Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Vẽ sơ đồ tư duy bài 20 phần 1 nhỉ lịch sử lớp 7 (Lịch sử - Lớp 7)

1 trả lời

Đây là hình ảnh về người anh hùng nào (Lịch sử - Lớp 5)

2 trả lời

Trình bày kết quả trận Cầu Giấy năm 1873 (Lịch sử - Lớp 8)

1 trả lời

Thành lập chính quyền mới (Lịch sử - Lớp 7)

2 trả lời

Vì sao phong trào Tây Sơn sụp đổ (Lịch sử - Lớp 10)

2 trả lời

Nhà nước Văn Lang ra đời vào thời gian nào (Lịch sử - Lớp 6)

2 trả lời

Trang chủ

Sách ID

Khóa học miễn phí

Luyện thi ĐGNL và ĐH 2023

Đổi tên nước, cho xây một trong bốn công trình thuộc "An Nam tứ đại khí", đốt bỏ công cụ tra tấn..., ông đã được người dân mến phục.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Vua Lý Thánh Tông chính là người cho đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, sinh ngày 25/2 năm Quý Hợi 1023, là con trưởng của vua Lý Thái Tông, lên ngôi năm 1054, sau khi vua Lý Thái Tông mất.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Sách Giản yếu sử Việt Nam có viết Lý Thánh Tông nổi tiếng thông minh, văn hay võ đều giỏi, giàu ý chí tự cường. Năm 1054, ngay sau khi lên ngôi, ông cho đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, nuôi hoài bão xây dựng đất nước thành một quốc gia văn minh hùng mạnh.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Quốc hiệu Đại Việt tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), kéo dài từ năm 1054 đến năm 1804, trải qua các triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 723 năm.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Trong 18 năm trị vì (từ năm 1054 - đến năm 1072), Lý Thánh Tông quan tâm đời sống mọi mặt của nhân dân nên được trăm họ mến phục.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Năm Bính Thân (1056), nhà vua cho xây dựng ngôi chùa trên bờ hồ Lục Thủy ở phía Đông thành Thăng Long. Chùa được đặt tên là Sùng Khánh Báo Thiên. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Làm chùa Sùng Khánh Báo Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua thân làm bài văn minh (văn khắc chuông)". Đến năm Đinh Dậu (1057), mùa xuân, tháng giêng, vua Lý Thánh Tông cho xây dựng bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài chục trượng, 12 tầng. Vì tháp nằm trong khuôn viên của chùa Sùng Khánh Báo Thiên nên về sau người ta thường gọi là tháp Báo Thiên. Tháp Báo Thiên cùng với chuông Quy Điền trong chùa Diên Hựu, vạc Phổ Minh ở chùa Phổ Minh (Nam Định) và tượng ở chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) được xem là bốn công trình lớn của nước Nam “An Nam tứ đại khí” thời bấy giờ. Sau nhiều thăng trầm lịch sử, tháp Báo Thiên và chùa Sùng Khánh Báo Thiên đã không còn tồn tại. Nhà thờ lớn Hà Nội hiện nay là nền chùa Sùng Khánh và phố Nhà Thờ là nền Tháp Báo Thiên nổi tiếng thời Lý này.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Để khuyến khích việc học hành, mở mang dân trí, vua Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu ở phía Nam kinh thành Thăng Long vào năm Canh Tuất (1070). Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 8 làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến đây học”. Tuy nhiên, vua chỉ cho dựng Văn Miếu. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông mới cho dựng nhà Quốc Tử Giám.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Giản yếu sử Việt Nam ghi do quân Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu, năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh cùng Lý Thường Kiệt đem quân thảo phạt, triệt phá kinh đô Trà Bàn bắt sống vua Chiêm Thành là Chế Củ. Sách Lịch sử Việt Nam ghi từ mùa hè năm 1068, vua Lý Thánh Tông đã cho sửa chữa và đóng thêm thuyền chiến. Vào đầu năm 1069, ngày 24/2, cuộc thân chinh bắt đầu, việc nước được trao cho Thái sư Lý Đạo Thành và Nguyên phi Ỷ Lan. Lý Thường Kiệt cùng vua giao chiến kịch liệt gần 4 tháng trên đất Chiêm và giành thắng lợi. Vua Chiêm phải mang 50.000 quân ra hàng quân Lý ở gần biên giới Chân Lạp. Sách Việt sử lược chép: "Mùa hạ, tháng 4, Nguyên soái Nguyễn (Lý) Thường Kiệt bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp". Tháng 7 năm đó, vua Lý đem quân về đến Thăng Long và dâng tù ở Thái miếu. Nhưng để được toàn mạng trở về nước, vua Chiêm Chế Củ xin dâng ba châu là châu Địa Lý, châu Ma Linh, châu Bố Chính (tỉnh Quảng Bình và phần phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay) để chuộc mạng. Vua Lý Thánh Tông bằng lòng, tha cho Chế Củ về nước. Sau chiến thắng này, thân thế của Đại Việt trở nên rất lớn. Nước Tống cũng phải kiêng nể. Còn Chiêm Thành thì hoàn toàn kính sợ và thần phục. Đến năm Tân Hợi (1071), Chiêm Thành đã phải cho sứ sang cống Đại Việt.

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Trong suốt thời gian trị vì, vua Lý Thánh Tông đổi niên hiệu 4 lần: - Lần 1: Đổi Long Thụy Thái Bình thành Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065). - Lần 2: Đổi thành Long Chương Thiên Tự (1066-1067). - Lần 3: Đổi thành Thiên Huống Bảo Tượng (1068). - Lần 4: Đổi thành Thần Vũ (1069-1072). Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên sau 17 năm trị vì. Hoàng Thái tử Lý Càn Đức, con của vua và Nguyên phi Ỷ Lan lên ngôi trước linh cữu vua.

Kim Dung (Theo Ngày Nay)

Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.

Các câu hỏi tương tự

Lý Thánh Tông (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị vì từ tháng 11 năm 1054 đến khi qua đời năm 1072. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, Lý Thánh Tông đã đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, khoan giảm hình phạt, đồng thời bảo trợ Phật giáo và Nho giáo. Ông còn xây dựng quân đội Đại Việt hùng mạnh, thực hiện chính sách đối ngoại cứng rắn với Đại Tống và mở đất về ba châu Địa Lý, Mã Linh, Bố Chính (nay là một phần thuộc Quảng Bình và Quảng Trị, Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau thắng lợi trong cuộc chiến tranh Việt - Chiêm (1069). Sử thần đời Hậu Lê Ngô Sĩ Liên viết về Lý Thánh Tông: "Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc vua tốt".[3]

Lý Thánh Tông
李聖宗
Hoàng đế Đại Việt (Việt Nam)

Tượng Lý Thánh Tông tại Văn Miếu Quốc Tử Giám

Hoàng đế Đại Việt
Trị vì3 tháng 11 năm 1054 – 1 tháng 2 năm 1072
17năm, 90ngày

Lý Thánh Tông đặt tên nước là gì

Tiền nhiệmLý Thái Tông
Kế nhiệmLý Nhân Tông
Thông tin chung
Sinh30 tháng 3 năm 1023
Mất1 tháng 2, 1072(1072-02-01) (48tuổi)
An tángThọ Lăng
Thê thiếp
  • Thượng Dương Hoàng hậu
  • Nguyên phi Ỷ Lan
Hậu duệ
Tên thật
Lý Nhật Tôn (李日尊)
Niên hiệu
Long Thụy Thái Bình (龍瑞太平):1054-1058
Thiên Thánh Gia Khánh (彰聖嘉慶):1059-1065
Long Chương Thiên Tự (龍彰天嗣):1066-1068
Thiên Thống Bảo Tượng (天貺寶象):1068-1069
Thần Vũ (神武):1069-1072
Thụy hiệu
Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Trường Minh Văn Duệ Võ Hiếu Đứng Thánh Thần Hoàng đế
(應天崇仁至道威慶龍祥明文睿武孝德聖神皇帝)
Miếu hiệu
Thánh Tông (聖宗)
Triều đạiNhà Lý
Thân phụLý Thái Tông
Thân mẫuKim Thiên hoàng hậu
Tôn giáoPhật giáo

Thời đại của cha ông là Lý Thái Tông, ông và con ông là Lý Nhân Tông được xem là thời thịnh vượng của Nhà Lý với tên gọi là Bách niên Thịnh thế (百年盛世).

Mục lục

  • 1 Thân thế
  • 2 Cai trị
    • 2.1 Đối nội
    • 2.2 Đối ngoại
      • 2.2.1 Với Nhà Tống
      • 2.2.2 Với Chiêm Thành
  • 3 Qua đời
  • 4 Nhận định
  • 5 Lưu danh
  • 6 Gia quyến
  • 7 Xem thêm
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo

Thân thếSửa đổi

Ông tên thật là Lý Nhật Tôn (李日尊), là con trưởng của Lý Thái Tông và Linh Cảm Hoàng hậu họ Mai. Ông sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi niên hiệu Thuận Thiên thứ 14 (tức ngày 30 tháng 3 năm 1023) tại cung Long Đức vào cuối thời Lý Thái Tổ.[4][3] Tháng 5 âm lịch năm 1028, ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông sách phong Lý Nhật Tôn làm Thái tử.[3][5]

Theo sách Đại Việt sử lược, Thái tử Nhật Tôn sớm trở nên "tinh thông kinh truyện, hiểu âm luật, lại càng giỏi về võ lược".[4] Tháng 8 âm lịch năm 1033, Lý Thái Tông phong ông tước Khai Hoàng vương (開皇王) và dựng cung Long Đức làm nơi ở cho ông. Ông đã sớm được tiếp xúc với dân chúng, nên hiểu được nỗi khổ của dân và thông thạo nhiều việc.[6]

Tháng 2 âm lịch năm 1037, ông được Thái Tông phong làm Đại Nguyên soái, cùng cha đi dẹp quân nổi dậy ở Lâm Tây (Lai Châu) và giành được chiến thắng.[7]

Tháng 2 âm lịch năm 1039, Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Nùng Tồn Phúc ở mạn tây bắc. Thái tử Nhật Tôn mới 17 tuổi được cử làm Giám quốc, coi sóc kinh thành và việc triều chính.[7]

Ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1040, ông lại được Lý Thái Tông giao quyền xét xử các vụ kiện tụng trong nước, lập cơ quan ở điện Quảng Vũ. Sử thần đời Lê sơ Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư chỉ trích quyết định này của Thái Tông:[8]

Chức việc của thái tử, ngoài việc thăm hỏi hầu cơm vua ra, khi ở lại giữ nước thì gọi là Giám quốc, khi đem quân đi thì gọi là Phủ quân, có thế mà thôi, chưa nghe thấy sai xử kiện bao giờ. Phàm xử kiện là việc của Hữu ty. Thái Tông sai Khai Hoàng vương làm việc đó không phải là chức phận của thái tử, lại lấy điện Quảng Vũ làm nơi Vương xử kiện là không đúng chỗ.

Mùa đông năm 1042, cư dân châu Văn (nay thuộc Lạng Sơn) làm binh biến.[9] Ngày 1 tháng 10 âm lịch năm đó, Thái Tông phong Nhật Tôn làm Đô thống Đại Nguyên soái, chỉ huy quân đội đi trấn áp. Đến ngày 1 tháng 3 âm lịch năm 1043, ông lại được cử làm Đô thống Đại Nguyên soái đi dẹp loạn ở châu Ái (nay thuộc Thanh Hóa).[9][10] Đại Việt sử lược chép rằng: "Thánh Tông... đánh dẹp giặc giã, tới đâu cũng đều đánh thắng được cả".[4]

Cuối năm 1043, Lý Thái Tông thấy Chiêm Thành đã 16 năm không chịu sang cống, bèn quyết ý chinh phạt phương Nam. Mùa xuân năm 1044, Thái Tông tự làm tướng đi đánh Chiêm Thành, giao cho Thái tử Nhật Tôn làm Lưu thủ kinh sư. Trên mặt trận, quân Việt thắng to ở sông Ngũ Bồ, giết chết chúa Chiêm là Sạ Đẩu, chiếm quốc đô Phật Thệ trong một thời gian rồi về nước [9][11]

Cai trịSửa đổi

Tháng 7 âm lịch năm 1054, thấy mình già yếu, Thái Tông cho phép Thái tử Nhật Tôn ra coi chầu nghe chính sự.[12][13] Đến ngày 1 tháng 10 âm lịch (3 tháng 11 dương lịch) năm 1054, Lý Thái Tông qua đời.[12] Lý Nhật Tôn lên nối ngôi, tức Hoàng đế Lý Thánh Tông, lấy niên hiệu đầu là Long Thụy Thái Bình. Ông lập 8 hoàng hậu, và tôn mẹ là Mai thị làm Linh Cảm Thái hậu.[4]

Trong thời gian cầm quyền, Lý Thánh Tông tự xưng là "vạn thặng"[14] và đặt 5 niên hiệu:

  • Long Thụy Thái Bình (龍瑞太平 1054 – 1058)
  • Chương Thánh Gia Khánh (彰聖嘉慶 1059 – 1065)
  • Long Chương Thiên Tự (龍彰天嗣 1066 – 1067)
  • Thiên Huống Bảo Tượng (天貺寶象 1068 – 1069)
  • Thần Vũ (神武 1069 – 1072)

Đối nộiSửa đổi

Ngay sau khi lên ngôi, năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi tên nước từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.[15] Quốc hiệu này kéo dài 346 năm cho tới khi nhà Hồ đổi thành Đại Ngu (1400)[16], sau đó được nhà Lê khôi phục năm 1428[17], và tồn tại đến đầu thời nhà Nguyễn.[18]

Lý Thánh Tông được sử cũ mô tả là một hoàng đế nhân đức.[19][6] Đại Việt sử lược ghi lại, trong mùa đông năm 1055, Thánh Tông từng nói với các quan hầu cận: "Ta ở trong cung sâu, sưởi là than, mặc áo hồ cừu mà còn lạnh như thế này, huống chi những kẻ ở trong tù, khốn khổ vì trói buộc, phải trái chưa phân minh mà quần áo không đủ, thân thể không có gì che, nên mỗi khi bị cơn gió lạnh khắc nghiệt thì há không chết được người vô tội hay sao! Ta vô cùng thương xót". Tiếp đó, ông sai quan Hữu ty cấp mền, chiếu trong kho cho tù nhân và yêu cầu cung cấp cho người tù hai bữa ăn đầy đủ mỗi ngày. Cùng năm đó, Thánh Tông truyền lệnh giảm một nửa tô thuế cho dân cả nước.[20]

Lý Thánh Tông còn chủ trương giảm các hình phạt trong nước. Theo Đại Việt sử lược, một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi lên ngôi là sai đốt các công cụ tra tấn.[4] Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép, vào tháng 6 âm lịch năm 1065, khi đang ngự ở điện Thiên Khánh để xét án, nhà vua chỉ vào Động Thiên công chúa đứng cạnh ông và tuyên bố: "Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi".[1] Đến năm 1070, ông cho phép những người chịu hình phạt đánh roi (trượng hình) được nộp tiền để giảm tội.[21] Ngoài ra, vào năm 1067, nhà vua đã định ra chế độ lương bổng hàng năm cho quan Đô hộ phủ Sĩ sư (người đứng đầu cơ quan tư pháp cả nước) và các cai ngục: theo đó, hai Đô hộ phủ Sĩ sư Ngụy Trọng Hòa, Đặng Thể Tư mỗi người hưởng 50 quan tiền, 200 bó lúa và các loại cá muối; ngục lại mỗi người nhận 20 quan tiền và 100 bó lúa.[22][1] Chính sách này giúp nâng cao tinh thần thanh liêm của các quan hình án.[19]

Tiếp nối hai vua trước, Lý Thánh Tông rất chú trọng sản xuất nông nghiệp.[3] Tháng 10 âm lịch năm 1056, nhà vua ban bố Chiếu khuyến nông.[23] Ông cũng đi đến nhiều nơi để xem nông dân gặt lúa.[22] Khi sản xuất gặp khó khăn (như vào tháng 4 âm lịch năm 1070), nhà vua đem tiền, thóc và lụa trong kho phát cho dân nghèo.[19]

Tháng 8 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông bắt đầu áp dụng kiểu mẫu triều phục cho bá quan.[24] Tại điện Thủy Tinh, ông đã ban phát mũ cánh chuồn (hay mũ phốc đầu) và hia cho quan viên; từ đây có lệ quan lại vào chầu phải đội mũ cánh chuồn và mang hia.[1][25]

Về quân sự, Lý Thánh Tông chia quân chính quy làm 8 hiệu quân, đặt tên là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn Tiệp. Mỗi hiệu quân có 4 bộ gồm Tả, Hữu, Tiền và Hậu, hợp lại là 100 đội có kỵ binh, cung thủ và lính bắn đá. Còn phiên binh (quân các vùng sâu xa) thì được phiên chế thành các đội riêng.[26][25][27] Mô hình quân đội của Lý Thánh Tông đã đạt được trình độ cao đến mức một võ quan Đại Tống là Thái Diên Khánh phải áp dụng, và được Tống Thần Tông khen ngợi.[25][26]

Lý Thánh Tông còn là một tín đồ Phật giáo mộ đạo. Ông đã cho xây rất nhiều chùa tháp, trong đó có chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ - nơi hoàng gia nhà Trần sau này thường lễ Phật. Ông còn dựng các tượng Đế Thích, Phạm Thiên bằng vàng và đúc chuông đồng lớn. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Súng Khánh, nhà vua sai dựng Bảo tháp Đại Thắng Tư Thiên (gọi tắt là Tháp Báo Thiên) vào năm 1056.[3] Ngôi tháp này có 12 tầng và cao 20 trượng (chừng 70m). Đây được xem là một trong An Nam tứ đại khí, tức 4 kỳ quan của Đại Việt thời Lý-Trần.[28] Lý Thánh Tông còn là một thiền sư - cư sĩ, được coi là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Thảo Đường – một trong ba dòng thiền chính tại Đại Việt thời đó.[29] Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong sách Lý Thường Kiệt: lịch-sử ngoại-giao triều Lý, các biểu hiện thương dân của Thánh Tông xuất phát từ sự thấm nhuần tinh thần từ bi của Phật pháp, chứ không phải từ động cơ tuyên truyền chính trị.[30] Bên cạnh đó, ông rất chú trọng mở mang Nho học. Mùa thu năm 1070, nhà vua đã xây dựng Văn miếu và tạc tượng thờ Chu Công, Khổng Tử cùng 4 học trò xuất sắc. Ông cũng cho vẽ tranh thờ 72 môn sinh của Khổng Tử và sai tế lễ bốn mùa.[19]

Dưới thời Lý Thánh Tông, xã hội Đại Việt tương đối ổn định.[26] Bên cạnh đó, một số cuộc binh biến đã xảy ra tại động Sa Đãng (1061), năm huyện Ái Châu và Giang Long (1061), động Sa Ma - nay thuộc Hòa Bình (tháng 10 âm lịch năm 1064) và châu Mang Quán - Lạng Sơn (tháng 7 âm lịch năm 1065). Lý Thánh Tông đã tự mình cầm quân đánh bại các cuộc nổi dậy này.[31] Lý Thánh Tông có người vợ thứ là Nguyên phi Ỷ Lan cũng nổi tiếng có tài trị nước. Nhà vua muộn con, không có thái tử giám quốc như các đời trước khi đi chinh chiến nhưng việc chính sự được yên ổn nhờ tay Nguyên phi Ỷ Lan.

Đối ngoạiSửa đổi

Với Nhà TốngSửa đổi

Sau các cuộc quấy phá của Nùng Trí Cao vào Trung Hoa, quan hệ Đại Tống – Đại Việt trở nên căng thẳng. Tri châu Ung là Tiêu Chú đã thuyết phục hoàng đế Tống chuẩn bị tấn công Đại Việt. Lý Thánh Tông đã nắm được tình hình này, và thoạt tiên ông chọn cách ứng xử mềm dẻo.[32] Tháng 4 âm lịch[23] năm 1057, ông sai Mai Nguyên Thanh mang thú lạ sang dâng cống cho nhà Tống, và bảo rằng đây là "kỳ lân". Nghe lời khuyên của Tư Mã Quang, Hoàng đế Tống Nhân Tông từ chối không nhận. Sau đó Tiêu Chú lại cho quân khiêu khích dọc theo biên giới.[32]

Tháng 3 âm lịch năm 1059, Lý Thánh Tông sai quân tướng từ miền đông bắc đánh phá đất Tống.[32] Về sự kiện này, Toàn thư chỉ chép quan quân "đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc".[1] Nhưng học giả Hoàng Xuân Hãn viện dẫn các sách sử của Tống cho biết quân Đại Việt đã chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan Tống là Lý Duy Tân, đồng thời bắt giữ nhiều quân, dân và vật nuôi. Tống Nhân Tông và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi Thánh Tông mới rút quân về.[1][32]

Cũng vào năm 1059, một số quân, dân Đại Việt đã lánh sang châu Tây Bình của Tống. Họ được chỉ huy quân sự Tây Bình là Vi Huệ Chính bao che. Thánh Tông sai Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái mang quân sang bắt lại. Từ động Giáp (Đại Việt), Thân Thiệu Thái tiến quân vào huyện Như Ngao (Tây Bình) và giao chiến với quân Tống do Tống Sĩ Nghiêu chỉ huy. Sau trận đánh này, Thân Thiệu Thái rút quân về nước; Tống Sĩ Nghiêu phản công đánh vào động Giáp nhưng bị quân Đại Việt đập tan.[32] Đến năm 1060, Thánh Tông lại sai Thân Thiệu Thái tấn công đất Tống, giết chết Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ. Quân Tống ở Tây Bình chống cự không nổi. Từ châu Tây Bình, quân Đại Việt tiến tới châu Ung và tấn công trại Vĩnh Bình. Quân Tống lại thua; quân Đại Việt bắt được Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân dân. Vua Tống sai Thị lang Bộ lại Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản kích nhưng không thành công.[1][32]

Sau các trận đánh trên biên giới, nhà Tống sa thải các quan lại hiếu chiến như Tiêu Cố, Tiêu Chú, đồng thời cử Dư Tĩnh sang điều đình với Đại Việt. Lý Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hòa đàm, đối đãi với Dư Tĩnh rất hậu nhưng cương quyết không trả Dương Bảo Tài và quân dân bị bắt.[24][1][32]

Với Chiêm ThànhSửa đổi

Sau khi bị Lý Thái Tông đánh bại trong chiến dịch Nam chinh năm 1044, nước Chiêm Thành một mặt cống nạp lễ vật, thú lạ cho nhà Lý, nhưng mặt khác họ ngấm ngầm thao luyện binh sĩ và thắt chặt quan hệ với nhà Tống, chờ thời cơ báo thù Đại Việt. Năm 1065, vua Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đình chỉ việc cống nạp cho nhà Lý, sau đó năm 1068 quân Chiêm kéo sang quấy nhiễu biên giới.[33][34][26] Tháng 2 âm lịch năm 1069, Lý Thánh Tông quyết định mở chiến dịch đánh Chiêm. Ông thân chinh cầm quân tấn công, đánh tan quân Chiêm Thành và bắt được Chế Củ.[35]

Về cuộc chiến năm 1069, Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi nhận:[35]

Mùa xuân, tháng 2, vua thân đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua nước ấy là Chế Củ và dân chúng 5 vạn người. Trận này vua đánh Chiêm Thành mãi không được, đem quân về đến châu Cư Liên, nghe tin Nguyên phi giúp việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa hợp. Trong cõi vững vàng, tôn sùng Phật giáo, dân gọi là bà Quan Âm, vua nói: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao?". Bèn quay lại đánh nữa, thắng được.Mùa hạ, tháng 6 đem quân về. Mùa thu, tháng 7, vua từ Chiêm Thành về đến nơi, dâng tù ở Thái Miếu, đổi niên hiệu là Thần Vũ năm thứ 1.

Sách Đại Việt sử lược không nhắc đến thành tích của Nguyên phi Ỷ Lan, nhưng mô tả chi tiết hơn về những chặn đường chinh phạt của Lý Thánh Tông với những chiến thắng ở cửa biển Nhật Lệ, sông Tu Mao và chiếm đóng quốc đô Phật Thệ:[36]

Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tuất vua xuống chiếu thân chinh đến nước Chiêm Thành. Ngày Đinh Vị [Mùi] vua thề ở nơi Long Trì... Ngày Ất Sửu sai bọn Hoàng Tiệp trong hàng Đại Liêu Ban đánh cửa biển Nhật Lệ thắng lợi... Ngày Bính Tý đóng quân ở Thị Lợi Bì Nại, có cái hiện tượng là hai con chim đều bay theo thuyền vua như thể dẫn đường vậy. Đại quân tiến lên trước đóng ở bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông. Quan quân xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm Thành là Đệ Củ nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẫn trốn. Đêm ấy, quan quân kéo rốc vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng.Mùa hạ, tháng 4 Nguyên soái Nguyễn Thường Kiệt [tức Lý Thường Kiệt] bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp. Mùa hạ, tháng 5 vua ngự tiệc cùng quần thần ở ngôi điện của vua Chiêm Thành, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy,...

Sau chiến thắng, Lý Thường Kiệt giải Chế Củ đem về Thăng Long, được Lý Thánh Tông phong làm Thiên tử nghĩa nam vì công lao này.[34][35] Vua Chiêm xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông lấy 3 châu ấy và tha cho Chế Củ về nước.[35][37][38] Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hòa, Lệ Thủy (tỉnh Quảng Bình) và huyện Bến Hải (tỉnh Quảng Trị). Trong số tù binh Chiêm Thành bị bắt về Đại Việt có một thiền sư người Tống là Thảo Đường, sau này là Quốc sư của triều đình Lý Thánh Tông và là Tổ khai sáng Thiền phái Thảo Đường - một trong 3 thiền phái của Phật giáo Đại Việt thời Lý.[39][40]

Thắng lợi của Lý Thánh Tông tại Chiêm Thành đã làm cho các lân bang phải kiêng dè Đại Việt. Cuối năm 1069, Hoàng đế Thánh Tông cử Quách Sĩ An làm Chánh sứ, Đào Tông Nguyên làm Phó sứ sang báo cho người Tống về việc đánh bại Chiêm Thành, bắt sống vua Chiêm. Tống Thần Tông trong bụng không thích, song đành thừa nhận Chiêm Thành là chư hầu của Đại Việt. Chính quyền Tống cũng nghiêm cấm các tướng ở biên giới khiêu khích, gây hấn với Đại Việt. Còn ở phía Nam, Chân Lạp và Chiêm Thành lần lượt sai sứ sang dâng lễ cống vào các năm 1069, 1071.[36][34]

Qua đờiSửa đổi

Ngày Canh Dần tháng 1 năm Nhâm Tý (tức ngày 1 tháng 2 năm 1072), vua Lý Nhật Tôn qua đời ở điện Hội Tiên[36], trị vì được 17 năm, hưởng thọ 49 tuổi. Triều đình dâng miếu hiệu là Thánh Tông (聖宗), thụy hiệu là Ứng Thiên Sùng Nhân Chí Đạo Uy Khánh Long Tường Minh Văn Duệ Vũ Hiếu Đức Thánh Thần Hoàng đế (應天崇仁至道威慶龍祥明文睿武孝德聖神皇帝) và an táng ở Thọ Lăng (phủ Thiên Đức).[36][41]

Thái tử Lý Càn Đức lên ngôi trước linh cữu Thánh Tông, tức Lý Nhân Tông. Nhà vua mới 7 tuổi nên chỉ định mẹ đích là Thượng Dương Thái hậu, mẹ đẻ là Ỷ Lan Nguyên phi cùng Thái sư Lý Đạo Thành trông coi chính sự.[42]

Nhận địnhSửa đổi

Sử thần thời Lê sơ Ngô Sĩ Liên, trong bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư do ông soạn năm 1479, có bình luận:[42]

Sử thần Lê Tung đời Lê Tương Dực, tác giả bộ Đại Việt thông giám tổng luận (1514), cũng đánh giá Lý Thánh Tông:[43]

Lưu danhSửa đổi

Tháng 12-2020, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội quyết định gắn biển "Đường Lý Thánh Tông" cho một con đường ở Huyện Gia Lâm.[44]

Gia quyếnSửa đổi

  • Cha: Lý Thái Tông (Lý Phật Mã).
  • Mẹ: Kim Thiên Hoàng Thái Hậu (Mai thị).
Hậu Phi
STT Danh hiệu Tên Sinh mất Cha Ghi chú
1 Thượng Dương Hoàng Hậu

(上陽皇后)

Dương Thị

(楊氏)

?-1073 Bà là chính thất của Lý Thánh Tông và là mẹ đích (không phải mẹ đẻ) của Lý Nhân Tông.

Theo dã sử và một số nguồn thư tịch dân gian, Hoàng hậu Thượng Dương sinh hạ được hai công chúa là Từ Thục, Từ Huy. Sau này, hai công chúa xuất gia.

2 Nguyên Phi Ỷ Lan

(元妃倚蘭)

Lê Thị

(黎氏)

1044-1117 Sau khi nhập cung bà được vua Lý Thánh Tông ban tên Ỷ Lan (倚蘭)

Bà còn được gọi là Linh Nhân Hoàng thái hậu.

Bà là thân mẫu của vua Lý Nhân Tông.

3 Thứ phi Dương thị ?-? Không rõ Không rõ nhập cung khi nào nhưng có con gái là Công Chúa Thiên Thánh.
4 Còn 8 hoàng hậu và một số phi tần khác
Hoàng Tử
STT Danh hiệu Tên Sinh mất Mẹ Ghi chú
1 Lý Nhân Tông

(李仁宗)

Lý Càn Đức

(李乾德)

1066-1127 Nguyên Phi Ỷ Lan

(元妃倚蘭)

Kế vị Lý Thánh Tông trở thành hoàng đế thứ 4 của triều Lý.
2 Minh Nhân vương

(明仁王)

Lý Càn Quyết 1068-? Nguyên Phi Ỷ Lan

(元妃倚蘭)

Em trai ruột của Lý Nhân Tông.[1]
3 Sùng Hiền Hầu

(崇贤侯)

1069-1130 Không rõ Phụ thân của Lý Thần Tông
Công Chúa
STT Danh hiệu Tên Sinh mất Ghi chú
1 Công chúa Động Thiên

(洞天公主)

Lý Thị

(李氏)

?-?
2 Công chúa Thiên Thánh

(天圣公主)

Lý Thị

(李氏)

?-? Con gái của Thứ phi Dương thị.
3 Công chúa Bình Dương

(平阳公主)

Lý Thị

(李氏)

?-?
4 Công chúa Ngọc Kiều Lý Ngọc Kiều

(李玉嬌)

1042-1113 Bà là con gái lớn của Phụng Càn vương Lý Nhật Trung là em trai của Lý Thánh Tông.

Được vua Lý Thánh Tông nhận làm con nuôi

5 Công chúa Từ Thục Lý Thị

(李氏)

?-? Theo dã sử là con gái của Thượng Dương Hoàng Hậu.
6 Công Chúa Từ Huy Lý thị

(李氏)

?-? Theo dã sử là con gái của Thượng Dương Hoàng Hậu.

Xem thêmSửa đổi

  • Nhà Lý
  • Lý Thái Tông
  • Ỷ Lan
  • Chiêm Thành
  • Linh Lang

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ a b c d e f g h i j Ngô Sĩ Liên 1993, tr.106-107.
  2. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr.117.
  3. ^ a b c d e Ngô Sĩ Liên 1993, tr.105.
  4. ^ a b c d e Khuyết danh 1993, tr.46.
  5. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.116.
  6. ^ a b Ngô Thì Sĩ 1991, tr.50.
  7. ^ a b Ngô Sĩ Liên 1993, tr.95-96.
  8. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr.97.
  9. ^ a b c Khuyết danh 1993, tr.43.
  10. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr.98-99.
  11. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.127.
  12. ^ a b Ngô Sĩ Liên 1993, tr.104.
  13. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.132.
  14. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr.93.
  15. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.133.
  16. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.324.
  17. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.393.
  18. ^ Trần Trọng Kim 1971, tr.252.
  19. ^ a b c d Ngô Sĩ Liên 1993, tr.108.
  20. ^ Khuyết danh 1993, tr.56.
  21. ^ Khuyết danh 1993, tr.52.
  22. ^ a b Khuyết danh 1993, tr.50.
  23. ^ a b Khuyết danh 1993, tr.47.
  24. ^ a b Khuyết danh 1993, tr.48.
  25. ^ a b c Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.134.
  26. ^ a b c d Trần Trọng Kim 1971, tr.41.
  27. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.201.
  28. ^ Vân Nhi. “Số phận hẩm hiu của 'An Nam tứ đại khí'” (bằng tiếng Việt). Giác Ngộ Online. Truy cập 7 tháng 1 năm 2017.
  29. ^ Thích Phước Đạt. “Tinh thần An cư trong Phật giáo thời nhà Trần” (bằng tiếng Việt). Giác Ngộ Online. Truy cập 7 tháng 1 năm 2017.
  30. ^ Hoàng Xuân Hãn 1949, chương XIV: "Đạo Phật thời Lý"
  31. ^ Khuyết danh 1993, tr.49.
  32. ^ a b c d e f g Hoàng Xuân Hãn 1949, chương V: "Bang giao Lý - Tống"
  33. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.137-138.
  34. ^ a b c Hoàng Xuân Hãn 1949, chương II: "Đánh Chiêm Thành"
  35. ^ a b c d Ngô Sĩ Liên 1993, tr.107-108.
  36. ^ a b c d Khuyết danh 1993, tr.51-52.
  37. ^ Lê Quý Đôn 1959, tr.7.
  38. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn 1998, tr.137.
  39. ^ Lê Tắc 1961, tr.123.
  40. ^ Phuong & Lockhart 2011, tr.270.
  41. ^ Ngô Sĩ Liên 1993, tr.108-109..
  42. ^ a b Ngô Sĩ Liên 1993, tr.108-109.
  43. ^ Lê Tung. Việt giám thông khảo tổng luận (bằng tiếng Việt). Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm. tr.10b-11a.
  44. ^ Hà Nội đặt tên 27 đường, phố mới

Tham khảoSửa đổi

  • Lê Quý Đôn (1959). Phủ biên tạp lục (bằng tiếng Việt). Khoa Xã hội - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
  • Lê Tắc (1961). An Nam chí lược (bằng tiếng Việt). Viện Đại học Huế.
  • Khuyết danh (1993). Đại Việt sử lược (bằng tiếng Việt). Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Ngô Sĩ Liên (1993). Đại Việt sử ký toàn thư (bằng tiếng Việt). Nội các quan bản. Hà Nội: Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội.
  • Ngô Thì Sĩ (1991). Việt sử tiêu án (bằng tiếng Việt). Nhà Xuất bản Văn Sử.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Hà Nội: Nhà Xuất bản Giáo dục.
  • Trần Trọng Kim (1971), Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu Xuất bản thuộc Bộ Giáo dục.
  • Hoàng Xuân Hãn (1949), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao triều Lý, truy cập 7 tháng 1 năm 2017
  • Phuong, Tran Ky; Lockhart, Bruce (2011), The Cham of Vietnam: History, Society and Art, NUS Press, ISBN997169459X