ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Show ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG KHOA NGỮ VĂN TẬP BÀI GIẢNG LÝ LUẬN DẠY HỌC NGỮ VĂN Nguyễn Đăng Châu 11snv 2013 - 2014 Lí luận dạy học Ngữ văn - Bài MộtĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN (PPDHNV)
1.1.1. Đối tượng nghiên cứu của khoa học. Đối tượng nghiên cứu của một khoa học có thể là một trạng thái vật chất, một hiện tượng, một quá trình tồn tại thuộc lĩnh vực tự nhiên, lĩnh vực xã hội và đời sống tâm lí, tâm linh của con người. Các đối tượng nghiên cứu của khoa học có một đặc điểm chung là chúng tồn tại hiển nhiên trong thế giới khách quan. Trạng thái, hiện tượng hay quá trình đó chứa trong lòng nó các qui luật vận động và phát triển mà con người chưa hiểu hết. Con người có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu chúng để biết, để học theo và hướng các qui luật vân động của thế giới khách quan vào phục vụ lợi ich của con người. 1.1.2. Phương pháp dạy học Ngữ văn (PPDHNV) nghiên cứu tiến trình (hay quá trình) dạy và học Ngữ văn. Ở một góc nhìn khác, có người nói, đối tượng nghiên cứu của PPDHNV là tiến trình học tập ngữ văn của học sinh trong các điều kiện cần thiết. Tiến trình đó bao gồm nội dung ngữ văn cần dạy học, các nguyên tắc, các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học nội dung đó sao cho có hiệu quả nhất. Hiệu quả nghĩa là thỏa mãn được mục tiêu của môn học Ngữ văn ở trường phổ thông (cần phân biệt với mục tiêu của PPDHNV như mục 1.2. tiếp sau đây). Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của Phương pháp dạy học Ngữ văn là toàn bộ các hoạt động như xây dựng khung chương trình, biên soạn nội dung dạy học, hiện thực hóa nội dung giáo dục ngữ văn bằng các phương pháp dạy học dưới các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, các hoạt động học của học sinh; kể cả các phương pháp kiểm tra, đánh giá hiệu quả dạy học. Các hoạt động trên, tất nhiên, phải được xem xét, nghiên cứu, thực thi trong sự thống nhất với các nguyên tắc dạy học ngữ văn. 1.1.3. Nắm vững đối tượng nghiên cứu của PPDHNV, sinh viên sư phạm và giáo viên môn Ngữ văn phổ thông hiểu rõ được các bình diện của tiến trình dạy học ngữ văn và các khía cạnh liên quan khác nhằm làm chủ năng lực dạy học và kĩ năng nghề nghiệp.Các bình diện trên bao gồm nội dung dạy học, hoạt động dạy của thầy, hoạt động học của trò, môi trường thực hành và các công cụ thiết bị hỗ trợ khác. 1.1.4. So với các tiến trình dạy học các môn học khác, đối tượng nghiên cứu của PPDHNV – tiến trình dạy học Ngữ văn là một tiến trình giáo dục rất đặc biệt. Điểm đặc biệt đầu tiên thể hiện ở nội dung dạy học và sức lay động của nó. Dạy học ngữ văn nhưng không chỉ nhằm hình thành năng lực ngữ văn. Mà năng lực ngữ văn làm cho học sinh biết sống đẹp, sống tốt, sống có ích cho bản thân và cho cộng đồng xã hội. Vậy theo bạn, năng lực ngữ văn có phải là mục tiêu của dạy học ngữ văn không? Điểm đặc biệt thứ hai thể hiện ở phạm vi tác động vào người học của môn học Ngữ văn. Theo bạn, phạm vi tác động đó là gì? Điểm đặc biệt thứ ba thể hiện ở kết quả sau cùng của tiến trình giáo dục ngữ văn. 1.2. Mục tiêu của Phương pháp dạy học Ngữ văn là góp phần đào tạo giáo viên ngữ văn ở trường phổ thông. Để dạt mục tiêu, PPDHNV cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây. 1.3. Nhiệm vụ của Phương pháp dạy học Ngữ văn 1.3.1. Đào tạo nghiệp vụ giảng dạy ngữ văn cho giáo viên. Với PPDHNV, giáo viên được trang bị lí thuyết dạy học, rèn luyện kĩ năng dạy học ngữ văn. Lí thuyết dạy học cùng với kĩ năng dạy học làm nên chất lượng nghiệp vụ của một giáo viên. Về lí thuyết, giáo viên phải nắm vững quan điểm chỉ đạo việc tổ chức hoạt động giáo dục bộ môn Ngữ văn; nắm vững mục tiêu và nội dung dạy học; nắm vững các nguyên tắc và phưong pháp dạy học; nắm vững các hình thức tổ chức dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá kết quả dạy học. Về kĩ năng dạy học, giáo viên có thể tổ chức được tiến trình dạy học của từng phân môn. Qua tiến trình dạy học, giáo viên thể hiện kĩ năng trình bày, phong cách sư phạm; thể hiện kĩ năng vận dụng phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; thể hiện mức độ nắm vững nội dung kiến thức và năng lực xử lí tình huống sư phạm; … 1.3.2. Hướng đến chất lượng học tập ngữ văn của học sinh. PPDHNV xác định mục tiêu chất lượng ngữ văn cần đạt ở mỗi học sinh về năng lực ngữ văn và về phẩm chất xã hội nhân văn. PPDHNV nghiên cứu, chọn lựa nội dung ngữ văn, phương pháp, biện pháp dạy học, hình thức dạy học sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh. PPDHNV cũng nghiên cứu phương pháp tự học, phương pháp thực hành ngữ văn của học sinh 1.3.3. Hoàn thiện qui trình đào tạo và nghiên cứu dạy học Ngữ văn. Tạo điều kiện cho giáo viên Ngữ văn tham gia nghiên cứu tiến trình dạy học Ngữ văn là cách tốt nhất nhằm hoàn thiện qui trình đào tạo và nghiên cứu dạy học ngữ văn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp dạy học Ngữ văn 1.4.1. Quan sát, phân tích năng lực ngữ văn của học sinh qua bài kiểm tra. 1.4.2. Thăm dò hiệu quả tác động vào học sinh qua điều tra xã hội học. 1.4.3. Tổ chức thực nghiệm dạy học. 1.5. Nội dung nghiên cứu của môn Phương pháp dạy học Ngữ văn PPDHNV nghiên cứu các nguyên tắc tổ chức dạy học, mục tiêu dạy học, nhiệm vụ và nội dung, phương pháp và phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông.
1. So với đối tượng nghiên cứu của các khoa học cơ bản ( ngôn ngữ học, văn học,…), đối tương nghiên cứu của Phương pháp dạy học Ngữ văn – tiến trình dạy học Ngữ văn – có những khác biệt gì? 2. Có người nói, nhiệm vụ của Phương pháp dạy học ngữ văn là phải trả lời ba câu hỏi: dạy nội dung gì?; dạy bằng các phương pháp nào?; và căn cứ vào cơ sở khoa học nào để tin rằng đó là các phương pháp hữu hiệu?. Cách hiểu này có mâu thuẫn với nhiệm vụ của PPDHNV nêu trong bài không? Lí luận dạy học Ngữ văn - Bài HaiCÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ VĂN
1.1. Tiếp cận giao tiếp là gì? Đây là một kiểu hành động (action) lấy giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ làm nền để triển khai các hoạt động (act) dạy học. Giao tiếp xã hội bằng ngôn ngữ có các qui tắc nhất định nhằm bảo đảm sự thông hiểu lẫn nhau giữa các nhân vật giao tiếp. Ngoài nhân vật giao tiếp, các qui tắc này còn liên quan đến các nhân tố giao tiếp khác như nội dung giao tiếp, bối cảnh giao tiếp, … Vậy tiếp cận giao tiếp trong dạy học ngữ văn là dựa vào hoạt động giao tiếp của tác phẩm văn học để dạy học sinh tiếp nhận chúng trong tiết học phân môn Văn học; là dựa vào thực tế giao tiếp bằng tiếng Việt để dạy lí thuyết, rèn luyện kĩ năng tiếng Việt trong tiết học phân môn Tiếng Việt; là dựa vào văn bản mẫu để dạy lí thuyết kĩ năng làm văn và rèn thực hành theo mẫu trong tiết dạy Làm văn. 1.2. Tác phẩm văn chương nói riêng và ngôn bản nói chung là đơn vị lời nói được cấu tạo bởi yếu tố ngôn ngữ và yếu tố phi ngôn ngữ. Công cụ giao tiếp xã hội phổ biến nhất là ngôn ngữ. Song các yếu tố ngôn ngữ hoạt động trong lời nói lại kết hợp với các tín hiệu khác (không phải ngôn ngữ) như điệu bộ, cử chỉ, tình huống giao tiếp,… để làm nên đơn vị giao tiếp (phát ngôn, ngôn bản hay diễn ngôn). Nhà văn hay nhà thơ, nhà biên kịch giao tiếp với công chúng qua tác phẩm của mình. Bài thơ, vở kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết là công cụ giao tiếp giữa tác giả và công chúng. Mỗi tác phẩm như vậy là một phát ngôn, tức đơn vị lời nói, hợp thành bởi yếu tố ngôn ngữ với các yếu tố phi ngôn ngữ. Tuân thủ nguyên tắc tiếp cận giao tiếp trong dạy học tác phẩm văn học nghĩa là phải gắn nội dung văn bản với bối cảnh xã hội lịch sử, với tiểu sử cùng cảm quan, nhân sinh quan, thế giới quan của tác giả mới có thể nắm bắt được tư tưởng chủ đề của tác phẩm. 1.3. Tương tự như vậy, dạy kiến thức về hệ thống tiếng Việt, về cách sử dụng tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng tiếng mẹ đẻ cho học sinh không thể diễn ra bên ngoài môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt. Suy cho cùng, dạy học tiếng Việt cho học sinh nhằm mục tiêu chủ yếu là hình thành ở các em năng lực tiếp nhận và tạo lập được các phát ngôn. Các qui tắc hội thoại, tức qui tắc tạo ra và tiếp nhận phát ngôn gắn liền với các nhân tố giao tiếp khiến người tham gia giao tiếp phải nắm vững chúng. Hệ thống lí thuyết về tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt dạy ở bậc Trung học phổ thông thể hiện rõ điều này. 2. Nguyên tắc tiếp cận quan điểm lịch sử trong dạy học Ngữ văn 2.1. Tiếp cận quan điểm lịch sử là gì? Đây là một kiểu nhận thức có tính khoa học; là nhận thức sự vật, sự việc, con người trong mối liên hệ với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nó. Ưu điểm của Nguyễn Du như tài năng nghệ thuật, cảm quan nhân đạo chủ nghĩa,..thuộc về bản thân đại thi hào Nguyễn Du; còn hạn chế như tư tưởng bảo hoàng, trung quân,.. lại thuộc về thời đại mà ông đang sống. 2.2. Bối cảnh xã hội – tác giả - tác phẩm – người đọc dưới góc nhìn đồng đại và lịch đại Khác với ngôn bản thông thường, tác phẩm văn học là ngôn bản có đời sống đặc biệt. Người ta thường nói về vòng đời của tác phẩm văn học. Nó được nhà văn sáng tạo ra, tác động đến bạn đọc và dư luận xã hội; đến lượt mình, bạn đọc dựa vào các sự kiện lịch sử xã hội liên quan, lí giải nó, làm ngữ nghĩa thêm phong phú, hàm súc, có khi vượt ra ngoài chủ định của tác giả. Bạn đọc không cùng thời với tác giả cần có góc nhìn đồng đại và lịch đại để có sự đánh giá thích đáng về tác giả, về nhân vật văn học,… Điều này được gọi là quan điểm lịch sử trong phép tư duy biện chứng duy vật. 3. Nguyên tắc tích hợp trong dạy học ngữ văn 3.1. Tích hợp là gì? Đó là sự gắn kết kiến thức theo hướng hệ thống hóa hoặc liên kết mở rộng dựa trên các phẩm chất gần gũi, tương tác hoặc hỗ trợ giữa các ngành học nhằm mục đích làm sâu sắc hơn nhận thức của chúng ta về bản chất của các sự vật hiện tượng. 3.2. Tích hợp hệ thống nhằm đồng bộ hóa vốn tri thức theo phân ngành, phân môn cho học sinh. Mỗi một điểm kiến thức nào đó về ngành học chỉ có thể được nhận thức đầy đủ khi đặt nó vào hệ thống. Toàn bộ hiểu biết của ta về ngành học đó chỉ có thể ghi nhớ, vận dụng suy luận theo cơ chế liên tưởng được khi chúng tồn tại trong óc ta một cách có hệ thống. Vậy, tích hợp hệ thống trong dạy học ngữ văn là gì? 3.3. Tích hợp mở rộng nhằm phát triển khả năng tham chiếu kiến thức giữa các phân ngành, phân môn với nhau. Dạy văn học dân tộc không thể không am hiểu về lịch sử dân tộc, về tôn giáo, về triết học. Hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm văn học không thể không quan tâm đến kiến thức ngôn ngữ, kiến thức thể loại văn bản. Nhờ tích hợp mở rộng, kiến thức người học không bị bó hẹp trong chuyên môn sâu. Nhờ tích hợp mở rộng, người học có thể tự phát hiện điều mới mẻ và sáng tạo. Vậy tích hợp mở rộng trong dạy học ngữ văn là gì? 4. Nguyên tắc rèn luyện và phát triển các loại hình tư duy: tư duy logic và tư duy hình tượng 4.1. Tư duy khoa học và tư duy nghệ thuật Tư duy khoa học hay còn gọi là tư duy logic (luận lí / suy luận có lí). Phương pháp tư duy khoa học dựa trên các qui tắc nhằm bảo đảm đạt đến chân lí. Lịch sử phát triển của khoa học về tư duy logic (logic học) bắt đầu từ rất sớm với Aristotle (-384 - 322 TCN) ở Hy Lạp cổ đại. Tư duy nghệ thuật hay còn gọi là tư duy hình tượng. Đây là một kiểu hoạt động tư duy dựa trên cảm thức trải nghiệm bằng hình ảnh hay biểu tượng. Vì vậy, nghệ sĩ dùng hình ảnh hoặc biểu tượng làm phương tiện tác động vào cảm thức của người tiếp nhận. 4.2. Tư duy logic và tư duy hình tượng thống nhất hay đối lập nhau? Hoạt động nhận thức thế giới khách quan của chúng ta bao giờ cũng đi từ tiếp xúc trực quan đến tư duy trừu tượng. Vì vậy, hoạt động tư duy dựa trên suy luận có lí hay trên cảm thức trải nghiệm hình ảnh, biểu tượng đều diễn ra theo qui luật ấy.Vì vậy, tư duy hình tượng bao giờ cũng phải được soi xét theo chiều hướng thống nhất với tư duy logic. Một người bình thường hoặc một nhà khoa học tự nhiên có thể có tư duy logic sắc bén bên cạnh một năng lực tư duy hình ảnh kém nhạy cảm. Ngược lại, các nhà văn nhà thơ lớn, trước hết, phải có một bộ óc siêu việt, một năng lực tư duy khoa học mạnh mẽ. 4.3. Lợi thế của môn học Ngữ văn trong việc rèn luyện và phát triển tư duy. Với đặc trưng của mình, môn Ngữ văn có điều kiện thuận lợi để rèn luyện và phát triển tư duy một cách toàn diện cho học sinh. 5. Nguyên tắc xây dựng bản sắc cá nhân, phát triển nhân cách (cá thể) trong mối quan hệ thống nhất với cộng đồng. 5.1. Tính đa dạng và tính thống nhất của “sản phẩm” giáo dục ngữ văn. Giáo dục ngữ văn hướng đến việc hình thành và phát triển từng cá nhân với bản sắc riêng. Kết quả là, giáo dục ngữ văn tạo ra tính đa dạng của cộng đồng xã hội. Cá nhân với bản sắc riêng, duy nhất, không giống ai sẽ là một tính cách lập dị nếu không có mối liên hệ với các giá trị chung của cộng đồng xã hội. Do đó, hoạt động giáo dục ngữ văn trước hết phải xác định rõ các giá trị chung này. Các giá trị đạo đức học, mỹ học, triết học gắn liền với từng giai đoạn lịch sử xã hội cụ thể. Trên nền tảng đó, sự đa dạng mới thực sự đem lại ý nghĩa phong phú trong đời sống xã hội. 5.2. Dạy học ngữ văn hướng về tính đa dạng với các cá thể độc đáo. Dạy học ngữ văn ngày nay không nhằm tạo ra con người khuôn mẫu kiểu " người quân tử, kẻ tiểu nhân". Cuộc sống hiện đại đòi hỏi mỗi cá nhân tự nổ lực lao động, sáng tạo dựa trên kiến thức và kĩ năng sống của mình. Giáo dục ngữ văn giúp học sinh thích nghi với các điều kiện xã hội lịch sử mới nhằm xử lí các mối quan hệ giữa quyền lợi và trách nhiệm, giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, về ý nghĩa cuộc sống thật sự và mê muội chạy theo hưởng thụ vật chất,… Vì thế, dạy học ngữ văn đề cao các nhân cách cao thượng cũng như cảm thông với các số phận bị đối xử nghiệt ngã,…Từ đó, học sinh không chỉ tích lũy kiến thức mà còn tích lũy cảm xúc; không chỉ noi gương các hình tượng đẹp mà còn biết nêu gương đẹp trong mắt người khác. Rốt cuộc là, dạy học ngữ văn tạo cho bao nhiêu nhân cách học sinh là bấy nhiêu cá tính độc đáo. 5.3. Người học đòi hỏi được tôn trọng, được khuyến khích tự do suy tư, tự do biểu đạt từ những gì mình cảm thụ được qua giờ học. Vì mỗi học sinh là cá thể riêng biệt nên để hiểu được các em, giáo viên phải tôn trọng mọi sự bày tỏ ý kiến của họ. Có như vậy, dạy học ngữ văn mới thật sự là một khoa học giáo dục mang tính nhân văn. 6. Nguyên tắc khai phóng tư duy, phát huy tính tích cực, chủ động của người học Muốn phát huy tính tích cực chủ động của người học, trước hết, hoạt động tư duy của họ phải được khai mở, được tự do. Để làm được điều này, ít nhất giáo viên nên thực hiện các điều kiện sau: 6.1. Truyền đạt kiến thức mở 6.2. Tạo kênh thông tin đa chiều 6.3. Tạo điều kiện tranh luận, tranh biện
2. Dạy và học Tiếng Việt gắn với nguyên tắc tiếp cận giao tiếp. 3. Nguyên tắc tích hợp và dạy học gắn với đời sống. 4. Ưu thế của Ngữ văn học trong rèn luyện và phát triển tư duy. 5. Dạy học Ngữ văn theo lí thuyết dạy học tích cực. 6. "Sản phẩm" của dạy học ngữ văn là từng học sinh với cá tính riêng, năng lực riêng trong mối quan hệ thống nhất với cộng đồng. Vậy mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học ngữ văn nên có những yêu cầu gì? NGUYỄN ĐĂNG CHÂUvào lúc 23:48 Lí luận dạy học Ngữ văn - Bài BaMÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Mục tiêu bộ phận hướng đến các năng lực ngữ văn như: sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, có khả năng thụ hưởng nghệ thuật văn chương. - Phân môn Tiếng Việt và phân môn Làm văn trang bị cho học sinh kiến thức và kĩ năng thực hành về cấu trúc ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt, về lí thuyết kĩ năng tạo lập văn bản tiếng Việt. - Phân môn Văn học đưa học sinh vào thế giới của tác phẩm văn học; ở đó, các em được trải nghiệm cuộc sống. Từ đó, các năng lực cụ thể về tiếp nhận văn học, về sáng tác văn học dần dần được hình thành. 1.2. Mục tiêu tổng quát hướng đến góp phần hoàn thiện nhân cách học sinh. - Các mục tiêu cụ thể đó tích hợp theo hướng mục tiêu rộng lớn hơn. Đó là góp phần hoàn thiện nhân cách học sinh. - Nhân cách học sinh bao gồm các phẩm chất về tâm hồn, xúc cảm, tình cảm, về trí tuệ, đạo đức, lối sống, về ý chí, nghị lực, bản lĩnh cá nhân và trách nhiệm công dân. 2. Nhiệm vụ: 2.1. Trang bị kiến thức có hệ thống về ngôn ngữ và văn học 2.2. Rèn luyện năng lực cảm thụ văn chương và kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ 3.1. Văn học Chương trình Văn học THPT do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn được chia làm ba bộ phận chính: 1. Văn học Việt Nam: giới thiệu nền văn học Việt Nam từ thời xa xưa (văn học dân gian) cho đến hết thế kỷ XX với những thành tựu nổi bật nhất, sự phát triển về cả nội dung lẫn hình thức trong các bộ phận văn học, đồng thời tìm hiểu về những tác gia đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam. 2. Văn học nước ngoài: giới thiệu một số tác phẩm và tác giả văn học tiêu biểu của một số quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc, Anh, Pháp, Nga, Mỹ…Đây là những nền văn học lớn có ảnh hưởng không chỉ đến văn học Việt Nam mà còn cả văn học thế giới. 3. Lí luận văn học: cung cấp những kiến thức mang tính chất lý luận, tạo điều kiện thuận lợi trong việc học văn, làm văn và cảm thụ văn học cho học sinh. Lưu ý, trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay bao gồm chương trình cơ bản và chương trình nâng cao. Tuy hai chương trình này cơ bản có sự giống nhau về tác phẩm và bài học được đưa vào giảng dạy nhưng vẫn có những điểm không nhất quán như: trật tự sắp xếp các bài, các văn bản không giống nhau, khối lượng tri thức trong những bài khái quát cũng có sự khác nhau… Đặc biệt trong chương trình sách giáo khoa nâng cao, có một số bài và tác phẩm được đưa thêm vào mà chương trình cơ bản không có. A. BỘ PHẬN VĂN HỌC VIỆT NAM Việt Nam có nền văn học hình thành và phát triển khá sớm. Trải qua những biến động khắc nghiệt của lịch sử xã hội, nền văn học ấy đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt, bền bỉ và phát triển mạnh mẽ đến ngày nay với nhiều thành tựu to lớn. Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận chính: Văn học dân gian (VHDG) và Văn học viết. 1. VHDG là bộ phận văn học ra đời từ xa xưa, do người bình dân sáng tác được lưu truyền bằng hình thức tuyền miệng. Đây là bộ phận văn học mang tình tập thể và tính dị bản rất cao. VHDG bao gồm nhiều thể loại như: truyện thần thoại, sử thi, truyện cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca…Điều quan trọng hơn cả đó là: VHDG là bộ phận có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn ngôn ngữ dân tộc và nuôi dưỡng tâm hồn người Việt. Nó là chất liệu quan trọng cho việc hình thành một nền Văn học viết Việt Nam đồ sộ như ngày hôm nay về cả nội dung lẫn hình thức. 2. Văn học viết ra đời từ thế kỷ X và phát triển như một bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Cũng từ khi xuất hiện cho đến nay bộ phận Văn học viết đã thực sự đóng vai trò chủ đạo và làm nên diện mạo cho cả nền văn học Việt Nam. Khác với VHDG, Văn học viết là bộ phận văn học mang dấu ấn của tác giả, là sáng tạo của cá nhân và được ghi lại bằng chữ viết. Trong chương trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THPT có sự phân chia khác nhau giữa hai khung chương trình nâng cao và cơ bản về các bộ phận của Văn học viết thời kỳ này: - Sách giáo khoa chương trình cơ bản (SGK CTCB) chia ra hai bộ phận: + Văn học trung đại (VHTĐ) từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, + Văn học hiện đại (VHHĐ) từ đầu thế kỷ XX đến hết thế kỷ XX. - SGK chương trình nâng cao (CTNC) chia ra ba bộ phận: + Văn học chữ Hán ra đời từ thời Bắc thuộc, + Văn học chữ Nôm ra đời khoảng thế kỷ XIII, + Văn học chữ Quốc ngữ ra đời từ những năm 20 của thế kỷ XX. Tuy nhiên để tiện cho việc theo dõi chương trình theo tiến trình lịch sử của dân tộc, chúng tôi thống nhất đi theo sự phân chia của SGK CTCB, nghĩa là bộ phận Văn học chữ Hán và Văn học chữ Nôm gộp lại thành bộ phận VHTĐ và bộ phận Văn học chữ Quốc ngữ là bộ phận VHHĐ Việt Nam. Quá trình phát triển của Văn học viết Việt Nam bao gồm VHTĐ và VHHĐ gắn với ba thời kỳ lịch sử dân tộc: - Thời kỳ từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX - Thời kỳ từ đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 (CMT8) - Thời kỳ từ CMT8 1945 đến hết thế kỷ XX Trong quá trình phát triển văn học luôn luôn gắn liền với những thăng trầm của lịch sử dân tộc, chịu ảnh hưởng những trào lưu văn hóa phương Đông (cụ thể là Trung Quốc) cũng như phương Tây sau này (nhất là Pháp), để từ đó phản ánh một cách chân thực, sâu sắc đời sống tư tưởng, tình cảm của con người Việt Nam. Đồng thời qua văn học, truyền thống văn học Việt Nam cũng dần dần hình thành và khẳng định giá trị của nó. Hình ảnh con người trong văn học trở thành trung tâm. Học văn học dân tộc là để bồi dưỡng nhân cách, đạo đức, tình cảm, quan niệm thẫm mỹ và trau dồi tiếng mẹ đẻ. I. VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM VHDG là một trong hai bộ phận văn học góp phần tạo nên bộ mặt của văn học Việt Nam. Đây là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể, thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động về tự nhiên, xã hội nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho các hoạt động trong đời sống cộng đồng. 1. Đặc trưng cơ bản của VHDG: - Tính truyền miệng - Tính tập thể Đây là hai đặc trưng cơ bản chi phối, xuyên suốt quá trình sáng tạo và lưu truyền VHDG, thể hiện sự gắn bó mật thiết của VHDG với các sinh hoạt khác trong đời sống cộng đồng. Trong SGK CTNC 10 thì bên cạnh hai đặc trưng cơ bản trên, sách còn đề cập đến đặc trưng về ngôn ngữ và nghệ thuật của VHDG. Cụ thể: - Ngôn ngữ trong VHDG là ngôn ngữ nói - Nghệ thuật của VHDG chủ yếu là phương pháp phản ánh hiện thực bằng cách mô tả những sự kiện rút ra từ đời sống thực tế, bên cạnh đó còn có phương pháp phản ánh hiện thực một cách kỳ ảo, tức là mô tả những sự kiện trong trí tưởng tượng. 2. Hệ thống thể loại: VHDG có 12 thể loại gồm: thần thoại, sử thi dân gian, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười dân gian, truyện ngụ ngôn, tục ngữ, câu đố, ca dao dân ca, vè, truyện thơ dân gian và các thể loại sân khấu dân gian như chèo, tuồng đồ và một số trò diễn có tích truyện. Mỗi thể loại mang một nội dung và những giá trị to lớn về nhận thức, giáo dục, thẫm mĩ, cần được trân trọng và phát huy. Có thể nói VHDG là bộ “sách giáo khoa về cuộc sống”.
II. VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM Văn học viết Việt Nam luôn luôn gắn bó với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cùng với sự phát triển toàn diện về chính trị, tôn giáo, và các loại hình nghệ thuật khác nhau như kiến trúc, điêu khắc…bộ phận Văn học viết cũng ra đời và phát triển lớn mạnh. Trong đó, văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX tồn tại và phát triển trong xãhội phong kiến được gọi là văn học trung đại (VHTĐ). Trên hành trình 10 thế kỷ VHTĐ Việt Nam trải qua 4 giai đoạn phát triển: - Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV - Từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVII - Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX - Nửa cuối thế kỷ XIX Mỗi giai đoạn phát triển trong một bối cảnh lịch sử - xã hội khác nhau vì vậy mang những đặc điểm nội dung, nghệ thuật khác nhau. Nhưng tựu trung lại cũng bao gồm những đặc điểm cụ thể sau: 1. Về nội dung: có ba nội dung chính, trong đó chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo là hai nội dung lớn và xuyên suốt VHTĐ. - Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với tư tưởng trung quân và lòng thương xót trăm họ, về sau còn gắn với trách nhiệm của nhân dân trướcc tình cảnh đất nước. - Chủ nghĩa nhân đạo bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của dân tộc gắn liền với sự quan tâm, thương cảm với số phận con người, đề cao đạo đức, khẳng định công lý, chính nghĩa. - Cảm hứng thế sự là một nội dung biểu hiện khá rõ nét từ văn học cuối thời Trần (thế kỷ XIV), phản ánh cái nhìn của tác giả trung đại trước thực tại xã hội đó là: nhà nước phong kiến suy thoái và cuộc sống đau khổ của nhân dân. 2. Về nghệ thuật: - Tính quy phạm và sự phá vỡ quy phạm. Tính quy phạm là đặc điểm nổi bật của VHTĐ thể hiện ở: — Quan điểm văn học: thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo (thơ để nói chí, văn để tải đạo) — Tư duy nghệ thuật: theo kiểu mẫu nghệ thuật có sẵn đã thành công thức. — Thể loại văn học: với những quy định chặt chẽ về kết cấu. — Cách sử dụng thi liệu: dẫn nhiều điển tích điển cố, dùng nhiều văn liệu quen thuộc. Do tính quy phạm VHTĐ thiên về tính ước lệ, tượng trưng. Trong quá trình sáng tác, tác giả trung đại có xu hướng phá vỡ tính quy phạm, phát huy cá tính sáng tạo cả nội dung lẫn hình thức. - Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị được thể hiện: — Đề tài, chủ đề: hướng tới cái cao cả, trang trọng hơn là cái đời thường và bình dị. — Hình tượng nghệ thuật: hướng tới vẻ tao nhã, mỹ lệ hơn là vẻ đẹp mộc mạc và đơn sơ. — Ngôn ngữ nghệ thuật: Chất liệu ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mỹ hơn là thông tục, tự nhiên, gần gũi với đời sống. Trong quá trình phát triển của VHTĐ xu hướng đưa văn học từ phong cách trang trọng, tao nhã về gần với đời sống hiện thực tự nhiên và bình dị. - Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài (chủ yếu là văn học Trung Quốc). — Ngôn ngữ: dùng chữ Hán để sáng tác và trong quá trình dân tộc hóa hình thức văn học đã tạo ra chữ Nôm. — Thể loại: tiếp thu thể Cổ phong, Đường luật, Hịch, Cáo, Chiếu, Biểu, Truyện ký, Tiểu thuyết chương hồi...Đặc biệt Việt hóa thể thơ Đường luật thành thơ Nôm đường luật, thất ngôn xen lục ngôn sáng tạo các thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát, ngâm khúc, truyện thơ. — Thi liệu: sử dụng điển cố, thi liệu Hán văn, càng về sau thì sử dụng lời ăn tiếng nói, cách diễn đạt của nhân dân trong sáng tác. Một điều chúng tôi cần lưu ý ở đây trong SGK CTNC 10, việc đề cập đến đặc điểm nội dung và nghệ thuật của VHTĐ Việt Nam có sự trộn lẫn rất khó phân biệt mặc dù thực chất cũng có cùng một nội dung như nhau. Chính vì vậy, chúng tôi lấy SGK CTCB 10 để khái quát những đặc điểm chính của nội dung và nghệ thuật của bộ phận VHTĐ thời kỳ này. Tuy nhiên cũng xin nói qua bốn đặc điểm mà SGK CTNC 10 đã đề cập để chúng ta có cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn. Đó là: - VHTĐ gắn bó với vận mệnh đất nước và số phận con người. - VHTĐ luôn hấp thu mạch nguồn VHDG. - VHTĐ tiếp thu tinh hoa văn hóa Trung Hoa trên tinh thần dân tộc, tạo nên những giá trị văn học đậm đà bản sắc Việt Nam. - Trong khuôn khổ thi pháp trung đại, văn học Việt Nam luôn vận động theo hướng dân tộc hóa và hướng dân chủ hóa.
III. VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM Trong chương trình THPT văn học hiện đại Việt Nam bao gồm văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 và văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX. Hai giai đoạn này đã góp phần tạo nên một bộ phận văn học hiện đại mang nét đặc trưng của thời kì này. 1. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945. 1.1. Nội dung: Văn học Việt Nam giai đoạn này có vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình văn học dân tộc. Đây là giai đoạn nền văn học có ba đặc điểm cơ bản: đổi mới theo hướng hiện đại hóa, hình thành hai bộ phận văn học công khai và không công khai, nhịp độ phát triển hết sức nhanh chóng. Thành tựu chủ yếu của thời kì này là đã kế thừa và phát huy những truyền thống lớn nhất, sâu sắc nhất của văn học dân tộc như chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời đem đến cho văn học một đóng góp mới của thời đại là tinh thần dân chủ. 1.2 Về nghệ thuật: Văn học đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, gắn liền với sự cách tân về thể loại và ngôn ngữ. Về văn xuôi, phát triển mạnh nhất là tiểu thuyết và truyện ngắn, thành tựu nổi bật nhất là thơ ca với những tên tuổi lớn. Có được những thành tựu nói trên là do sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của dân tộc được nuôi dưỡng và phát triển trong các phong trào yêu nước, cách mạng và do sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân. 2. Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX đã phát triển qua hai giai đoạn: từ 1945-1975 và 1975 đến hết thế kỉ XX. Ở giai đoạn 1945 có ba đặc điểm cơ bản: vận động chủ yếu theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước; hướng về đại chúng; chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đặc biệt ở giai đoạn này văn học đã có những đóng góp về tư tưởng của văn học dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng truyền thống nhân đạo. Nghệ thuật, văn học phát triển cân đối, toàn diện hơn về mặt thể loại: truyện, tiểu thuyết, kí, tùy bút, thơ, truyện thơ, trường ca, kịch, lý luận phê bình. Ở giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỉ XX văn học Việt Nam bước vào thời kì đổi mới. Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, mang tính nhân văn sâu sắc; có tính chất hướng nội, quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường; cảm hứng thế sự; không gian đời tư được khai thác; có nhiều tìm tòi đối mới về nghệ thuật nhất là sự đổi mới về ý thức nghệ thuật, phong phú về thể loại (phóng sự, tiểu thuyết phóng sự, kịch bản sân khấu, truyện thơ, trường ca, nghệ thuật sân khấu, lý luận phê bình văn học). Phần văn học Việt Nam chương trình sách giáo khoa là một hệ thống các tác phẩm tiêu biểu thể hiện đặc điểm văn học giai đoạn này. Cụ thể như sau:
B. BỘ PHẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Văn học nước ngoài trong chương trình THPT có sự phân phối văn học của nhiều nước nhằm giúp học sinh có sự hiểu biết về một vài tác giả và tác phẩm văn học tiêu biểu của một số nước như Hy Lạp, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật, Mỹ. Phần văn học nước ngoài của sách giáo khoa Ngữ Văn không nhằm cung cấp tri thức có hệ thống về một nền văn học nào mà chỉ lựa chọn một lượng tri thức tối thiểu về một số tác phẩm để học sinh dễ dàng tiếp cận. Các văn bản nước ngoài được sắp xếp theo nguyên tắc tích hợp với các văn bản của văn học Việt Nam, một phần về lịch sử văn học nhưng chủ yếu về mặt thể loại. Ví dụ: sử thi Hy Lap, Ấn Độ được xếp liền theo sử thi Việt Nam, thơ Đường Trung Quốc được học liền với thơ trung đại Việt Nam, kịch Rô-mê-ô và Giu-li-et được học tiếp với bi kịch Vũ Như Tô; tiểu thuyết của Huy-gô, Ban-dắc, truyện ngắn của Sê-khôp, Lỗ Tấn được học tiếp theo tiểu thuyết truyện ngắn hiện đại Nguyễn Tuân, Thạch Lam… Nhìn chung, phần văn học nước ngoài trong chương trình THPT tạo điều kiện cho học sinh tích hợp các tri thức về lịch sử văn học, nhất là về thể loại văn học, để có thể đọc hiểu các văn bản văn học nước ngoài.
C. BỘ PHẬN LÝ LUẬN VĂN HỌC Nhìn chung, phần lý luận văn học trong chương trình này tuy số lượng không nhiều nhưng vẫn phong phú và đa dạng về khối lượng tri thức. Nó giúp học sinh nắm được một vài khái niệm về lý luận văn học, xác định các giá trị và tổng hợp tri thức một cách khái quát giúp hiểu và đánh giá tác phẩm thấu đáo.
Phần tổng thuật về phân môn Văn học trong chương trình THPT trên đây đã hệ thống toàn bộ kiến thức trong sách giáo khoa Ngữ văn của chương trình Nâng cao và Cơ bản (lớp 10, 11, 12) trên hai mặt theo tiến trình lịch sử và thể loại. 3.2. Tiếng Việt Về nội dung và chương trình phân môn Tiếng Việt ở trong nhà trường THPT, được tạo thành bởi hai hợp phần cơ bản: những tri thức cần cung cấp và các kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh. I.Các tri thức cần cung cấp bao gồm ba loại: 1. Những tri thức chung về tiếng Việt: Nguồn gốc và quá trình lịch sử của tiếng Việt, loại hình tiếng Việt, chức năng của ngôn ngữ, tính hệ thống của ngôn ngữ... Sau đây chúng ta sẽ thấy được hệ thống chương trình đó thông qua bảng liệt kê:
3. Tri thức về các phong cách ngôn ngữ, loại hình văn bản - Về các phong cách ngôn ngữ: Chương trình dề cập đến các phong cách ngôn ngữ thường dùng trong cuộc sống và văn học như:
II. Các kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh Hợp phần thứ hai là các kĩ năng cần rèn luyện cho học sinh. Đó là các kĩ năng chủ yếu sau: kĩ năng lĩnh hội ngôn bản, kĩ năng sản sinh ngôn bản thích hợp với mục đích giao tiếp và các điều kiện giao tiếp, tức nghe, đọc, nói, viết. Với hợp phần này, chương trình này giúp cho học sinh hoàn thiện các kĩ năng ngôn ngữ tiếng Việt.
2. Vai trò của kĩ năng ngôn ngữ trong học tập Ngữ văn. 3. Tổng thuật về chương trình và nội dung phân môn Văn học ở trường Trung học phổ thông 4. Tổng thuật về chương trình và nội dung phân môn Tiếng Việt ở trường Trung học phổ thông 5. Tổng thuật về chương trình và nội dung phân môn Làm văn ở trường Trung học phổ thông Được đăng bởi NGUYỄN ĐĂNG CHÂUvào lúc 23:20 Lí luận dạy học Ngữ văn - Bài BốnPHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Khái niệm: phương pháp dạy học là toàn bộ các cách thức tổ chức và thực hiện các biện pháp, thủ pháp, thao tác dạy học nhằm giúp tư duy nhận thức của người học tiếp cận được các vấn đề trong nội dung học tập và các mối liện hệ bản chất giữa chúng với nhau. 1.2. Tính đặc thù của Phương pháp dạy học Ngữ văn a. Gắn với thực tiễn, với con người. Vì nội dung dạy học là nhân học nên cách thức tổ chức dạy học phải gắn với thực tiễn đời sống, với con người. Phương pháp dạy học ngữ văn vừa dẫn dắt số đông nhưng vừa quan tâm đến từng người. Tương tác giữa người dạy-người học, người học-người học trong dạy học ngữ văn khác về bản chất so với các môn học khác. b. Giáo dục bằng thuyết phục, cảm hóa. Học sinh chấp nhận điều hay, lẽ phải không chỉ bằng suy lí, chứng minh lí lẽ mà còn được thuyết phục, cảm hóa bằng thực tế sinh động của chân lí cuộc sống. Phương pháp dạy học ngữ văn nên được vận dụng theo đặc trưng này. c. Linh hoạt, quan tâm đến đối tượng cá biệt. Nói đến phương pháp dạy học là nói đến nghệ thuật dẫn dắt, soi đường cho trí tuệ người học. Do vậy, phối hợp linh hoạt các biện pháp, thao tác dạy học cho phù hợp với từng đối tượng giảng dạy là vô cùng cần thiết. 1.3. Phương pháp luận dạy học ngữ văn và phương pháp dạy học ngữ văn chuyên biệt hóa (Văn học, tiếng Việt, Làm văn) a. Các phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học tích cực. Dựa vào một số tiêu chí như kênh giao tiếp một chiều hay đa chiều, người học thụ động hay chủ động tiếp nhận, kiến thức áp đặt hay kiến thức mở mà phương pháp cụ thể đang áp dụng được gọi là phương pháp truyền thống hay tích cực. b. Các phương pháp chung và phương pháp chuyên biệt hóa. Phương pháp chung bao gồm các phương pháp không gắn với đặc trưng của nội dung dạy học. Chẳng hạn, phương pháp thuyết giảng là phương pháp dạy học áp dụng chung cho dạy học nhiều môn học. Phương pháp chuyên biệt hóa là phương pháp dạy học gắn liền với nội dung đặc thù của môn học. Phương pháp cụ thể trong dạy văn học khác xa phương pháp dạy học tiếng Việt. 1.4. Vận dụng các phương pháp dạy học ngữ văn chuyên biệt hóa theo quan điểm tích hợp - Tích hợp dạy văn với dạy tiếng nhằm giúp học sinh cảm thụ nghệ thuật ngôn từ tốt hơn trong thức nhận văn học là một ví dụ sinh động trong việc vận dụng phương pháp chuyên biệt hóa. Một vài thao tác của phương pháp dạy tiếng xen kẽ vào tiến trình tiếp cận tác phẩm văn học không thể làm nhòa tiết dạy văn mà còn hỗ trợ cho phương pháp dạy văn hiệu quả hơn. 2. Phương tiện dạy học môn Ngữ văn 2.1. Các khái niệm: trực quan, đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học 2.2. Tác phẩm văn học, các hiện tượng ngôn ngữ, môi trường giao tiếp, các hình thức giao tiếp là phương tiện dạy học có tính trực quan. 2.3. Bảng biểu, sơ đồ, tranh ảnh, …là các đồ dùng dạy học do giáo viên tự sáng tạo 2.4. Các thiết bị nghe, nhìn như audio, video, … là phương tiện dạy học ngày càng phổ biến ------------------------------
2. Trên bình diện tâm lí học dạy học, phương pháp dạy học Ngữ văn có đặc điểm khác biệt nào (so với các môn học khác)? 3. Sử dụng phương tiện trực quan để gây hứng thú cho học sinh trong tiết Ngữ văn. LÝ LUẬN DẠY HỌC NGỮ VĂN - BÀI NĂMHÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
1.1. Chính khóa: giáo viên lên lớp, làm việc nhóm và thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, thuyết trình bài học và chủ tọa phiên thảo luận, diễn xuất theo yêu cầu bài học,… 1.2. Ngoại khóa: sáng tác, sinh hoạt câu lạc bộ, viết tiểu luận,… 2.
Chuẩn bị điều kiện cần và đủ trước khi soạn một giáo án Ngữ văn 2.2. Xác định mục tiêu bài dạy 2.3. Xem xét mối quan hệ giữa kiến thức học sinh đã học và nội dung sắp học theo tinh thần tích hợp hệ thống (dọc) 2.4. Xem xét mối quan hệ giữa kiến thức sắp học và các kiến thức các chuyên ngành khác có liên quan theo tinh thần tích hợp mở rộng
(ngang) .3.1. Tạo tâm thế tiếp nhận 3.2. Đồng bộ hóa tiến trình tiếp nhận 3.3. Hoạt động tương tác trong dạy văn học và trong dạy tiếng 3.4. Thông tin phản hồi (feedback) và điều khiển ------------------------------------- 1. Sự cần thiết và ý nghĩa của các bước lên lớp trong tiết dạy học Ngữ văn. Được đăng bởi NGUYỄN ĐĂNG CHÂUvào lúc 04:45 LÝ LUẬN DẠY HỌC NGỮ VĂN - BÀI SÁUKIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ DẠY HỌC NGỮ VĂN
1.1. Ra đề là một kĩ năng dạy học. Kĩ năng ra đề thể hiện năng lực thực sự của giáo viên. Qua đề kiểm tra, người ta có thể thấy được yêu cầu, hiệu quả dạy học mà giáo viên muốn ở học sinh. Có thể đó là một mong muốn học sinh lặp lại những gì giáo viên đã trình bày. Cũng có thể là từ các vấn đề thầy trình bày, yêu cầu học sinh tìm ra mối liên hệ bản chất giữa chúng. Cũng có thể là từ những gì đã biết, đã hiểu qua bài giảng của thầy, yêu cầu học sinh mở rộng, liên hệ với những hiểu biết khác về cuộc sống, về lĩnh vực liên quan. Các loại đề và cấu trúc từng loại tùy thuộc vào nội dung từng phân môn. 1.2. Hình thức tổ chức kiểm tra có hai hình thức: vấn đáp và viết. Hình thức viết cũng có hai hình thức là tự luận và trắc nghiệm. 2. Đổi mới quan điểm kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn học Ngữ văn. Đây là một vấn đề nổi cộm của dạy học ngữ văn. Đến nay, việc đánh giá năng lực ngữ văn chủ yếu dựa vào thức nhận nội dung văn học và ghi nhớ văn học sử. Năng lực tiếng Việt hầu như rất phụ trong biểu điểm của đáp án. 3. Tự luận và trắc nghiệm trong kiểm tra môn học Ngữ văn
2. Đề "mở" có những yêu cầu gì? 3. Thi trắc nghiệm có thích hợp với môn Ngữ văn không? Được đăng bởi NGUYỄN ĐĂNG CHÂUvào lúc 04:52 |