Quan hệ nghĩa vụ là gì

Nghĩa vụ là gì? Căn cứ làm phát sinh và đối tượng của nghĩa vụ được Bộ luật dân sự 2015 quy định như thế nào? LawKey sẽ giải đáp những nội dung này như sau:

1. Nghĩa vụ là gì?

Điều 274 Bộ luật dân sự 2015 quy định về khái niệm nghĩa vụ như sau: Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).

Nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ sau đây:

– Hợp đồng.

– Hành vi pháp lý đơn phương.

– Thực hiện công việc không có ủy quyền.

– Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

– Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật.

– Căn cứ khác do pháp luật quy định.

2. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ

Điều 275 Bộ luật dân sự 2015, Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ bao gồm:

2.1. Hợp đồng

Hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 “là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Đó là sự thỏa thuận giữa các bên về việc mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, cho thuê, mượn tài sản hoặc về việc thực hiện một công việc, theo đó làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong hợp đồng. Với tính chất này, khi các bên thỏa thuận nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của nhau thì đây sẽ là căn cứ hình thành nghĩa vụ.

2.2. Hành vi pháp lý đơn phương

Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi của cá nhân thể hiện ý chí tự do, tự nguyện, tự định đoạt của bản thân nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Khi một người thực hiện một hành vi pháp ký đơn phương thì có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba.

2.3. Thực hiện công việc không có ủy quyền

Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.

2.4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Khi một người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của người đó kể từ khi người đó có khoản lợi trong tay. Từ thời điểm người đó biết hoặc phải biết việc được lợi thì phải hoàn trả khoản lợi mà mình đã thu được.

2.5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật

Thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật sẽ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại. Trong quan hệ này, bên gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bên bị thiệt hại.

2.6. Căn cứ khác do pháp luật quy định

Trường hợp này do pháp luật khác quy định, để tránh sự bỏ sót phát sinh trong thực tiễn. Đó là những căn cứ pháp lý do pháp luật quy định điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ về tài sản giữa các chủ thể trong quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự. 

3. Đối tượng của nghĩa vụ

Bộ luật dân sự 2015 quy định đối tượng của nghĩa vụ tại Điều 276 bao gồm các đối tượng như sau:

1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện

Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 tài sản bao gồm:

+ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

+ Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Đây là những gì các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ tác động tới để qua đó thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.

Không có văn bản quy phạm pháp luật giải thích thuật ngữ “công việc phải thực hiện” là gì. Tuy nhiên, thuật ngữ “công việc” có thể hiểu là một dạng hoạt động cụ thể mà một bên mong muốn xác lập quan hệ nghĩa vụ để bên còn lại thực hiện hoạt động này. Hoạt động này có thể thông qua hoặc không thông qua hành vi cụ thể. Và qua hoạt động này, bên yêu cầu có thể thỏa mãn được các nhu cầu về lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần. Do đó, công việc phải thực hiện được hiểu là những hoạt động thể hiện thông qua hành vi cụ thể. 

  • Công việc không được thực hiện

Công việc không được thực hiện là những hoạt động không thông qua hành vi – tức là thể hiện dưới dạng không hành động cụ thể. Hoạt động này cũng sẽ là đối tượng của quan hệ nghĩa vụ khi các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định mà thông qua hoạt động này, một trong các bên có được những quyền và lợi ích của mình. 

2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định

Một trong những nguyên tắc để thực hiện được quyền và nghĩa vụ từ sự thỏa thuận hoặc pháp luật của các bên, đối tượng là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện cần phải xác định được một cách rõ ràng. Điều này hoàn toàn là sự phù hợp, khi đối tượng không thể xác định thì các bên chủ thể không thể tác động vào đó để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích của mình. Đồng thời, các bên chủ thể càng không thể tạo ra các quyền và nghĩa vụ một cách cụ thể. 

Trên đây là nội dung bài viết Căn cứ phát sinh và đối tượng của nghĩa vụ dân sự, Lawkey gửi tới bạn đọc, nếu có thắc mắc liên hệ LawKey để được giải đáp.

Xem thêm: Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật hiện nay

Đối tượng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động tới trong việc xác lập, thực hiện quan hệ nghĩa vụ với nhau.

Trong quan hệ nghĩa vụ, hành vi của các chủ thể sẽ tác động vào một tài sản, một công việc cụ thể nào đó. Những tài sản, công việc này chính là đối tượng của việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà đối tượng của nó có thể là một tài sản, một công việc phải làm hoặc một công việc không được làm. Điều 276 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

“1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.

2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định”.

Từ quy định trên cho thấy, đối tượng của nghĩa vụ có thể là:

Đa phần các nghĩa vụ dân sự đều có đối tượng là tài sản. Tài sản trong luật dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là những vật có thực mà còn bao gồm cả tiền, các giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Tài sản là vật có thể là động sản hoặc bất động sản, có thể là vật chia được hoặc là vật không chia được, có thể là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có thể là vật được xác định theo chủng loại hay được xác định là vật đồng bộ. Tùy theo tính chất của từng loại tài sản cụ thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mà các bên thỏa thuận để xác định nội dung của quan hệ nghĩa vụ.Vật là đối tượng của nghĩa vụ có thể là vật hiện hữu (vật có thực), có thể là vật được hình thành trong tương lai.

Công việc phải làm được coi là đối tượng của nghĩa vụ, nếu từ một công việc được nhiều người xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ mà theo đó, người có nghĩa vụ phải thực hiện công việc theo đúng nội dung đã được xác định.

Công việc phải làm có thể được hoàn thành với một kết quả nhất định nhưng cũng có thể không gắn liền với một kết quả (do các bên thỏa thuận hoặc do tính chất của công việc). Mặt khác, kết quả của công việc phải làm có thể được biểu hiện dưới dạng một vật cụ thể nhưng cũng có thể không biểu hiện dưới dạng một vật cụ thể nào (các loại dịch vụ).

Thông thường, các quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là công việc phải làm là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng mang tính dịch vụ như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gửi giữ tài sản…

Công việc không được làm là đối tượng của nghĩa vụ trong những trường hợp các bên từ công việc đó xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ không được thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định.

Ví dụ: Hai người có bất động sản liền kề nhau thoả thuận một bên nhận ở bên kia một khoản tiền và cam kết không xây dựng nhà trên đất của mình để khỏi che lấp nhà của bên kia (thời hạn không được xây nhà được xác định theo thoả thuận của hai bên).

Quan hệ nghĩa vụ là gì
Hình minh họa. Đối tượng của nghĩa vụ là gì? Điều kiện đối với đối tượng của nghĩa vụ

Qua việc xem xét đối tượng của nghĩa vụ dân sự ở các dạng cụ thể thì một tài sản, một công việc phải làm hoặc một công việc không được làm chủ được coi là đối tượng của nghĩa vụ dân sự khi chúng thoả mãn các điều kiện sau đây:

– Phải đáp ứng được lợi ích nào đó cho chủ thể có quyền

Thông thường, lợi ích mà chủ thể có quyền hướng tới là một lợi ích vật chất (vật cụ thể, khoản tiền v.v.) nhưng cũng có thể là một lợi ích tinh thần.

Để chủ thể có quyền đạt được lợi ích vật chất nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là một vật cụ thể thì vật đó phải mang đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá (giá trị và giá trị sử dụng). Nếu đối tượng của nghĩa vụ là công việc thì việc phải làm hoặc việc không được làm phải hướng tới lợi ích của người có quyền. Khi làm hoặc không làm công việc đó sẽ đem đến cho bên kia lợi ích nhất định.

– Phải được xác định hoặc có thể xác định được Khi các bên giao kết hợp đồng để từ đó xác lập quan hệ nghĩa vụ đối với nhau, phải xác định rõ đối tượng của nghĩa vụ là công việc hay vật gì. Trong trường hợp nghĩa vụ được thiết lập theo quy định của pháp luật thì đối tượng đã được pháp luật xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy.

Nếu đối tượng của nghĩa vụ là vật thì các bên phải xác định rõ về số lượng, trọng lượng, khối lượng, tính chất, tình trạng của tài sản thông qua việc kiểm đếm và các giấy tờ liên quan (nếu có). Nếu là tài sản hình thành trong tương lai thì phải có các giấy tờ liên quan xác định cụ thể về tài sản đó và các căn cứ để chứng minh tài sản đó chắc chắn sẽ hình thành và khi hình thành sẽ thuộc sở hữu của một trong các bên. Nếu là giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản thì bên đưa tài sản đó làm đối tượng của nghĩa vụ phải có đầy đủ bằng chứng chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu của mình.

– Đối tượng của nghĩa vụ có thể thực hiện được

Nếu đối tượng của nghĩa vụ dân sự là việc không thể thực hiện được sẽ không thoả mãn được lợi ích của chủ thể có quyền. Vì vậy, nếu đối tượng là tài sản thì phải là những tài sản có thể đem giao dịch được, nếu là công việc thì phải là những công việc có thể thực hiện được.

Khi xem xét đối tượng của nghĩa vụ có thể thực hiện được hay không cần xác định theo hai vấn đề sau:

Thứ nhất, xác định theo đặc tính của bản thân đối tượng, đối tượng vốn dĩ là vật không thể xác định được hoặc nếu đối tượng là công việc nhưng về bản chất đó là công việc không thể thực hiện được sẽ không thể đem giao dịch.

Thứ hai, do pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội. Những tài sản mà pháp luật cấm giao dịch, những công việc mà pháp luật cấm làm hoặc những việc nếu làm sẽ trái với đạo đức xã hội cũng là những đối tượng không thể thực hiện được. Vì vậy, nó không bao giờ được coi là đối tượng của nghĩa vụ dân sự.

Ví dụ: Thuốc phiện là một vật có thực nhưng không thể đem giao dịch được vì đã bị pháp luật cấm lưu thông.

Mặt khác, một người chỉ có thể dùng tài sản làm đối tượng giao dịch nếu họ là chủ sở hữu của tài sản, là người được chủ sở hữu uỷ quyền giao dịch hoặc là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.