không phải là bản chất tự nhiên của chính cá nhân, đã dẫn đến "sự kiến tạo xã hội". Trong khi đó, chủ nghĩa bản chất luận bảo vệ sự tồn tại của bản chất thực sự. Bản chất đó xác định biểu hiện của một cá nhân và những thứ học được từ xã hội mang tính thứ yếu. David M. Halperin dành một chương: Đồng tính luyến ái: sự kiến tạo văn hóa trong tác phẩm Một trăm năm đồng tính luyến ái cho chủ đề này.[24] Ông nói rằng chủ nghĩa bản chất luận áp dụng vào phân loại tình dục nói lên rằng những thuật ngữ đồng tính hay dị tính chỉ những đặc tính cá nhân thuộc về bản chất, không thay đổi được về mặt văn hóa. Ngược lại, chủ nghĩa kiến tạo cho rằng những thuật ngữ này là tên của những quá trình xã hội. Halperin nghiêng về lập luận thứ hai vì ông coi tình dục, bao gồm đồng tính, từng được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau một cách cơ bản trong những xã hội khác nhau ngày nay. Tuy nhiên ông, trích dẫn Esteven Epstein,[25] so sánh sự tranh luận giữa bản chất luận và kiến tạo luận với tự nhiên đối chọi nuôi dưỡng (nature versus nurture).[26] Bởi vì thiên hướng tình dục là phức tạp và đa chiều, một số học giả và các nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong các nhà nghiên cứu đồng tính trước đây, đã lập luận rằng đồng tính luyến ái là một kết quả của lịch sử và xã hội. Năm 1976, nhà triết học và sử học Michel Foucault cho rằng đồng tính luyến ái là một thứ không tồn tại ở châu Âu trong thế kỷ XVIII, khi mà tình dục đồng giới còn là một hành vi tội phạm (xem Kê gian). Ông viết: "Thiên hướng Tình dục về bản chất là một "sáng chế" của các nhà nước hiện đại, cuộc cách mạng công nghiệp, và chủ nghĩa tư bản".[27] Châu PhiSửa đổiGhi chép đầu tiên về một cặp đôi đồng tính luyến ái trong lịch sử thường được cho là Khnumhotep và Niankhkhnum, một cặp đồng tính nam ở Ai Cập cổ đại, sống vào khoảng năm 2400 trước Công nguyên. Cặp đôi này được khắc hoạ trong tư thế hôn mũi, tư thế thân mật nhất trong nghệ thuật Ai Cập, và có vẻ như được bao quanh bởi những người thừa kế của họ. Các nhà nhân chủng học Stephen Murray và Will Roscoe đã báo cáo rằng phụ nữ ở Lesotho tham gia vào "các mối quan hệ lâu dài, gợi dục" được gọi là motsoalle. Nhà nhân chủng học E. E. Evans-Pritchard cũng ghi lại rằng các nam chiến binh Azande ở phía bắc Congo thường xuyên bắt cặp với những người tình nam giới trẻ tuổi từ mười hai đến hai mươi, những người này giúp đỡ các công việc gia đình và tham gia quan hệ tình dục qua cọ xát đùi với những người chồng lớn tuổi hơn của mình. Đông ÁSửa đổiỞ Đông Á, tình yêu đồng giới đã được nhắc đến từ những thời kỳ sớm nhất trong lịch sử. Đồng tính luyến ái ở Trung Quốc, được biết đến là tình yêu trái đào cắn dở và nhiều cách nói uyển ngữ khác, đã được ghi nhận từ khoảng năm 600 trước Công nguyên. Đồng tính luyến ái đã được đề cập trong nhiều tác phẩm nổi tiếng của văn học Trung Quốc. Những hình ảnh về tình cảm cũng như tình dục đồng tính được mô tả trong tiểu thuyết kinh điển Hồng Lâu Mộng quen thuộc với người đọc hiện nay ngang với những câu chuyện tương tự về tình cảm khác giới trong cùng thời kỳ. Nho giáo, bởi là một hệ tư tưởng về xã hội và chính trị, ít tập trung vào tình dục, cho dù là đồng tính luyến ái hay dị tính luyến ái. Văn học thời nhà Minh, chẳng hạn như Biện Nhi Thoa (弁而釵/弁而钗), miêu tả các mối quan hệ đồng tính giữa nam giới là thú vị và "hài hòa" hơn các mối quan hệ khác giới. Các ghi chép từ thời Lưu Tống của Vương Thư Nô khẳng định rằng đồng tính luyến ái phổ biến như dị tính luyến ái vào cuối thế kỷ thứ 3. Sự phản đối đồng tính luyến ái ở Trung Quốc bắt nguồn từ thời nhà Đường (618–907), được cho là do ảnh hưởng ngày càng tăng của các giá trị Thiên chúa giáo và Hồi giáo, nhưng phải đến khi có các nỗ lực Tây hóa vào cuối triều Thanh và Cộng hòa Trung Hoa thì sự phản đối này mới hình thành rõ rệt. Đồng tính luyến ái ở Nhật Bản, được biết đến dưới dạng chúng đạo hay nam sắc (những từ bị ảnh hưởng từ văn chương Trung Hoa), được ghi nhận từ hơn một ngàn năm và từng là một phần trong đời sống Phật giáo và truyền thống samurai. Văn hóa tình yêu đồng giới làm truyền thống hội họa và văn chương mô tả những mối quan hệ đó được nâng cao. Tại Thái Lan, Kathoey hay "trai nữ" (cô chàng) là một phần trong xã hội trong nhiều thế kỷ và quốc vương Thái Lan cũng có các "cung phi" là nam cũng như nữ. Kathoey có thể nữ tính hoặc là biến trai làng (transvestism). Thái Lan chưa từng có luật cấm đồng tính luyến ái hoặc hành vi đồng tính, nhưng cũng không công nhận quan hệ giữa họ.[cần dẫn nguồn] Nam ÁSửa đổiLuật Manu đề cập đến "giới tính thứ ba", các thành viên thuộc giới tính này có thể tham gia vào việc thể hiện giới phi truyền thống và các hoạt động đồng tính luyến ái. Trung ĐôngSửa đổiThông tin thêm: LGBT trong Hồi giáo và Quyền LGBT ở Israel Tại Trung Đông, nhiều nhà thơ Hồi giáo (hầu hết là Sufi) tại các nước Ả Rập và Ba Tư trong thời Trung cổ đã viết thơ ca tụng những cậu bé đem rượu cho họ trong các quán rượu và ngủ chung giường với họ.[28] Tại Trung Á, trên Đường tơ lụa, nơi giao điểm giữa hai nền văn hóa Đông-Tây, đã nảy ra một văn hóa đồng tính luyến ái. Trong đó có người bacchá, thường là người tiếp đãi viên đồng thời làm nghề mại dâm thanh niên phái nam ăn mặc lộng lẫy và có trang điểm. Những người bachá hát và múa những bài hát khiêu dâm cho khán giả. Họ được huấn luyện từ còn nhỏ và làm việc cho đến khi râu mọc.[29] Có rất nhiều nguồn từ những nhà du hành Ả Rập sang ChâuÂu giữa những năm 1800. Hai trong số những nhà du hành này, Rifa’ah al-Tahtawi và Muhammad as-Saffar, biểu lộ sự bất ngờ khi người Pháp đôi lúc cố ý dịch sai bài thơ tình về một cậu bé, sửa thành một cô bé, để bảo vệ đạo đức và chuẩn mực xã hội. Israel được cho là quốc gia nhân nhượng nhất ở Trung Đông và châu Á đối với đồng tính luyến ái, có Tel Aviv cùng cái tên "thủ đô đồng tính của Trung Đông" và được xem như một trong những đô thành thân thiện với đồng tính nhất trên thế giới. Lễ Diễu hành Tự hào hằng năm ủng hộ đồng tính luyến ái cũng diễn ra ở Tel Aviv. Ngược lại, nhiều chính phủ ở Trung Đông thường phớt lờ, phủ nhận sự hiện diện, hoặc hình sự hóa đồng tính luyến ái. Đồng tính luyến ái bị coi là bất hợp pháp ở hầu hết các nước Hồi giáo.Hoạt động tình dục cùng giới chính thức nhận án tử hình ở một vài quốc gia Hồi giáo: Ả Rập Saudi, Iran, Mauritania, bắc Nigeria, Sudan, và Yemen. Tổng thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad, trong bài diễn văn năm 2007 của ông tại Đại học Columbia, đã khẳng định rằng không có người đồng tính nào ở Iran. Tuy nhiên, khả năng cao là họ giấu kín tính dục của mình để được chính phủ thừa nhận và vì sợ sự chối bỏ từ gia đình. Thời kì Tiền Hồi giáoSửa đổiỞ Sumer cổ đại, một đoàn linh mục gọi là gala làm việc trong những đền thờ nữ thần Inanna, nơi họ biểu diễn nhạc truy điệu.Các gala lấy tên phụ nữ, nói bằng thổ ngữ eme-sal—theo truyền thống, thổ ngữ này chỉ dành riêng cho phái nữ—và họ có thể đã tham gia vào quan hệ tình dục đồng tính. Biểu tượng cho những gala trong văn hóa Sumer là hình ghép của biểu tượng "dương vật" và "hậu môn". Một tục ngữ tiếng Sumer đã ghi: "Khi gala ấy lau chùi mặt sau [ông nói], ‘Ta không thể kích thích thứ vốn thuộc về vợ ta [trong trường hợp này là Inanna].’" Trong các nền văn minh Lưỡng Hà sau này, kurgarrū và assinnu là những người hầu của nữ thần Ishtar (phiên bản Đông Semit của Inanna), họ mặc trang phục phụ nữ và biểu diễn trận giả trong những đền thờ thần Ishtar. Một vài tục ngữ Akkad dường như cũng ám chỉ rằng họ có thể đã thực hiện quan hệ tình dục đồng tính. Ở Assyria cổ đại, đồng tính luyến ái hiện diện và rất phổ biến; điều đó không bị cấm túc, lên án, hay bị xem là hành vi thiếu đạo đức hoặc rối loạn. Một vài văn bản tôn giáo còn bao gồm những lời cầu nguyện thánh thần ban phước lành cho những mối quan hệ đồng tính.[30][31] Cuốn "Almanac of Incantation" ("Niên lịch Thần chú") có những lời cầu nguyện cho sự bình đẳng giữa tình yêu của người nam dành cho người nữ, của người nữ dành cho người nữ, và của người nam dành cho người nam.[32] Nam Thái Bình DươngSửa đổiTrong xã hội Melanesia, đặc biệt ở Papua New Guinea, quan hệ cùng giới là một nét văn hóa cho đến giữa thế kỷ trước. Người Etoro và người Marind-anim còn coi dị tính luyến ái là tội lỗi và tôn vinh đồng tính luyến ái. Trong truyền thống Melanesia, một cậu bé chưa dậy thì sẽ được bắt cặp với một thiếu niên, người này sẽ trở thành tư vấn thụ tinh cho cậu bé (đường miệng hay hậu môn tùy thuộc vào bộ tộc) trong vài năm để làm cho cậu bé đó dậy thì. Tuy nhiên, nhiều xã hội Melanesia trở nên căm ghét quan hệ cùng giới khi các nhà truyền giáo châu Âu đến truyền giáo.[33] Châu ÂuSửa đổiThời Cổ đại Hy-LaSửa đổiTài liệu lâu đời nhất ở Tây phương (dưới dạng tác phẩm văn học, nghệ thuật, và thần thoại) có đề cập đến các mối quan hệ đồng tính được bắt nguồn từ Hy Lạp cổ. Người đàn ông La mã và một thiếu niên trên giường vào giữa thế kỷ I. Tìm thấy gần Jerusalem. Nói về đồng tính luyến ái nam, những tài liệu ấy mô tả một quan niệm đôi lúc phức tạp mà trong đó, việc có các mối quan hệ với những người phụ nữ và các nam thiếu niên đều là một phần thường thấy trong đời sống tình cảm của một người đàn ông. Những mối quan hệ cùng giới từng là một thiết chế xã hội được xây dựng sao cho phù hợp với các thời và các nơi chốn đô thành khác nhau. Theo phong tục chính thống, đó là một mối quan hệ gợi dục nhưng thường bị dằn nén giữa một người đàn ông tự do và một thiếu niên tự do, được ưa chuộng bởi những lợi ích về mặt giáo dục nó mang lại và được xem như một phương tiện để điều chỉnh dân số, nhưng đôi khi cũng bị cho là nguyên do dẫn đến sự mất trật tự. Plato ca ngợi nó trong những văn bản đầu tiên của ông,[34] tuy nhiên lại đề xuất việc ngăn cấm nó trong những tác phẩm sau này.[35] Trong "Chính trị luận", Aristotle đã bác bỏ quan niệm bài trừ đồng tính luyến ái của Plato (2.4); ông giải thích rằng những người man di như người Celt xem nó như một vinh hạnh (2.6.6), còn cư dân đảo Crete lại dùng nó để điều hòa dân số (2.7.5). Đồng tính luyến ái nữ ở thời cổ đại cổ điển vẫn không được biết đến nhiều. Sappho, sinh ra trên đảo Lesbos, được những người Hy Lạp đời sau liệt kê vào danh sách chín vị thi nhân trữ tình. Những tính từ bắt nguồn từ tên và nơi sinh của bà (Sapphic và Lesbian) đã được dùng để chỉ đồng tính luyến ái nữ từ đầu thế kỉ 19. Những tác phẩm của Sappho tập trung vào sự say mê và tình yêu hướng đến nhiều mẫu người cũng như hướng đến cả hai giới. Lời dẫn truyện trong nhiều bài thơ của bà bày tỏ sự mê đắm và tình yêu (đôi khi được đáp lại, đôi khi không) đối với nhiều nữ giới, nhưng những mô tả về các hoạt động thể xác giữa phụ nữ với nhau rất ít và còn là vấn đề được tranh cãi. Ở La Mã Cổ đại, thân thể một người nam trẻ tuổi vẫn được coi là tâm điểm tình dục của nam giới, nhưng những mối quan hệ chỉ diễn ra giữa những người đàn ông tự do cùng nô lệ hoặc cùng những thanh niên tự do với vai trò "thụ động" trong tình dục. Vị Hoàng đế ái Hy Lạp tên Hadrian được biết đến với mối quan hệ cùng Antinous, nhưng Hoàng đế Cơ Đốc giáo Theodosius I đã ra một đạo luật vào ngày 6 tháng 8 năm 390, bắt buộc những người nam đóng vai trò "thụ động" phải bị hỏa thiêu. Mặc dù những quy định như thế đã được ban hành, các nhà chứa với các cậu bé cung cấp dịch vụ tình dục đồng tính vẫn bị đánh thuế cho đến hết triều đại Anastasius I năm 518. Justinian, vào cuối thời kì trị vì của mình, đã mở rộng luật cấm đối với cả những người nam đóng vai trò "chủ động" (vào năm 558), và cảnh cáo rằng hành động đó có thể dẫn đến sự hủy diệt của các đô thành do "cơn thịnh nộ của Chúa". Thời kì Phục HưngSửa đổiTrong Kinh Thánh có mô tả về Thành phố Sodome, nơi mà nhiều cư dân nam có hành vi tình dục đồng giới. Thành phố này đã bị thiêu hủy bởi trận mưa lửa từ trên trời do Thượng đế giáng xuống để trừng trị sự thác loạn của cư dân nơi đây. Từ Sodome cũng trở thành thông dụng để chỉ việc quan hệ tình dục đồng giới của nam tại phương Tây. Trong thời kì Phục Hưng, các đô thành Bắc Ý – cụ thể là Florence và Venice – nổi tiếng với nhiều mối tình đồng tính, bao gồm một phần đáng kể nam giới, theo phương thức như ở Hy Lạp và La Mã cổ đại. Nhưng cho dù có bao nhiêu nam giới có quan hệ đồng tính đi chăng nữa, những nhà cầm quyền, dưới sự bảo hộ của tổ chức Gli Ufficiali di Notte (Người Gác Đêm), vẫn xử tội, phạt tiền, và giam giữ khá nhiều người thuộc phần dân số đó. Từ nửa sau của thế kỷ 13, hầu hết mọi nơi trên châu u đều xử tử những người đồng tính nam. Các mối quan hệ giữa những nhân vật có tầm ảnh hưởng trong xã hội, như giữa Vua James đệ Nhất và Bá tước xứ Buckingham, đã góp phần làm nổi bật vấn đề, được viết lên cả các tờ rơi khuyết danh trên đường phố: "Thế giới đổi thay, chẳng hiểu vì sao, Để nam Hôn Nhau, chẳng màng Nữ mạo;… Giữa J. đệ Nhất và Buckingham: Ngài, chính thế, hiền Phụ tiều tụy Vòng tay, Ngài theo Ganimede, dại ngây" (Mundus Foppensis, hay The Fop Display’d (Tên Tự phụ bị Phô bày), 1691). Thời kì Hiện đạiSửa đổiThông tin thêm: Lịch sử LGBT ở Thổ Nhĩ Kỳ Vị vua lừng danh Friedrich II Đại Đế, tức "Friedrich Độc đáo", trị vì nước Phổ từ năm 1740 cho đến năm 1786,[36] cũng bị nghi vấn đồng tính luyến ái. Có người đương thời nói ông hoang dâm với các triều thần.[37] Nhiều quan lại trong triều đình Phổ lúc đó hay đem sự loạn dâm đồng tính ra làm chủ đề đùa cợt.[38] "Love Letters Between a Certain Late Nobleman and the Famous Mr. Wilson" ("Những Bức thư Tình giữa một Quý tộc Quá cố và Ngài Wilson Danh tiếng") được xuất bản năm 1723 ở nước Anh, và được một số học giả hiện đại cho là một cuốn tiểu thuyết. Phiên bản năm 1749 của cuốn "Fanny Hill" do John Cleland viết có một phân đoạn liên quan đến đồng tính, nhưng đã bị cắt bỏ ở phiên bản năm 1750. Cũng vào năm 1749, văn bản đầy đủ đầu tiên bảo vệ đồng tính luyến ái bằng tiếng Anh, "Ancient and Modern Pederasty Investigated and Exemplified" ("Nghiên cứu và Ví dụ về Đồng dâm nam Cổ đại và Hiện đại"), được viết bởi Thomas Cannon, đã xuất bản, nhưng bị đình bản gần như ngay tức thì. Trong đó có đoạn: "Cụm từ ‘Ham muốn Phi tự nhiên’ mâu thuẫn với định nghĩa của chính nó; nói trắng ra là vô lý. ‘Ham muốn’ là sự thôi thúc về mặt tình cảm nằm sâu trong Phần người."[79] Vào khoảng năm 1785, Jeremy Bentham viết một văn bản bảo vệ đồng tính, nhưng nó không được xuất bản cho đến năm 1978.[80] Việc xử tử cho hành động kê gian vẫn tiếp diễn ở Hà Lan cho đến năm 1803, và ở Anh cho đến năm 1835, với James Pratt và John Smith là hai người Anh cuối cùng bị treo cổ vì tội trạng đó. Giữa năm 1864 và 1880, Karl Heinrich Ulrichs đã xuất bản một loạt gồm mười hai truyền đơn mà ông đặt tên chung là "Research on the Riddle of Man-Manly Love" ("Nghiên cứu về Tình yêu Nam tính Bí ẩn của Nam giới"). Vào năm 1867, ông trở thành người đồng tính tự xưng đầu tiên lên tiếng bảo vệ đồng tính luyến ái trước dư luận, khi ông đề nghị bãi bỏ các đạo luật chống đồng tính trên Đại hội Luật gia Đức ở Munich.[16] "Sexual Inversion" ("Tình dục Trái ngược"), viết bởi Havelock Ellis, xuất bản năm 1896, phản bác lại những giả thuyết cho rằng đồng tính luyến ái là bất bình thường, cũng phản bác lại những khuôn mẫu, kiên trì khẳng định sự phổ biến của đồng tính luyến ái và mối liên quan giữa nó với những thành tựu về tri thức và nghệ thuật.[81] Mặc dù những văn bản y học như trên (được viết bằng tiếng Latinh để giấu đi những chi tiết tình dục) không được nhiều người trong công chúng đọc, những văn bản đó đã dẫn đường cho Ủy ban Khoa học-Nhân đạo của Magnus Hirschfeld vận động bãi bỏ luật chống kê gian ở Đức từ năm 1897 đến 1933, và còn là nền móng cho một phong trào cũng như thế, diễn ra trong phạm vi trí thức và tác gia nước Anh, không chính thức, không phô trương, được lãnh đạo bởi những nhân vật như Edward Carpenter và John Addington Symonds. Bắt đầu vào năm 1894 với "Homogenic Love" ("Tình yêu Đồng giới"), nhà hoạt động Xã hội chủ nghĩa kiêm nhà thơ Edward Carpenter đã viết một loạt bài báo và truyền đơn ủng hộ đồng tính, cũng đã "công khai" vào năm 1916 trong cuốn sách "My Days and Dreams" ("Đời và Mộng") của ông. Năm 1990, Elisar von Kupffer cho xuất bản một tuyển tập những tác phẩm văn học đồng tính từ thời cổ đại cho đến thời của ông, tên là "Lieblingminne und Freundesliebe in der Weltliteratur". Châu MỹSửa đổiXem thêm: Đồng tính luyến ái ở Peru cổ đại Cũng như nhiều nền văn hóa không phải phương Tây khác, rất khó để xác định mức độ mà các quan niệm phương Tây về xu hướng tính dục và bản dạng giới có thể áp dụng đối với các nền văn hóa trước lúc Columbus tìm ra châu Mỹ. Bằng chứng về các hành vi tình dục đồng tính luyến ái và hiện tượng mặc trang phục khác giới đã được tìm thấy ở nhiều nền văn minh trước khi Tây Ban Nha thuộc địa hoá châu Mỹ ở Mỹ Latinh, chẳng hạn như người Aztec, Maya, Quechua, Moche, Zapotec, Inca và Tupinambá ở Brazil. Những nhà chinh phục người Tây Ban Nha đã kinh hoàng khi phát hiện ra những người bản địa công khai kê gian với nhau, và cố gắng dẹp bỏ nó bằng cách bắt những người berdache (người hai tâm hồn – cách gọi của người Tây Ban Nha) dưới sự cai trị của mình phải chịu những hình phạt nghiêm khắc, bao gồm hành quyết công khai, thiêu sống và bị chó xé xác. Những nhà chinh phục người Tây Ban Nha đã nói nhiều về sự kê gian của người bản địa để gán cho họ cái mác những kẻ man rợ và lấy cớ đó biện minh cho cuộc chinh phạt và việc cưỡng chế cải đạo sang Cơ đốc giáo của mình. Do ảnh hưởng và quyền lực ngày càng lớn của những kẻ chinh phục, nhiều nền văn hóa bản địa bắt đầu lên án chính các hành vi đồng tính luyến ái. Ở một số dân tộc bản địa châu Mỹ ở Bắc Mỹ trước khi bị châuÂu thuộc địa hoá, một hình thức quan hệ tình dục đồng giới tương đối phổ biến xoay quanh hình tượng cá thể Hai Tâm Hồn (bản thân thuật ngữ này chỉ được đặt ra vào năm 1990). Thông thường, cá nhân này được công nhận sớm khi còn nhỏ, được cha mẹ cho lựa chọn đi theo con đường này và, nếu đứa trẻ chấp nhận vai trò đó, được nuôi dạy theo cách thích hợp, học các phong tục của giới tính mà nó đã chọn.[39] Các cá nhân Hai Tâm Hồn thường là những pháp sư và được tôn sùng là có sức mạnh vượt xa những pháp sư thông thường. Họ có quan hệ tình dục với các thành viên bộ lạc bình thường cùng giới tính. Trong thời kỳ thuộc địa sau cuộc xâm lược của châu u, đồng tính luyến ái bị Tòa án dị giáo truy tố, một số lần dẫn đến án tử hình với tội danh kê gian, và các hoạt động này trở thành bí mật. Nhiều cá nhân đồng tính đã tiến hành các cuộc hôn nhân khác giới để giữ vẻ bề ngoài, và nhiều người quay sang giới tăng lữ để thoát khỏi sự soi mói của công chúng về việc họ không có hứng thú với người khác giới. Hoa KỳSửa đổiXem thêm: Lịch sử LGBT ở Hoa Kỳ và Các địa điểm lịch sử LGBT ở Hoa Kỳ Năm 1986, Tòa án tối cao của Hoa Kỳ đã ra phán quyết trong vụ kiện Bowers v. Hardwick rằng một bang có thể hình sự hóa kê gian, nhưng, vào năm 2003, đã lật ngược quyết định ở vụ kiện Lawrence v. Texas và do đó hợp pháp hóa hoạt động tình dục đồng giới trên khắp Hoa Kỳ. Việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở Hoa Kỳ đã được mở rộng từ một bang vào năm 2004 lên tất cả 50 bang vào năm 2015, thông qua các phán quyết khác nhau của tòa án bang, luật hành pháp của bang, số phiếu phổ thông trực tiếp (trưng cầu dân ý và sáng kiến) và phán quyết của tòa án liên bang. Hiện đạiSửa đổiLá cờ cầu vồng, một biểu tượng của cộng đồng LGBT, trong đó có người đồng tính, trong lễ Phục sinh của người đồng tính ở Gemeinde Werneuchen, Đức, tháng 4 năm 2006. Từ năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Trong vài ba thập kỉ nay, tại các nước Tây phương có sự hình thành của một "nền văn hóa đồng tính". Tuy nhiên, cũng có nhiều người đồng tính không tham gia trong cộng đồng đó. Sau khi bị chính quyền Đức quốc xã cố ý tiêu diệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai, những người đồng tính đã giành được nhiều quyền, đặc biệt là tại các nước Tây phương. Những nỗ lực nhằm giải phóng đồng tính luyến ái được cho là bắt đầu từ thập niên 1860 và từ giữa thập niên 1950, sự đòi hỏi công nhận quyền cho người đồng tính và song tính luyến ái ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, chứng ghê sợ đồng tính luyến ái vẫn tồn tại, đặc biệt là nó làm cho nhiều người gặp nhiều khó khăn trong xã hội đôi khi dẫn đến tự tử.[40] Một số quốc gia gần đây đã cho phép người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi. Sự xuất hiện của HIV/AIDS từ giữa thập niên 1980 là một trong những vấn đề mà người đồng tính phải đương đầu trong thời gian gần đây. Trong lĩnh vực tôn giáo, một số nhóm tôn giáo cũng bắt đầu tỏ ra cởi mở với người đồng tính. Một giáo phái Do Thái giáo đã bắt đầu mở dịch vụ làm lễ kết hôn cho người đồng tính, trong khi nhóm Anh giáo đã nhận một mục sư đồng tính. Một số ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như Cher, Madonna,Lady Gaga, Christina Aguilera, Cyndi Lauper,... đã đưa chủ đề người đồng tính vào những bài hát, video âm nhạc, những màn biểu diễn của mình để bày tỏ sự ủng hộ của họ với giới đồng tính luyến ái. Chính nhạc disco có nguồn gốc từ sự liên kết ban đầu với lối sống của một bộ phận giới đồng tính luyến ái nam ở Thành phố New York [41][42] và sau đó được phát triển trên nền tảng nhạc đại chúng da đen trong những năm của thập niên 1970. Cơ sở khoa họcSửa đổiChưa có sự thống nhất tuyệt đối giữa các nhà khoa học về nguyên nhân tại sao hình thành và phát triển một thiên hướng tình dục đặc biệt ở một người.[1] Nhiều nhà khoa học thống nhất rằng các yếu tố tự nhiên và nuôi dưỡng, một sự kết hợp của di truyền, nội tiết tố giai đoạn thai nhi và ảnh hưởng từ môi trường xã hội là các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành thiên hướng tình dục.[1][6][43][43][44][44] Một nghiên cứu lớn tiến hành trên 3.826 cặp sinh đôi cùng giới (7.652 cá nhân) ở Thụy Điển đã cho thấy: dù có bộ gen giống hệt nhau, tỷ lệ số cặp song sinh cùng là đồng tính khi trưởng thành là rất thấp. Nghiên cứu kết luận: môi trường sống không chia sẻ là yếu tố đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành đồng tính luyến ái, trong khi yếu tố bẩm sinh chỉ có vai trò nhỏ tới trung bình. Cụ thể, ảnh hưởng từ di truyền chiếm 34-39%, ảnh hưởng từ môi trường sống không chia sẻ lên mỗi cá nhân (là môi trường hoocmôn tiếp xúc thai nhi trong suốt quá trình phát triển trong bụng mẹ) chiếm 61-66% trong việc hình thành đồng tính nam, tỷ lệ tương ứng đối với đồng tính nữ là 18% và 80%[45][46] Tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về đồng tính năm 2014, Alan Sanders, tuyên bố rằng "những đặc điểm phức tạp của khuynh hướng tình dục (bao gồm đồng tính) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ cả di truyền lẫn ảnh hưởng từ môi trường sống."[47] Nhà nghiên cứu McConaghy (năm 2006) cho thấy không có mối quan hệ giữa mức độ xúc cảm đồng tính với hành vi đồng tính luyến ái, dẫn ông đến kết luận rằng ảnh hưởng của thứ tự sinh về mức độ xúc cảm đồng tính không phải do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.[48] Tất cả các tổ chức y tế lớn trên thế giới hiện nay đều không phân loại đồng tính luyến ái là một bệnh hay rối loạn tâm thần. Năm 1973, Hội đồng Quản trị của Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) - tổ chức tâm thần học lớn nhất tại Mỹ đã loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm thần. Hành động này được thực hiện sau khi xem xét các tài liệu khoa học và tư vấn của chuyên gia trong lĩnh vực này, các chuyên gia thấy rằng đồng tính luyến ái không đáp ứng các tiêu chuẩn để được coi là một bệnh tâm thần. Có giai đoạn đồng tính luyến ái từng được coi là kết quả của những tác động, biến cố, khó khăn từ môi trường gia đình, xã hội hay gặp lỗi trong phát triển tâm lý[49] Tâm lý học về đồng tính luyến áiSửa đổiĐồng tính luyến ái bắt đầu được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Nhà phân tâm học nổi tiếng Sigmund Freud tin rằng con người khi mới sinh ra đều là song tính, nhưng trong quá trình lớn lên, sự tác động từ văn hóa xã hội và các sự kiện trong cuộc đời khiến đa số con người sẽ chỉ yêu người khác giới.[50] Một trong những nguyên nhân của đồng tính, theo Sigmund Freud, chính là việc phải nếm trải những mối tình khác giới đau buồn khiến ham muốn yêu đương chuyển sang đối tượng cùng giới. Một nguyên nhân khác mà ông chủ trương bao gồm chứng tự yêu bản thân, việc yêu người cùng giới tính chính là biểu hiện mở rộng của tâm lý tự yêu chính mình.[51][52] Tâm lý học là một trong những môn khoa học đầu tiên nghiên cứu một hướng đồng tính luyến ái là một lĩnh vực độc lập. Những nỗ lực đầu tiên để phân loại đồng tính luyến ái là một bệnh đã được thực hiện bởi những nhà tình dục học non trẻ châu Âu trong những năm cuối thế kỷ XIX. Năm 1886, nhà tình dục học Richard von Krafft-Ebing đã xếp chung đồng tính luyến ái cùng với 200 trường hợp nghiên cứu khác của hành vi tình dục lệch lạc. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XIX, một quan điểm khác nhau bắt đầu chiếm ưu thế trong y khoa và tâm thần, đánh giá hành vi như chỉ định của một loại người có khuynh hướng tình dục rõ ràng và tương đối ổn định. Trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các mô hình bệnh lý của đồng tính luyến ái được coi là tiêu chuẩn. Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ và Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội: Năm 1952, khi Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ công bố đầu tiên hệ thống chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DMS), tình dục đồng giới đã được liệt kê như là một rối loạn. Tuy nhiên, ngay lập tức phân loại bắt đầu phải chịu sự giám sát đặc biệt trong các nghiên cứu sau đó, được tài trợ bởi Viện Sức khỏe Tâm thần. Các nghiên cứu thực nghiệm đã không cũng cấp được bằng chứng để khẳng định rằng đồng tính luyến ái là một rối loạn hay bất thường. Từ kết quả tích lũy từ các nghiên cứu, các chuyên gia về y học, sức khỏe tâm thần, khoa học hành vi và xã hội đã đi đến kết luận rằng không chính xác để phân loại đồng tính luyến ái là một rối loạn tâm thần.[53][54] Sau một cuộc bỏ phiếu, với 58% phiếu thuận và 42% phiếu chống, Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ đã loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh mục các chứng bệnh tâm thần kể từ năm năm 1973, và tuyên bố rằng "đồng tính luyến ái không bao hàm sự suy yếu về mặt nhận thức, sự ổn định, độ tin cậy, khả năng trong các mối quan hệ xã hội hoặc ngành nghề nói chung".[53] Sau khi xem xét kỹ các dữ liệu khoa học, các Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ đã thông qua các tuyên bố tương tự vào năm 1975, và kêu gọi tất cả các chuyên gia sức khỏe tâm thần đi đầu trong việc loại bỏ sự kỳ thị của bệnh tâm thần từ lâu đã được mặc định với đồng tính luyến ái.[55] Hệ thống tiêu chuẩn phân loại, thống kê quốc tế về bệnh và vấn đề sức khỏe liên quan năm 1977 của Tổ chức Y tế Thế giới (gọi tắt là ICD-9) thì đồng tính luyến ái được liệt kê như là một bệnh tâm thần, nhưng nó đã được gỡ bỏ từ ICD-10, được thông qua bởi Hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 43 vào ngày 17 tháng 5 năm 1990.[56][57][58] Tuy nhiên, cần lưu ý là cho tới nay vẫn có nhiều nhà tâm lý học không đồng ý với việc loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh sách các bệnh tâm thần[59] Hiệp hội Tâm thần Trung Quốc thì loại bỏ đồng tính luyến ái trong phân loại rối loạn tâm thần vào năm 2001 sau 5 năm nghiên cứu của hiệp hội. Tuy nhiên nó vẫn được các nhà tâm thần học Trung Quốc coi là một trong các tác nhân gây ra các chứng bệnh tâm thần khác, và quy trình điều trị đồng tính được Trung Quốc quy định cụ thể (dù các cơ sở điều trị đồng tính rất hiếm ở Trung Quốc).[60] Tổ chức Y tế thế giới WHO đã loại bỏ đồng tính luyến ái trong danh mục bệnh ICD-10 từ ngày 17 tháng 5 năm 1990. Ngày 17 tháng 5 hàng năm đã được chọn là "Ngày quốc tế chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người đồng tính, song tính và chuyển giới (Tiếng Anh: International Day Against Homophobia and Transphobia, viết tắt: IDAHOT.[61] Tranh luận về phân loại bệnh tâm thầnSửa đổiHiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) đã loại đồng tính luyến ái khỏi danh sách các bệnh sau một cuộc bỏ phiếu năm 1973, với 58% phiếu thuận và 42% phiếu chống (chưa kể phiếu trắng).[59] Ảnh hưởng bởi các quyết định này, năm 1975, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American Psychological Association) cũng đưa ra kết luận tương tự và đến năm 1990 là Tổ chức y khoa thế giới. Tuy nhiên, đến nay vẫn có những tổ chức và nhà tâm lý học phản đối những quyết định này. Họ cho rằng quyết định đó là do áp lực chính trị dữ dội từ các tổ chức ủng hộ đồng tính chứ không phải vì các bằng chứng khoa học vững chắc[62][63] (xem các tranh luận tại Tâm lý học về đồng tính luyến ái). Các nhà tâm lý học phản đối quyết định của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ thì cho rằng: không có bất kỳ bằng chứng khoa học hợp lệ nào để coi đồng tính luyến ái không phải là một vấn đề tâm thần, trong khi quyết định này đã "xóa bỏ không chỉ hàng trăm báo cáo nghiên cứu tâm thần và phân tâm học; mà cả một số nghiên cứu toàn diện bởi nhóm các bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học uy tín trong hơn 70 năm trước đó". Việc các biện pháp trị liệu không có tác dụng, sự không lây lan... không thể lấy làm lý do để loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh (ví dụ: Hội chứng Down cũng là không lây và hiện không thể chữa).[64] Thực tế, tài liệu của APA cũng ghi nhận rằng với nhiều người, thiên hướng tình dục không phải là bẩm sinh, bất biến mà còn có sự ảnh hưởng từ môi trường. Nhiều người đã xuất bản sách nói về sự tự từ bỏ thiên hướng đồng tính sau khi trị liệu tâm lý.[65][66][67][68] Truyền thông đại chúng cũng góp sức lan truyền sự thiếu sót về khoa học đó khi không đăng tải những nghiên cứu dạng như vậy, trong khi lại loan tải những thông tin mà các tổ chức ủng hộ đồng tính đưa ra vì dễ bán chạy hơn.[62] Hiệp hội Tâm thần Trung Quốc thì không xếp đồng tính luyến ái trong phân loại rối loạn tâm thần vào năm 2001 sau 5 năm nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn được các nhà tâm thần học Trung Quốc coi là một trong các tác nhân gây ra các chứng bệnh tâm thần khác, và quy trình điều trị đồng tính được Trung Quốc quy định cụ thể (dù các cơ sở điều trị đồng tính rất hiếm ở Trung Quốc).[60] Tiến sĩ Stanton L. Jones, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wheaton, nói rằng ông có Bảng tổng hợp ý kiến giữa các chuyên gia về điều này: "Tôi sẽ không coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh giống như tâm thần phân liệt hay rối loạn ám ảnh. Nhưng cũng không thể xem nó là một "lối sống bình thường" giống như kiểu sống nội tâm hoặc sống hướng ngoại".[69] Các yếu tố hình thànhSửa đổiCó nhiều giả thuyết về các yếu tố hình thành nên thiên hướng tình dục đồng tính, trong đó bao gồm:
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics) khẳng định rằng "Thiên hướng tình dục được quyết định bởi sự tổng hợp của kiểu gen, hoocmon và ảnh hưởng môi trường".[95] Nhiều tranh cãi tiếp tục dựa trên các yếu tố sinh học và/hoặc tâm lý như kiểu gen và sự hoạt động của một số hoocmon ở bào thai. Sigmund Freud và các nhà tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố, trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến sĩ tâm lý học nổi tiếng người Tây Ban Nha là Enrique Rojas thì cho rằng: 95% nguyên nhân dẫn tới đồng tính là do các yếu tố môi trường như sự thiếu vắng quan tâm của người cha, người mẹ hung dữ hoặc bị lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu. Nhà nghiên cứu Lisa Diamond, khi xem xét các nghiên cứu về xác định tình dục đồng tính và song tính của nữ, nói rằng nghiên cứu tìm thấy "sự thay đổi và tính linh động trong tình dục đồng giới, nó mâu thuẫn với mô hình thông thường cho rằng khuynh hướng tình dục là cố định và bẩm sinh".[96] Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy các hành vi không phù hợp với giới tính ở trẻ em là chỉ báo lớn nhất của tình dục đồng giới ở tuổi trưởng thành.[97][98] Dary Bem cho thấy rằng một số trẻ em khi chứng kiến hành vi tình dục đồng tính có thể gợi lên kích thích sinh lý, mà sau này sẽ được chuyển thành kích thích tình dục. Peter Bearman cho rằng những phát hiện của ông ủng hộ giả thuyết rằng hành vi giới tính trong thời thơ ấu và thiếu niên sẽ góp phần hình thành quan hệ đồng tính ở tuổi trưởng thành. Ngoài những tác động cá nhân, cấu trúc xã hội và những ảnh hưởng từ văn hóa xã hội cũng góp phần tạo ra sự thu hút đồng tính. Tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về đồng tính năm 2014, Alan Sanders, tuyên bố rằng "những đặc điểm phức tạp của khuynh hướng tình dục (bao gồm đồng tính) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ cả di truyền lẫn ảnh hưởng từ môi trường sống".[47] Nhà nghiên cứu McConaghy (năm 2006) cho thấy không có mối quan hệ giữa mức độ xúc cảm đồng tính với hành vi đồng tính luyến ái, dẫn ông đến kết luận rằng ảnh hưởng của thứ tự sinh về mức độ xúc cảm đồng tính không phải do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.[48] Hai nhà nghiên cứu Bearman và Bruckner (năm 2002) đã nghiên cứu 289 cặp song sinh giống hệt nhau (song sinh cùng trứng) và 495 cặp cặp song sinh khác trứng và tìm thấy rằng chỉ có 7,7% cặp song sinh cùng trứng nam và 5,3% cặp song sinh cùng trứng nữ đều là đồng tính, một kết quả giúp họ đưa ra kết luận "không có cơ sở cho thấy ảnh hưởng của di truyền là độc lập với ảnh hưởng từ bối cảnh xã hội (đối với việc hình thành đồng tính luyến ái)".[97] Năm 2010, nghiên cứu của trường Queen Mary và Viện Nghiên cứu Karolinska ở Stockholm đã theo dõi 3.826 cặp song sinh cùng trứng và nhận thấy: dù có bộ gen giống hệt nhau, tỷ lệ số cặp song sinh cùng là đồng tính khi trưởng thành là rất thấp. Nghiên cứu kết luận: môi trường sống không chia sẻ là yếu tố đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành đồng tính luyến ái, trong khi yếu tố bẩm sinh chỉ có vai trò nhỏ tới trung bình. Cụ thể, ảnh hưởng từ di truyền chiếm 34-39%, ảnh hưởng từ môi trường sống không chia sẻ lên mỗi cá nhân (đã loại bỏ các yếu tố môi trường chia sẻ) chiếm 61-66% trong việc hình thành đồng tính nam, tỷ lệ tương ứng đối với đồng tính nữ là 18% và 80%.[46] Tỷ lệ đồng tính trên dân sốSửa đổiĐối với những nhà nghiên cứu, việc xác định tỷ lệ người đồng tính và tỷ lệ người từng trải nghiệm tình dục đồng giới một cách đáng tin cậy là điều khó khăn vì nhiều lý do khác nhau, cũng như không rõ tỷ lệ này có khác nhau ở các nhóm dân tộc riêng biệt hay không.[99] Nếu phân chia theo giới thì tỷ lệ nam đồng tính cao hơn khoảng 2 lần so với nữ đồng tính. Ở các nước phương Tây hiện đại, theo nhiều ước tính, 1% đến 5% dân số phương Tây là đồng tính, và 2% đến 10% đã từng trải nghiệm vài dạng hành vi tình dục đồng giới trong cuộc đời.[100][101][102][103][104][105][106][107] Trong một nghiên cứu 2006 ở Úc, có 20% số người trả lời từng có cảm giác về tình dục đồng giới, nhưng chỉ có 2% tự nhận là đồng tính (tức là có cảm giác yêu đương với người đồng giới).[cần dẫn nguồn] Thống kê quy mô nhất là ở Canada: khảo sát 121.300 người trên 18 tuổi, có 1,43% tự nhận mình là đồng tính hoặc song tính.[cần dẫn nguồn] Còn tại châu Á, có ít khảo sát về vấn đề này hơn. Tại Trung Quốc, một ước tính cho biết có khoảng 2,25 triệu đồng tính nam, chiếm khoảng 0,17% dân số.[108] Tại Việt Nam, nghiên cứu do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện ước tính có khoảng 50-125 ngàn người đồng tính, chiếm khoảng 0,06-0,15% dân số.[109] Tại Indonesia, Bộ sức khỏe ước tính có khoảng 55.000 đồng tính nam trên cả nước (chiếm 0,025% dân số). Có thể thấy số người đồng tính ở châu Á thấp hơn rất nhiều so với châu Âu, điều này có thể giải thích bởi yếu tố bối cảnh gia đình, văn hóa và xã hội ở châu Á ít tạo điều kiện cho việc hình thành thiên hướng đồng tính ở thanh thiếu niên (xem thêm tại Tính linh động của Thiên hướng tình dục). Khả năng thay đổi của thiên hướng tình dụcSửa đổiNhiều người cho rằng thiên hướng tình dục là không thể thay đổi giống như màu tóc, vân tay... Nhưng thực ra, thiên hướng tình dục (bao gồm đồng tính, dị tính hoặc song tính) không phải là cố định, nó có thể thay đổi từ dạng này sang dạng khác. Hiệp hội Tâm thần học Mỹ (APA) tuyên bố rằng "một số người tin rằng thiên hướng tình dục là bẩm sinh và cố định; Tuy nhiên, thực tế khuynh hướng tình dục luôn phát triển trong suốt cả một đời người".[110] Trong một tuyên bố phát hành cùng với Tổ chức y tế Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ cho rằng "những người khác nhau nhận ra tại các điểm khác nhau trong cuộc đời rằng họ là dị tính, đồng tính nam, đồng tính nữ, hay song tính".[49] Một báo cáo từ Trung tâm Y tế và sức khỏe tâm thần cho biết: "Đối với một số người, thiên hướng tình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời họ. Đối với những người khác, thiên hướng tình dục có thể là linh động và thay đổi theo thời gian".[111] Nghiên cứu của Lisa Diamond về "Song tính nữ từ tuổi vị thành niên đến tuổi trưởng thành" cho thấy rằng có "tính lưu động đáng kể trong thiên hướng song tính, hoặc không rõ ràng, và đồng tính nữ tại thời điểm khảo sát, về hành vi và bản sắc".[112][113] Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng: nhiều người đã tự phủ định khuynh hướng đồng tính khi nó manh nha xuất hiện trong tâm trí họ nhằm tránh phải xung đột với các giá trị xã hội và tôn giáo.[114][115][116][117] Sau khi xem xét các nghiên cứu, Judith Glassgold, chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ phụ trách về tâm lý tình dục, cho biết một số người có sự tự phủ định khuynh hướng đồng tính và "không có bằng chứng rõ ràng về tác hại (của sự tự phủ định này)".[118] Nghiên cứu khác[ai?] ở Canada năm 2004 cho biết: với những người thuộc nhóm trên 65 tuổi, tỷ lệ tự nhận mình là đồng tính hoặc song tính là 0,37%, thấp hơn gần 6 lần so với tỷ lệ 1,96% ở nhóm 18-34 tuổi.[cần dẫn nguồn] Nghiên cứu 7.500 người ở Úc năm 2003 cho thấy: ở độ tuổi 20-24, tỷ lệ đồng tính nam là 2,8% và đồng tính nữ là 4,6%, nhưng đến độ tuổi 50-54, tỷ lệ tương ứng đã tụt xuống còn 1,9% và 1%.[119] Nghiên cứu về thanh niên trong độ tuổi 21-26 ở New Zealand cho thấy: 1,9% nam giới từ đồng tính trở thành bình thường, trong khi 1% từ bình thường trở thành đồng tính (con số tương ứng ở nữ là 9,5% và 1,3%); hấp dẫn đồng tính là không ổn định ở tuổi dậy thì, đặc biệt là ở nữ; tỷ lệ đồng tính nữ ở New Zealand cao hơn nhiều so với Anh và Mỹ (2 nước có thái độ xã hội khắt khe với đồng tính hơn so với New Zealand).[cần dẫn nguồn] Những quan sát này, cùng với sự thay đổi về giáo dục, phù hợp với một vai trò tác động to lớn của môi trường xã hội tạo nên người đồng tính.[120] Tác giả của một công trình nghiên cứu lớn về đồng tính năm 2014, Alan Sanders, tuyên bố rằng "những đặc điểm phức tạp của khuynh hướng tình dục (bao gồm đồng tính) phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ cả di truyền lẫn ảnh hưởng từ môi trường sống."[47] Nhà nghiên cứu McConaghy (năm 2006) cho thấy không có mối quan hệ giữa mức độ xúc cảm đồng tính với hành vi đồng tính luyến ái, dẫn ông đến kết luận rằng ảnh hưởng của thứ tự sinh về mức độ xúc cảm đồng tính không phải do yếu tố sinh học, mà đó là một quá trình ảnh hưởng từ xã hội.[48] Nghiên cứu của Dary Bem cho thấy rằng một số trẻ em khi chứng kiến hành vi tình dục đồng tính có thể bị gợi lên kích thích sinh lý, mà sau này sẽ được chuyển thành kích thích tình dục. Peter Bearman cho rằng những phát hiện của ông ủng hộ giả thuyết rằng hành vi giới tính trong thời thơ ấu và thiếu niên sẽ góp phần hình thành quan hệ đồng tính ở tuổi trưởng thành. Ngoài những tác động cá nhân, những ảnh hưởng từ phim ảnh, văn học, văn hóa xã hội cũng góp phần tạo ra sự thu hút đồng tính.[97] Các vấn đề tâm lý và lối sốngSửa đổiTrong khi theo quan điểm của nhiều người, những hành vi đồng tính là 'không tự nhiên' và 'không bình thường',[121] tuy nhiên những nghiên cứu chỉ ra rằng đồng tính luyến ái là một ví dụ cho thấy sự biến thể đa dạng của tình dục loài người.[1][122] Từ cuối những năm 1990, nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên[ai?] đã buộc các nhà tâm lý trị liệu xác nhận rằng đồng tính và song tính luyến ái đi kèm với tỷ lệ gia tăng của bệnh tâm thần, nhưng họ nhanh chóng cho rằng đó là kết quả của sự phân biệt đối xử và thành kiến[122] Tuy nhiên, Luật sư Mathew D. Staver, chủ tịch tổ chức chống đồng tính Liberty Counsel,[123] trong sách "Same Sex Marriage: Putting Every Household At Risk" nói rằng có nhiều nghiên cứu trong những năm gần đây đã lập luận chống lại quan niệm này, và cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy bản chất của người đồng tính và song tính luôn có liên kết với sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh tâm thần, bất kể dù họ không bị kỳ thị. Ông Mathew D. Staver còn dẫn báo cáo trong Tạp chí sức khỏe tâm thần Havard, cho biết tỷ lệ người đồng tính Hà Lan gặp phải vấn đề tâm lý vẫn cao hơn rất nhiều mức trung bình, dù Hà Lan là nước đặc biệt cởi mở với đồng tính và hôn nhân đồng tính ở đây là hợp pháp.[124] Theo nghiên cứu công bố năm 1997 của Paul Van de Ven và cộng sự trên 256 người đồng tính cao tuổi (trên 49 tuổi), phần lớn ở Úc và New Zealand, về số lượng đối tác tình dục cho thấy: 21,6% có từ 100 đến 500 bạn tình, chỉ 2,7% có duy nhất 1 bạn tình, các nhóm khác (gồm 2-10, 11-20, 21-50, 51-100, 501-1.000 và trên 1.000 bạn tình) chiếm tỉ lệ dao động từ 10,2-15,7%. Khoảng 45% đã có quan hệ tình dục với từ 2 tới 10 bạn tình trong vòng 6 tháng gần nhất.[125] Khảo sát năm 1991 ở New York của Meyer-Balburg H. Exner và cộng sự trên 121 nam đồng tính có HIV và 81 nam đồng tính không có HIV cho kết quả: mỗi đồng tính nam có HIV, là nhóm có nhiều hành vi nguy cơ nhất, có trung bình 308 đối tác tình dục trong suốt cuộc đời, trong khi con số này của đồng tính nam không có HIV, nhóm có hành vi nguy cơ ít hơn, là 143.[126] Đối với đồng tính nữ cũng tương tự, nhiều người có quan hệ tình dục với cả nam lẫn nữ. Tỷ lệ đồng tính nữ đã có hơn 50 bạn tình nam giới cao hơn gấp 4 lần so với phụ nữ bình thường.[127] Khảo sát tại Mỹ cho thấy: 32% người đồng tính nghiện rượu,[128] tỷ lệ lạm dụng thuốc của người đồng tính là khoảng 28-35%, so với tỷ lệ 10-12% trong dân số nói chung.[129] Một nghiên cứu năm 2012 của Trung tâm tiến bộ Hoa Kỳ (tổ chức chuyên nghiên cứu chính sách công cộng) cho biết: 25% người đồng tính và chuyển giới nghiện rượu so với mức 5-10% của toàn nước Mỹ, đồng tính nam có tỷ lệ nghiện thuốc lá cao hơn 2 lần, tỷ lệ dùng chất kích thích gấp 12 lần, dùng cần sa gấp 3,5 lần và heroin gấp 9,5 lần so với nhóm nam giới còn lại.[cần dẫn nguồn] Các nghiên cứu phát hiện ra rằng người đồng tính ở Đan Mạch - nơi rất khoan dung với đồng tính - có tuổi thọ trung bình chỉ là 51 đối với nam và 56 với nữ, trong khi tuổi trung bình của người Đan Mạch là 74 với nam và 78 với nữ. Ở Na Uy, đồng tính có tuổi thọ trung bình thấp hơn 25 tuổi so với trung bình cả nước.[cần dẫn nguồn] Quan hệ tình cảmSửa đổiMỗi người đồng tính có thể thể hiện tình dục của họ bằng cách này hay cách khác, và cũng có thể không có hành vi nào thể hiện ra.[130] Một số chủ yếu quan hệ tình dục với người cùng giới, một số chủ yếu với người khác giới, cả hai giới hoặc kiêng tình dục. Nghiên cứu cho thấy nhiều người đồng tính mong muốn có mối quan hệ bền vững và một phần trong số họ cũng đã thực hiện được. Một kết quả thống kê cho thấy 40% đến 60% đồng tính nam và 45% đến 80% đồng tính nữ hiện đang có một quan hệ tình cảm.[131] Có những nghiên cứu cho thấy các cặp đồng tính và các cặp dị tính là tương đương nhau về mặt toại nguyện và sự gắn kết nhiều hay ít trong quan hệ tình cảm.[132][133] Nghiên cứu cho thấy đặc điểm tuổi tác và giới tính có liên quan nhiều đến sự toại nguyện và sự gắn kết hơn là thiên hướng tình dục; người đồng tính và người dị tính có chung những mong muốn và lý tưởng trong tình cảm.[134] Tuy nhiên thống kê cũng cho thấy chỉ có 18-28% cặp đồng tính nam và 8-21% cặp đồng tính nữ ở Hoa Kỳ đã sống với nhau được 10 năm trở lên.[135] Khảo sát ở Na Uy và Thụy Điển cho thấy: các cặp đồng tính nam có tỷ lệ ly hôn cao hơn 50%, với đồng tính nữ cao hơn 167% so với các cặp vợ chồng nam-nữ thông thường.[136] Đại học Chicago và nhà xã hội học Edward Laumann lập luận rằng "cư dân đồng tính điển hình trong thành phố dành hầu hết cuộc sống trong các mối quan hệ tình cảm mang tính "giao dịch", hoặc chỉ duy trì được quan hệ ngắn hơn sáu tháng".[137] Một nghiên cứu về đồng tính nam ở Hà Lan được công bố trong tạp chí AIDS phát hiện ra rằng "thời gian có quan hệ ổn định" với mỗi bạn tình chỉ là 1 năm rưỡi, và mỗi đồng tính nam có trung bình 8 đối tác tình dục mỗi năm.[138] Đối với đồng tính nữ, nhiều người có quan hệ tình dục với cả nam giới. Tỷ lệ đồng tính nữ đã có hơn 50 bạn tình nam giới cao hơn gấp 4 lần so với phụ nữ bình thường.[127] Như vậy quan hệ giữa các cặp đồng tính kém bền vững hơn nhiều các cặp dị tính, trong khi số bạn tình lại nhiều hơn hẳn. Lý do được đưa ra là họ ít có ràng buộc, chẳng hạn như không có hôn thú và con cái, bên cạnh đó là do lối sống thích tìm kiếm nhiều bạn tình mới của họ. Trong nghiên cứu của Michael Pollack, ông thấy rằng "ít khi mối quan hệ đồng tính kéo dài hơn hai năm, nhiều đàn ông đồng tính cho biết họ đã có hàng trăm bạn tình".[139] Các tổ chức ủng hộ đồng tính vẫn tuyên truyền rằng tình yêu đồng tính không có gì khác biệt so với tình yêu nam-nữ, tuy nhiên thực tế lại rất khác. Chính bản thân "văn hóa đồng tính" luôn thôi thúc người đồng tính liên tục tìm kiếm các bạn tình mới, thay vì tôn trọng chế độ một vợ một chồng như các cặp dị tính.[140] Andrew Sullivan, một tác giả nổi tiếng về đồng tính, cho biết các cặp đồng tính có các tiêu chuẩn đạo đức rất khác biệt so với thông thường. Một trong số đó là "sự tồn tại các bạn tình ngoài hôn nhân", họ luôn muốn tìm nhiều bạn tình riêng dù vẫn đang chung sống với nhau. Các cặp đồng tính không xem đó là hành vi ngoại tình mà lại coi đó là điều cần thiết trong lối sống của họ. Một khảo sát của Tạp chí Nghiên cứu Giới tính cho thấy: chỉ có 2,7% số người đồng tính lớn tuổi là chung thủy với duy nhất 1 bạn tình trong suốt cuộc đời của họ, so với tỷ lệ trên 80% ở những người bình thường.[141] Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Nghiên cứu Giới tính, Paul Van de Ven khảo sát 2.583 nam đồng tính lớn tuổi và thấy rằng "số lượng bạn tình phổ biến (của nam đồng tính) là 101-500. Ngoài ra, 10,2% đến 15,7% đã có từ 501 đến 1.000 bạn tình. 10,2% đến 15,7% cho biết đã có hơn 1.000 bạn tình.[142] Nghiên cứu của Sondra E. Solomon và Esther D. Rothblum cho biết: khi được hỏi về thái độ đối với việc quan hệ tình dục với người khác ngoài bạn tình, 40,3% nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) đã từng thảo luận và chấp nhận điều đó trong vài hoàn cảnh, so với chỉ 3,5% ở nam giới đã kết hôn với nữ; số nam đồng tính phản đối là 50,4% so với 78,6% ở nam giới kết hôn với nữ. Có 58,3% nam đồng tính (đã đăng ký kết hợp dân sự) có quan hệ tình dục ngoài bạn tình, so với 15,2% ở nam kết hôn với nữ.[143] Nhà nghiên cứu Brad Hayton cung cấp cái nhìn sâu sắc thái độ của nhiều người đồng tính đối với cam kết hôn nhân: Người đồng tính có niềm tin rằng mối quan hệ hôn nhân chỉ là tạm thời và chủ yếu là vì bản năng tình dục. Quan hệ tình dục giữa họ chủ yếu vì niềm vui chứ không phải vì sự sinh sản. Và họ tin rằng nguyên tắc một vợ một chồng trong hôn nhân không phải là tiêu chuẩn và cũng không cần được khuyến khích.[144]Khả năng thay đổiSửa đổiVài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện quy tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Các tổ chức này thường có quan hệ mật thiết với các nhóm tôn giáo.[145] Năm 2009, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, sau khi xem xét 83 cuộc nghiên cứu về các liệu pháp chuyển đổi được thực hiện từ năm 1960, đã tuyên bố không có bằng chứng cho thấy nỗ lực thay đổi thiên hướng tình dục sẽ đưa lại kết quả, và cho biết một số nghiên cứu cho thấy các nỗ lực này có thể sẽ gây hại, dẫn đến sầu muộn và các ý tưởng tự tử.[146] Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời[110] và họ tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người.[147] Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì lo ngại có tác hại nào đó.[148] Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học tại Hoa Kỳ bị tranh cãi nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép.[149] Năm 2012, tiểu bang California ở Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cấm áp dụng liệu pháp chuyển đổi đối với vị thành niên.[150] Tuy nhiên, các nhà ủng hộ liệu pháp trị liệu thì cho rằng họ đã đạt thành công trong nhiều trường hợp. Theo báo cáo của Jeffrey Satinover, ông đạt được tỉ lệ 50-70% thành công trong việc thay đổi khuynh hướng tình dục từ đồng tính trở thành bình thường.[151] Các nghiên cứu tương tự đã khiến một số chuyên gia thừa nhận rằng khuynh hướng tình dục không phải là bất biến và việc thay đổi nó là có thể. Nhiều người đồng tính (dù không phải là tất cả) có thể thay đổi khuynh hướng tình dục của mình thông qua một loạt các nỗ lực tâm lý và tư vấn.[152] Báo cáo năm 2009 của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ cũng có đánh giá đột phá về trị liệu đối với khách hàng đồng tính muốn đấu tranh để vẫn trung thành với đức tin tôn giáo và không chấp nhận mình là đồng tính. Chủ tịch của Liên minh Công giáo quốc tế, Alan Chambers, mô tả bản thân mình là một người "đã vượt qua thu hút đồng tính không mong muốn", và ông bày tỏ sự hài lòng với phần này của báo cáo. Bà Judith Glassgold hi vọng rằng báo cáo 2009 sẽ làm dịu tranh cãi giữa 2 bên ủng hộ và phản đối: "Các nhà tâm lý tôn giáo nên nhìn nhận khía cạnh tích cực của người đồng tính. Các nhà trị liệu thế tục thì phải nhận ra rằng một số người sẽ chọn đức tin của họ thay vì ham muốn tình dục". Đồng tính luyến ái và rối loạn định dạng giớiSửa đổiCần phân biệt người có xu hướng tình dục đồng giới khác với ba dạng khác:[153]
Những trường hợp này còn gọi là Rối loạn định dạng giới (gender identity disorder). Rối loạn định dạng giới được phân loại như là một chứng rối loạn tâm thần bởi Trung tâm quốc tế về Phân loại bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan, biểu hiện của nó là những hành vi, thái độ chối bỏ giới tính của bản thân mình, gồm 3 tiêu chuẩn chẩn đoán:[154]
Như vậy, Đồng tính luyến ái không phải là rối loạn định dạng giới. Nhưng ngược lại, Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì bệnh nhân sẽ chuyển biến thành Đồng tính luyến ái hoặc sẽ đi tiến hành chuyển đổi giới tính. Một nghiên cứu của Hiệp hội Tâm thần học Mỹ cũng khẳng định: 75% thiếu niên bị rối loạn định dạng giới sẽ có xu hướng đồng tính khi bước vào tuổi vị thành niên.[155] Nhân khẩu học và tự nhiên họcSửa đổiNhân khẩu họcSửa đổiThống kê tỉ lệ người đồng tính gặp phải một số khó khăn:
Số liệu về tỉ lệ người đồng tính có ý nghĩa trong việc hoạch định các chính sách chẳng hạn như xác định chi phí và phúc lợi của từng gia đình, tác động của việc hợp pháp hóa đồng tính.[156] Tỉ lệ người hoàn toàn đồng tính trong dân chúng (ở các nước phương Tây) là từ 1% đến 10% tùy theo các nghiên cứu khác nhau, đồng tính nam nhiều hơn đồng tính nữ.[157][158][159] Ở các nước phương Đông chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng các ước tính tỷ lệ này có phần thấp hơn phương Tây (thường dưới 1% dân số) Các số liệu thay đổi tùy quốc gia. Một nghiên cứu 1992 cho thấy 6,1% nam giới ở Vương quốc Anh từng có hành vi tình dục đồng tính, trong khi ở Pháp là 4,1%.[160] Theo một thống kê 2003, 12% người Na Uy từng có hành vi quan hệ tình dục đồng giới.[161] Trong một cuộc thăm dò 2008, trong khi chỉ có 6% người Anh tự nhận là đồng tính hoặc song tính, 13% người Anh đã từng có hành vi tình dục nào đó với người cùng giới.[162] Tự nhiên họcSửa đổiRoy và Silo, hai con chim cánh cụt đực ở vườn thú Trung tâm, New York, tương tự như trong hình, đã nổi tiếng trên thế giới khi chúng cặp đôi và được cho một trứng để ấp và nuôi con. Chúng đã thành công.[163] Hành vi đồng tính cũng có ở nhiều loài động vật.[164] Các biểu hiện về hành vi đồng tính thật sự có ở một số loài trong thế giới động vật, đặc biệt trong các loài chim biển, động vật có vú, khỉ và các loài linh trưởng lớn. Đã có 1500 trường hợp được quan sát, trong đó có khoảng 500 trường hợp được miêu tả khá cụ thể.[165][166] Có những đôi chim cánh cụt đực coi nhau như những người bạn đời. Chúng xây tổ cùng nhau, lấy một hòn đá thay trứng để ấp. Năm 2004, ở Central Park Zoo, Mỹ, người ta đã thay một hòn đá của đôi chim cánh cụt đực bằng một quả trứng thật, kết quả là đôi chim đó đã chăm sóc quả trứng này cũng như con non nở ra như chính con của chúng. Hiện tượng này cũng được báo cáo bởi một số vườn thú khác.[167][168] Jannet Mann, giáo sư của Đại học Georgetown cho rằng, các biểu hiện đồng tính ở động vật, ít nhất là ở cá heo, là một giải pháp về tiến hóa để giảm thiểu sự xâm chiếm lãnh thổ, đặc biệt là giữa những con đực.[cần dẫn nguồn] Tuy vậy, theo nhà di truyền học Simon Levay vào năm 1996 thì: "Mặc dù hành vi tình dục đồng giới là khá phổ biến trong thế giới động vật, nhưng có vẻ là rất hiếm khi các loài vật có khuynh hướng lâu dài để tham gia vào các hành vi như vậy trong khi lại từ chối các hoạt động tình dục khác giới tính. Thiên hướng tình dục đồng tính (thuật ngữ được dùng với loài người), nếu chúng ta có thể nói về điều đó ở động vật, có vẻ là rất hiếm". Chỉ có một loài động vật (trừ loài người) được ghi nhận là có những cá thể đực chỉ giao phối đồng tính trong khi từ chối giao phối với những con cái, đó là cừu Ovis.[17][169] Đồng tính luyến ái và luật phápSửa đổiLuật pháp trên thế giới về đồng tính luyến ái Mặc dù đồng tính luyến ái đã không còn bị coi là phạm pháp tại nhiều nơi ở phương Tây, chẳng hạn như[170][171] Ba Lan 1932, Đan Mạch 1933, Thụy Điển 1944 và Anh 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70. Một bước ngoặt quan trọng là vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đưa đồng tính luyến ái ra khỏi Danh sách các rối loạn tâm thần.[172][173] Năm 1977, Québec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục. Những năm 80 và 90, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Tính tới cuối năm 2013, trong tổng số 207 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có 16 quốc gia đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, 17 nước chấp nhận hình thức đăng ký sống chung. Ngược lại, có khoảng 80 nước coi hành vi đồng tính là tội phạm với các mức án phạt khác nhau (có 8 nước có mức án tử hình). Tới năm 2013, không có quốc gia châu Á nào công nhận hôn nhân đồng tính hoặc đăng ký sống chung. Tại Thái Lan có cộng đồng LGBT sôi nổi, nhưng điều này chỉ có ở ngành kinh doanh giải trí thu lợi nhuận vốn tách biệt với nền chính trị và xã hội Thái bảo thủ.[174] Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Ở Singapore, quan hệ tình dục đồng tính nam là bất hợp pháp tuy nhiên luật này thường không được thực thi. Năm 2003 ở Đài Loan, một dự luật được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã không đạt đủ số phiếu để thông qua.[174] Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân đồng tính thì không được công nhận.[175] Ở khu vực Trung Đông vốn tập trung nhiều nước đạo Hồi, đồng tính luyến ái bị pháp luật cấm nghiêm khắc. Duy nhất ở Israel, quyền của người đồng tính được pháp luật hỗ trợ.[176] Israel là nước có tỉ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao nhất thế giới với 61% người dân ủng hộ.[177] Israel là nước châu Á đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận sự chung sống không đăng ký của cặp đôi đồng giới. Mặc dù chưa công nhận hôn nhân đồng giới, Israel là quốc gia Trung Đông đầu tiên và duy nhất cho đến nay công nhận hôn nhân đồng giới ở nước khác. Kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục bị cấm vào năm 1992. Theo một quyết định năm 2008, các cặp đồng giới cũng được quyền nhận con nuôi. Ở đây, người đồng tính được quyền công khai tham gia quân ngũ.[178][179][180][181][182][183][184][185] Hôn nhân đồng giớiSửa đổiViệc công nhận hôn nhân đồng tính hay không là chủ đề tranh cãi tại nhiều nơi trên thế giới. Những người ủng hộ cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng tính là thể hiện sự bình đẳng giữa con người, rằng pháp luật không nên ngăn cản việc kết hôn của con người nếu họ thực sự muốn vậy. Ngược lại, nhiều người phản đối hôn nhân đồng tính bởi lo ngại những hệ lụy mà nó gây ra cho xã hội, đặc biệt là với trẻ em. Từ đầu thế kỷ XXI, một số nước Tây phương bắt đầu công nhận hôn nhân đồng tính. Tính đến cuối năm 2013 đã có 16 quốc gia trên thế giới công nhận, bao gồm: Anh, Argentina, Bỉ, Bồ Đào Nha, Brasil, Canada, Đan Mạch, Iceland, Hà Lan, Na Uy, Nam Phi, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, và Uruguay; thêm vào đó nhiều địa phương cấp thấp hơn (bang, thành phố) ở México và Hoa Kỳ cũng công nhận. Tại nhiều nước phương Tây, các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ngày càng có nhiều người ủng hộ hôn nhân đồng tính.[186] Mặt khác, tại các nước Hồi giáo và các nước đang phát triển ở châu Á và châu Phi, các cuộc thăm dò ý kiến vẫn cho thấy người dân kịch liệt phản đối người đồng tính cũng như hôn nhân đồng tính.[187] Các tổ chức khoa học ủng hộ hôn nhân đồng tính gồm có: Hội Tâm lý học Hoa Kỳ,[188] Hội Tâm lý học Canada,[189] Đoàn Bác sĩ Tâm lý Hoàng gia,[190] Hội Xã hội học Hoa Kỳ,[191] Hội Y khoa Hoa Kỳ,[192] Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ,[193] Hội Nhân loại học Hoa Kỳ.[194] Các tổ chức này cho rằng các nghiên cứu chuyên ngành của họ cho thấy hôn nhân đồng tính không tác hại đến xã hội mà còn đem lại nhiều cái lợi về mặt tinh thần và sức khỏe cho những người đồng tính cũng như con cái họ. Các tổ chức phản đối hôn nhân đồng tính bao gồm chủ yếu là các tổ chức tôn giáo (ví dụ như Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ, Tổ chức Tầm nhìn nước Mỹ, Hội đồng Nghiên cứu gia đình, Viện Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ, Tổ chức Quốc gia về hôn nhân...).[195] Các tổ chức này tuyên bố: việc họ phản đối hôn nhân đồng tính là nhằm bảo vệ các giá trị gia đình truyền thống, bảo vệ trẻ em trước các tác động tiêu cực của hôn nhân đồng tính.[196][197] Các tổ chức này cho rằng hôn nhân đồng giới sẽ làm xói mòn định nghĩa, giá trị truyền thống về hôn nhân giữa nam và nữ từ lâu nay, khiến việc sinh con ngoài giá thú phổ biến hơn, mục đích cơ bản nhất của hôn nhân (sinh sản và chăm sóc trẻ em) sẽ bị coi thường, tước đi quyền có được cả cha lẫn mẹ của trẻ em và điều này sẽ khiến trẻ em chịu nhiều ảnh hưởng về tâm lý và lối sống, các vấn đề này sẽ dẫn đến nhiều tác động tiêu cực cho tương lai của xã hội.[198][199][200][201][202][203][204] (xem chi tiết tại Phản đối hôn nhân đồng tính). Người đồng tính nuôi dạy trẻ emSửa đổiMột cặp đồng tính nam và con nuôi Giáo sư Judith Stacey thuộc Đại học New York cho biết: "Hiếm khi nào có nhiều sự đồng thuận trong bất kỳ lĩnh vực khoa học xã hội như vấn đề nuội dạy con cái của cha mẹ đồng tính, đó là lý do Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và tất cả các tổ chức nghề nghiệp lớn có chuyên môn liên quan tới phúc lợi xã hội về trẻ em đã ban hành báo cáo và nghị quyết ủng hộ quyền làm cha mẹ của người đồng tính nam và đồng tính nữ".[205] Tất cả các hội ngành nghề nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp lớn và uy tín nhất thế giới về tâm thần học, tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, trẻ em học, lao động học... của Hoa Kỳ, Canada và Australia như: Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ, Hiệp hội nhân chủng học Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội phân tâm học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý học Canada, Hiệp hội tâm lý - xã hội học Úc, Đại học tâm lý học hoàng gia Anh... đều đồng thuận rằng:[4][189][193][206][206][207][208][208][209][210][211][212][213][214][215][216]
Nhiều người đồng tính, song tính có thể trở thành cha hoặc mẹ bằng nhiều cách như xin con nuôi, thụ tinh nhân tạo hoặc nhận đỡ đầu hoặc có khi có con riêng của một người với vợ hoặc chồng cũ là dị tính luyến ái, hoặc nhờ sinh con hộ.[217][218][219][220] Theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, 33% cặp đồng giới nữ và 22% cặp đồng giới nam đang sống với ít nhất một người con dưới 18 tuổi.[49] Vài trẻ không biết rằng cha/mẹ của chúng là người đồng tính/song tính. Tình trạng công khai thiên hướng tình dục cũng khác nhau và vài người không bao giờ công khai với con mình.[221][222] Người LGBT làm cha mẹ nói chung và nhận con nuôi nói riêng là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều nước phương Tây và thường được xem là cuộc chiến văn hóa giữa quan niệm bảo thủ và tự do. Tháng 1 năm 2008, Tòa án châu Âu về quyền con người tuyên bố các cặp cùng giới có quyền nhận con nuôi.[223][224] Ở Hoa Kỳ, người đồng tính/song tính có thể nhận con nuôi một cách hợp pháp ở tất cả các tiểu bang trừ Florida.[225] Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy kết quả rằng người đồng tính cũng thích hợp và có khả năng làm cha/mẹ như người dị tính.[215][226] Các nghiên cứu này ghi nhận rằng không có sự liên quan giữa thiên hướng tình dục của cha/mẹ với sự điều chỉnh tình cảm, tâm lý và hành vi của đứa trẻ,[207][215] và hôn nhân sẽ nâng cao tình trạng tài chính, tâm lý, thể chất và rằng việc được nuôi dưỡng bởi một cặp được pháp luật công nhận sẽ tốt cho đứa trẻ.[207] Giáo sư Judith Stacey, Đại học New York cho rằng khoa học xã hội có sự đồng thuận cao về vấn đề con nuôi của người đồng tính, do đó Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và các tổ chức chuyên ngành về bảo vệ trẻ em đã có những báo cáo hỗ trợ quyền nuôi con của người đồng tính.[205] Một vấn đề quan tâm là khi con cái được nuôi bởi những người đồng tính có khả năng trở thành đồng tính khi lớn lên hay bị rối loạn về giới tính hay không. Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học như Kirk Patrick, Susan Golombok, Ann Spencer, Michael Rutter, Richard Green... cho biết: Khi nghiên cứu các cặp sinh đôi và con nuôi của các cặp đồng tính nữ, bằng chứng cho thấy thiên hướng tình dục là kết quả tác động phức tạp từ cả yếu tố sinh học và yếu tố môi trường và sự nuôi dạy. Các nghiên cứu này đã tìm thấy sự liên hệ về việc phát triển thiên hướng tình dục của trẻ em theo chiều hướng tương tự như cha mẹ nuôi của chúng, có nghĩa là nếu cha mẹ nuôi là người đồng tính thì khả năng đứa trẻ có hành vi đồng tính sẽ tăng lên (để biết thêm chi tiết, xin mời đọc Yếu tố môi trường trong thiên hướng tình dục).[227][228][229] Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ gặp phải nhiều vấn đề hơn hẳn so với con cái của những gia đình thông thường, cụ thể:[230] Áp phích của Phong trào Bảo vệ trẻ em của chúng ta tại Mỹ
Mark Regnerus tin rằng còn quá sớm đưa ra các kết luận sâu rộng về ảnh hưởng đối với con cái của các cặp đồng tính, và hiện không có bằng chứng thuyết phục rằng con cái của cặp đồng tính khác biệt so với những đứa trẻ có đủ cha mẹ. Trước khi có nhiều bằng chứng hơn, Nhà nước nên thận trọng và nên quy định hôn nhân trong phạm vi truyền thống (1 nam và 1 nữ), Regnerus tin rằng đó là điều tốt nhất dành cho trẻ em.[231] Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài hạn, cũng như bản chất "bất ổn định" của cặp đồng tính. Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc "cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường". Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt bởi các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính.[232] Sau khi Mark Regnerus công bố nghiên cứu của mình trên một tạp chí, hơn 200 nhà khoa học đã cùng ký tên và gửi một bức thư cho tạp chí này bày tỏ "những mối lo ngại đáng kể về giá trị của bài báo này". Các nhà nghiên cứu đã cùng chỉ ra nhiều bất ổn, không phù hợp thực tế, không chính xác trong phương pháp luận của Regnerus, cũng như đặt nghi vấn về quá trình mà tạp chí này đã tiếp nhận, xem xét, chấp nhận nghiên cứu của Regnerus và cho phép xuất bản không đảm bảo thời gian yêu cầu.[233] Đại học Texas (nơi Mark Regnerus làm việc) đã đưa ra tuyên bố: "Nghiên cứu này của Mark Regnerus là của riêng ông, không phản ánh quan điểm của Đại học Texas hay Hiệp hội Xã hội học Mỹ", "những kết luận rút ra từ nghiên cứu của ông về người đồng tính làm cha mẹ là cơ bản không hoàn thiện trên cơ sở khái niệm và phương pháp luận", đồng thời các kết quả nghiên cứu của Regnerus "đã được trích dẫn trong các nỗ lực không phù hợp nhằm hạn chế các quyền dân sự và chính đáng của các đối tác LBGTQ và gia đình của họ".[234] Đồng thời, Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ (ASA) đã nêu ra 5 sai sót cơ bản không trong phương pháp luận nghiên cứu của Mark Regnerus và kết luận: "Tóm lại, do sự đánh đồng con cái của cha mẹ đồng tính với các cá nhân tự nhận rằng họ có cha hoặc mẹ tham gia vào mối quan hệ yêu đương đồng tính, đánh đồng các cá nhân đó như con cái của người mẹ hay người cha đồng tính, nghiên cứu của Regnerus đã che lấp thực tế là nó đã không kiểm tra và xác thực con cái của hai bố mẹ đồng tính. Theo đó, nó không thể bàn luận về các tác động của kết quả việc nuôi dạy của cha mẹ đồng tính lên con cái".[235][236] Tiến sĩ Stanton L. Jones, giáo sư tâm lý học tại Đại học Wheaton, nói rằng ông có Bảng tổng hợp ý kiến giữa các chuyên gia về điều này: "Tôi sẽ không coi đồng tính luyến ái là một dạng bệnh giống như tâm thần phân liệt hay rối loạn ám ảnh. Nhưng cũng không thể xem nó là một "lối sống bình thường" giống như kiểu sống nội tâm hoặc sống hướng ngoại".[69] Mặt khác, trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em", 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường.[237] Tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: "Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác." Phân tích tổng hợp của Stacy và Biblarz (năm 2001) cho thấy rằng: các bà mẹ nuôi là đồng tính nữ có ảnh hưởng lớn, khiến con trai nuôi của họ trở nên nữ tính trong khi con gái nuôi thì lại trở nên nam tính. Họ báo cáo: "...các cô gái vị thành niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính sẽ có tỷ lệ cao hơn về tình dục bừa bãi... nói cách khác, trẻ em (đặc biệt là trẻ em gái) được nuôi bởi nữ đồng tính có xu hướng đả phá các quan niệm giới tính truyền thống, trong khi trẻ em được nuôi bởi các bà mẹ thông thường sẽ có biểu hiện phù hợp với giới tính của mình". Một nghiên cứu năm 1996 bởi một nhà xã hội học Úc cho thấy: những đứa trẻ của các cặp vợ chồng bình thường là giỏi nhất, trong khi con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính lại học hành kém nhất, điều này đúng tại 9 trên 13 trường học được khảo sát.[238] Đồng tính luyến ái và xã hộiSửa đổiThái độ của xã hội về đồng tính phản ánh thái độ của chính quyền và tôn giáo, đã thay đổi rất nhiều trong suốt chiều dài lịch sử cũng như bề rộng của Trái Đất, từ việc bắt mọi người đàn ông có quan hệ, đến việc chấp nhận, đến việc xem nó như một tội nhỏ bị cấm đoán qua luật pháp và tòa án, cho đến việc xem nó như là một trọng tội đáng bị xử tử. Chống kết hôn đồng giới ở Tây Ban Nha. Trong nhiều nền văn hóa, người ta thường có thành kiến và kỳ thị người đồng tính. Người đồng tính nam được xem là ẻo lả và chạy theo mốt.[239][240][241] Tuy vậy, nghiên cứu cho thấy họ có những quan hệ tình cảm lâu dài.[242] Nhiều người cho rằng người đồng tính nam thích ấu dâm và lạm dụng tình dục trẻ em hơn là người dị tính nam, các nghiên cứu cho thấy điều này không đúng.[243][244][245] Nhiều người nghĩ người đồng tính nữ là những người sắt đá như đàn ông và đôi khi căm ghét đàn ông[246] hoặc người bị ám ảnh bởi việc đấu tranh cho quyền phụ nữ.[247] Nhiều người khác thì nói rằng họ cởi mở với đồng tính, nhưng khi xem ảnh thân mật của các cặp đồng tính thì họ lại đều cảm thấy ghê sợ, cho thấy tâm lý ghê sợ đồng tính thực ra vẫn tồn tại trong những người này, trái với lời nói bên ngoài của họ.[248] Trong nhiều trường hợp người đồng tính bị kết tội là nguyên nhân của tệ nạn xã hội. Trong thế kỷ XX, Đức quốc xã hành quyết những người đồng tính vì cho rằng họ đe dọa cho sự nam tính và làm dơ bẩn "giống nòi Aryan". Những năm 1950, hàng trăm người bị sa thải vì là đồng tính trong một chiến dịch có tên là "Nỗi sợ hoa oải hương" của McCarthyism. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị đã chỉ trích một cách mỉa mai ông vì có phụ tá là người đồng tính, Roy Cohm. Vào tháng 1 năm 2001, Bộ văn hóa Ai Cập cho đốt 6.000 quyển sách thơ đồng tính thế kỷ thứ VIII của nhà thơ Ba Tư-Ả Rập Abu Nuwas để xoa dịu người Hồi giáo.[249][250] Ở Mỹ, theo FBI, 15,6% vụ tấn công do thù ghét được trình báo với cảnh sát là do kỳ thị đồng tính. Trong đó, 61% vụ tấn công là nhằm vào người đồng tính nam.[251] Năm 1998, một sinh viên đồng tính là Mathew Shepard đã bị giết, đây là một trong những vụ tai tiếng nhất ở Mỹ. Ở thời điểm năm 2006, hành vi đồng tính luyến ái có thể bị xử tội tử hình ở 8 nước là Iran, Mauritanie, Nigeria, Pakistan, Ả Rập Xê Út, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Yemen.[252] Đồng tính luyến ái và tôn giáoSửa đổiMột số giáo hội nhận tổ chức hôn lễ cho các cặp đồng giới và vận động pháp lý cho hôn nhân đồng giới. Trong ảnh là dòng chữ tiếng Anh, dịch nghĩa: "Kết hôn dân sự là một quyền công dân". Giữa các tôn giáo và hệ phái tôn giáo, tại các khu vực và thời điểm khác nhau, có nhiều thái độ và quan niệm khác nhau về thiên hướng, tình yêu và tình dục đồng giới. Chống đối đồng tính luyến ái thay đổi từ ngấm ngầm can ngăn cho đến chính thức cấm đoán đồng tính luyến ái và tích cực chống lại sự chấp thuận của xã hội đối với đồng tính. Vài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện quy tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời[110] và họ cũng tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người.[147] Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh sự hiệu quả hoặc tác hại của những phương pháp trị liệu. Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì họ lo ngại có thể có tác hại nào đó.[148] Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học gây ra chống đối từ các nhóm ủng hộ đồng tính, nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép.[149] Nhiều giáo hội dạy rằng cần yêu thương người đồng tính dù cho khuynh hướng tình dục của họ như thế nào, nhưng họ chống lại việc thực hành các mối quan hệ đồng tính.[253] Giáo hội Công giáo hiện nay chủ trương rằng trạng thái đồng tính nằm ngoài lựa chọn của cá nhân và bản thân khuynh hướng đồng tính không phải là tội lỗi.[254] Tuy nhiên, Giáo hội coi hành vi tình dục đồng tính là vô trật tự về mặt luân lý và trái với luật tự nhiên,[255] trong khi đó Giáo hội dạy rằng những người đồng tính phải được đón nhận với "sự tôn trọng, thông cảm và tế nhị. Người ta phải tránh tất cả những dấu hiệu của sự kỳ thị bất công đối với họ".[256] Giáo hội Mặc Môn cũng lên án bạo hành với người đồng tính[257] và chính thức tuyên bố "giang tay đón nhận bằng sự thấu hiểu và tôn trọng" vì Thiên Chúa đã dạy phải khoan dung với mọi người.[258] Tuy vậy, Giáo hội Công giáo cũng nói thêm là họ sẽ kiên quyết phản đối hôn nhân đồng tính vì nó sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng cho mỗi gia đình và trẻ em, rằng "hôn nhân đồng tính sẽ dẫn đến sự kết thúc của tự do tôn giáo và các tiêu chuẩn đạo đức xã hội".[259] Đàn ông người Do Thái hôn nhau để ủng hộ đồng tính luyến ái trong lễ hội đồng tính 2010 ở Chicago Các giáo hội khác đã thay đổi học thuyết để thích nghi với mối quan hệ đồng giới. Khác với Do Thái giáo Chính thống, các nhánh Do Thái giáo Cải cách và Tái xây dựng có các quan điểm tự do hơn, và nhánh trung dung Do Thái giáo Bảo thủ gần đây đã chấp nhận các chủng sinh đồng tính.[260] Mặt khác, Anh giáo gặp phải sự bất đồng giữa một bên là các giáo hội tại châu Phi (trừ vùng Nam Phi) và tại châu Á với một bên là các giáo hội tại Bắc Mỹ khi giáo hội Hoa Kỳ và Canada chấp nhận các giáo sĩ đồng tính và ủng hộ hôn nhân đồng giới. Nhiều nhóm tôn giáo lại tẩy chay các công ty có chính sách ủng hộ cộng đồng thiên hướng tình dục thiểu số. Đầu năm 2005, Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ đe dọa tẩy chay sản phẩm của Ford khi công ty này ủng hộ hôn nhân đồng giới.[261] Đồng tính luyến ái và sức khỏeSửa đổi
Nếu người đồng tính nam có quan hệ tình dục với người nam khác thì thuộc nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam nên các vấn đề về sức khỏe tương tự như nhóm hành vi này. Đọc các vấn đề sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam để biết thêm chi tiết. Nam quan hệ với nam không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nam, song tính luyến ái nam mà bao gồm tất cả người nam có quan hệ tình dục với nam với mọi mục đích. Theo báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS năm 2012, tỉ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở Thành phố Hồ Chí Minh là 16%, tỷ lệ chỉ đứng sau nhóm tiêm chích ma túy. Tại đây, cứ 5 nam quan hệ đồng giới thì có một người nhiễm ít nhất một trong các nhiễm khuẩn giang mai, lậu sinh dục, lậu trực tràng, chlamydia sinh dục hoặc chlamydia trực tràng.[264] Nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao do một đồng tính nam thường có nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác. Bên cạnh đó, các đồng tính nam thường quan niệm sai lầm rằng, chỉ có quan hệ khác giới mới bị nhiễm HIV, giang mai, mào gà... còn đồng tính thì không. Họ ít khi sử dụng các biện pháp phòng tránh khi quan hệ tình dục như một khảo sát của Ban quản lý dự án phòng chống HIV/AIDS (Việt Nam) trên 300 đồng tính nam cho thấy một số chỉ sử dụng bao cao su với bạn tình mới quen lần đầu, khi thân rồi họ không đề phòng nữa.[265] Tương tự, đọc nữ có quan hệ tình dục với nữ để biết thêm chi tiết. Nữ quan hệ với nữ không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nữ, song tính luyến ái nữ mà bao bồm tất cả người nữ có quan hệ tình dục với nữ. Năm 2010, một báo cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết trong số các ca nhiễm HIV mới ở Hoa Kỳ thì số ca thuộc cộng đồng nam thanh niên đồng tính trẻ tuổi cao hơn rất nhiều so với mức chung, có nhiều nguyên nhân cho việc này:
Thống kê của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Mỹ năm 2011 cho biết: nam đồng tính có khả năng nhiễm HIV cao gấp 44 tới 86 lần so với nam giới bình thường, và cao gấp 40 tới 77 lần so với nữ giới.[267] Năm 2009, thống kê cho biết có 61% số ca nhiễm HIV mới ở Mỹ là đồng tính hoặc song tính, dù nhóm này chỉ chiếm khoảng 2% dân số Mỹ.[268] Hoa Kỳ hiện đang cấm nhóm đối tượng nam quan hệ tình dục với nam đi hiến máu "vì họ là một nhóm có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, viêm gan B và một số bệnh nhiễm trùng khác có thể được lây truyền qua truyền máu" Vương quốc Anh và nhiều nước châu Âu đã cấm tương tự.[269][270] Xem thêmSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
|