So sánh đất nước và từ ấy năm 2024

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của thơ ca cách mạng nước ta. Thơ Tố Hữu là sự hòa quyện của cảm xúc và lí tưởng của trữ tình và chính trị. Viết về những vấn đề lớn lao với những cảm xúc dạt dào chân thực, mỗi vần thơ của ông đã làm rung động trái tim và thức tỉnh lí trí của bao người. Một trong những bài thơ thể hiện sâu sắc phong cách thơ Tố Hữu có lẽ phải kể đến “Từ ấy”. Thi phẩm đã ghi lại tâm trạng của chàng thanh niên khi bắt gặp lí tưởng cộng sản để rồi được hồi sinh cả con người và hồn thơ. Phải chăng vì thế mà tác phẩm này gợi ra cho chúng ta nhiều suy nghĩ về vấn đề lí tưởng, lẽ sống trách nhiệm của thanh niên với đất nước dân tộc?

“Từ ấy” được viết vào khoảng tháng 7/1938 khi Tố Hữu vừa tròn 18 tuổi và vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Nhan đề bài thơ đã được chọn thành tên chung cho toàn tập thơ đầu tay của Tố Hữu. Chỉ riêng điều đó thôi đã đủ nói nên ý nghĩa đặc biệt của bài thơ đối với đời cách mạng và đời thơ của ông. Mở đầu bài thơ là lời tự sự giản dị, tự nhiên:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim

Thoảng nghe tưởng như “từ ấy” là một mốc thời gian rất mơ hồ, không cụ thể. Nhưng đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ ta mới hiểu hết được ý nghĩa của phút giây đó. “Từ ấy” là giây phút thiêng liêng nhất trong cuộc đời của nhà thơ, là dấu mốc quan trọng giữa hai chặng đường đời của Tố Hữu. Trước khi được giác ngộ lí tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng như nhiều thanh nhiên khác thời bấy giờ sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ điêu linh. Bản thân họ có thể là những thanh nhiên nhiệt huyết nhưng lại rơi vào bế tắc, không phương hướng. Trong “Nhớ đồng”, Tố Hữu từng kể lại:

Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn Muốn thoát than ôi bước chẳng dời Ở môt bài thơ khác ông bộc bạch: Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước Chọn một dòng hay để nước trôi

Nếu đọc Thơ Mới ta hẳn sẽ nhận ra cảm giác cô đơn, lạc lõng, bế tắc trước thực tại này không phải là xa lạ, cá biệt. Nhiều nhà thơ Mới tìm cách thoát ly nhưng rồi lại rơi vào vòng quanh quẩn của bế tắc, tuyệt vọng, cô đơn, buồn não. Đặt trong bối cảnh như vậy ta mới hiểu được tại sao Tố Hữu lại say mê sung sướng đến thế khi đón nhận lí tưởng. Một chân trời mới như được mở ra, phía trước là ánh sáng mật trời bừng chiếu cuộc đời của nhà thơ thay đổi, hồn thơ cũng được tái sinh. Cho đến tận sau này khi nhớ lại Tố Hữu vẫn không giấu nối niềm vui sướng ngất ngây ấy:

Rồi một hôm nào tôi thấy tôi Nhẹ nhàng như con chim cà lơi Say đồng hương nắng vui ca hát Trên chín tầng cao bát ngát trời…

Như vậy “từ ấy” quả đúng là phút giây diệu kỳ và thiêng liêng. Nó như mối duyên đầu của người thanh niên với cách mạng. Tuổi trẻ vốn giàu ước mơ nhiệt huyết nay được chỉ đường dẫn lối càng thêm phơi phới, lạc quan hướng về phía trước.

Hai câu thơ còn diễn tả sức tác động to lớn diệu kì của lý tưởng tới nhận thức của nhà thơ thông qua hệ thống hình ảnh từ ngữ giàu giá trị biểu cảm. Các động từ mạnh như “bừng”, “chiếu’, “chói” đã nhấn mạnh sự đổi thay, sức tác động của “mặt trời chân lí” đối với hồn thơ Tố Hữu. Ánh nắng ở đây là “nắng hạ” thứ nắng rực rỡ, nhiều nhiệt lượng, giàu sức tỏa sáng và soi chiếu nhất. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ kết hợp với ngữ nghĩa “mặt trời chân lí” đã thể hiện sâu sắc những cảm xúc của nhà thơ. Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản với mặt trời, đây là một hình ảnh so sánh giàu ý nghĩa và vô cùng hợp lý. Mặt trời mang sự sống đến cho muôn loài cũng như lí tưởng đã làm hồi sinh cuộc đời và hồn thơ Tố Hữu. Ẩn sau đó còn là biết bao thành kính, biết ơn của nhà thơ đối với cách mạng, với Đảng.

Và rồi từ sự hồi sinh đó, tâm hồn nhà thơ bừng nở dạt dào sức sống:

Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Nếu so sánh lý tưởng với mặt trời thì còn gì hợp hơn so sánh tâm hồn với khu vườn rực rỡ sắc hương. Khu vườn ấy xanh tươi, căng tràn sức sống có hương thơm và những tiếng chim rộn ràng. Tiếng rộn ràng đó phải chăng cũng chính là tiếng reo vui của tâm hồn Tố Hữu trước thời khắc thiêng liêng của cuộc đời mình? Tâm hồn chàng thanh niên như được hồi sinh, rộng mở, cất cánh. Từ đó mà hồn thơ, nguồn cảm xúc cũng ùa về, không còn những câu thơ bế tắc, những nỗi sầu cô đơn. Từ đây tâm hồn ấy, hồn thơ ấy đã tìm được lối đi, nguồn sống cho mình. Như vậy khổ thơ thứ nhất là niềm vui sướng sau mê là tiếng reo vui ngập tràn của Tố Hữu trong giây phút thiêng liêng của cuộc đời khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản. Từ đây, chúng ta có một chiến sĩ cách mạng sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng vì dân tộc, một nhà thơ như người thư kí trung thành của thời đại của nhân dân.

Đất nước vốn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ ca, đã từ bao đời nay, bao thế hệ thi sĩ đã nhọc công tìm kiếm, lí giải hai chữ đất nước. Trong thơ ca hiện đại, ta không thể không nhắc đến Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm, những gương mặt nổi bật nhất của thơ ca hiện đại. Bằng chiều sâu tư duy và tình cảm mỗi nhà thơ đều đưa ra những phát hiện hết sức mới mẻ về đất nước, góp phần làm hoàn chỉnh diện mạo Đất Nước.

Nguyễn Khoa Điềm là người nghệ sĩ có tư duy thơ mạch lạc, bởi vậy thơ ông thiên về lí trí. Để đưa ra kết luận cuối cùng về đất nước theo quan niệm của mình ông đã đưa ra vô vàn những khái niệm nhỏ, để từ đó đi đến kết luận lớn. Nguyễn Khoa Điềm không định nghĩ đất nước bằng những khái niệm trừu tượng, mà cảm nhận đất nước bằng những gì chân thực, cụ thể nhất, qua sự tích trầu cau, qua truyền thuyết Thánh Gióng:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể,

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Chỉ bằng câu khái quát ngắn gọn những tác giả đã cho thấy nguồn cội sâu xa của đất nước. Không chỉ vật đất nước còn được hình thành qua những truyền thống văn hóa, thuần phong mĩ tục: “tóc mẹ thì bới sau đầu” “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đất nước đôi khi cũng thật giản dị, là nơi anh đến trường, là nơi em tắm, là nơi đôi ta hẹn hò lần đầu tiên. Dường như đất nước là những gì thân thuộc, gần gũi như hơi thở của mỗi người.

Và đất nước trải qua hàng ngàn, hàng vạn năm thăng trầm đó không của riêng ai, mà chính là của nhân dân – đây cũng chính là mạch tư tưởng xuyên suốt, chi phối tác phẩm: “Đất nước – nhân dân”. Đất nước được dựng xay từ những người vô danh, biết bao thế hệ đã đổ mồ hôi, xương máu để bảo vệ và dựng xây đất nước: “Có biết bao người con trai, con gái/…/ Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Chính họ chứ không phải một ai khác đã làm nên dáng vẻ, làm nên phong tục tập quán cho thế hệ sau, chính họ đã làm nên dáng hình đất nước muôn đời. Và như một tất yếu, thế hệ sau phải gánh vác trọng trách xây dựng và bảo vệ tổ quốc:

Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời.

Bằng tư duy mạch lạc, logic, Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho người đọc một hình dung thật cụ thể về đất nước. Đất Nước chính là của nhân dân, được tạo nên từ những giá trị giản dị, bình tâm và đẹp đẽ nhất của mỗi thế hệ cha anh.

Đất Nước của Nguyễn Đình Thi lại mang hơi hướng hiện đại rất rõ nét. Mở đầu bài thơ, đất nước được cảm nhận trong không khí mùa thu xưa và nay. Bức tranh mùa thu xưa quạnh văng, thoáng buồn, hình ảnh của nhân vật hiện lên đầy quyến luyến mà cũng đầy quyết tâm: “Sáng mát trong như sáng năm xưa/…/Sau lừng thềm nắng lá rơi đầy”. Từ mùa thu của quá khứ, tác giả đã đưa người đọc đến mùa thu của hiện đại, khi đất nước được giải phóng, mùa thu cũng trở nên trong lành và đẹp đẽ hơn:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Mùa thu nay đã thật khác, con người đã thoát khỏi ách gông cùm, xiềng xích, tự làm chủ chính mình. Giọng thơ bỗng trở nên tươi vui, sảng khoái và khỏe khoắn hơn rất nhiều: “Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta”. Điệp từ “chúng ta” như một lời khẳng định mạnh mẽ về độc lập, chủ quyền của dân tộc.

Không chỉ khắc họa đất nước trong những năm tháng hòa bình, lật lại lịch sử, ông cho bạn đọc thấy đất nước trong những năm tháng thương đau nhưng cũng đầy quật khởi, hào hùng: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều”. Câu thơ ngắn gọn, cô đúc đã khái quát được những năm tháng chiến đấu gian khổ, những hi sinh mất mát của quân dân ta. Trong câu thơ đầy hơn căm, cũng đầy khí thế, sẵn sàng vùng lên đấu tranh. Nhưng cuối cùng chiến thắng đã thuộc phe chính nghĩa. Bốn câu thơ cuối, khái quát khí thế hào hùng, sáng lòa của dân tộc:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dấy sáng lòa

Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi trải qua đau thương, mất mát, đã giành được độc lập, tự chủ. Đất Nước được ông khắc họa như một sinh thể sống động.

Giữa hai tác phẩm này đều lấy đất nước làm hình tượng trung tâm, họ đều là những người đi tim hình hài của đất nước. Những mỗi người có phong cách sáng tác khác nhau, nên hình tượng đất nước tất yếu sẽ có những điểm khác biết. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian cụ thể. Đất nước chủ yếu được nhìn trên bình diện văn hóa, truyền thống, địa lí và đặc biệt tư tưởng Đất nước – nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bài. Còn Đất nước của Nguyễn Đình Thi đặt đất nước trong trục thời gian quá khứ và hiện tại, cùng với chiến thắng tất yếu của dân tộc. Sự khác biệt này là do thời điểm sáng tác hai bài thơ khác nhau. Nhưng quan trọng nhất là do mỗi tác giả có phong cách, nhìn nhận riêng, từ đó có những quan niệm và cách thể hiện khác nhau về đất nước.

Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi những cây đại thụ của làng văn học Việt Nam. Bằng những trải nghiệm cá nhân, nét đặc trưng phong cách riêng, cả hai tác giả đã đem đến cho bạn đọc những quan niệm mới mẻ về đất nước. Để từ đó khơi dậy niềm tin yêu, tự hào và ý thức bảo vệ, giữ gìn và phát triển Đất nước trong mỗi bạn đọc.