Kiến ngãi bất vi nghĩa là gì

Lục Vân Tiên là con người chính nghĩa, trước cảnh bất bình mà không ngại xông pha trận mạc để giải cứu người dân lương thiện. Sau khi cứu Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã thể hiện quan niệm sống của mình qua câu nói ” Nhớ câu kiến ngã bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Em hãy bình luận ý thơ sau Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Dàn ý chi tiết cho đề bình luận câu nói: Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

1. Mở bài

 Giới thiệu và khẳng định giá trị của câu nói: Truyện “Lục Vân Tiên” đã sống cùng nền văn học Việt Nam và độc giả trong suốt hơn một trăm năm qua. Truyện gây ấn tượng sâu sắc không chỉ bởi những tình tiết hấp dẫn, mà còn vì trong truyện có những nhân vật luôn sống và hành động theo một phương châm cao quý

2. Thân bài

  • Giải thích câu nói: có nghĩa là ta có thể làm việc thiện nghĩa ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước bất kì khó khăn nào, không màng đến lợi ích hay sự thiệt thòi của bản thân, không ngại hiểm nguy, càng không mong được ca tụng và đền đáp
  • Dẫn chứng trong tác phẩm Lục Vân Tiên: Lục Vân Tiên chỉ kịp bẻ một cành cây bên đường làm vũ khí để “tả đột hữu xung” trước bọn cướp hung hăng và tàn bạo. Khi đã đánh tan bọn cướp, chàng từ chối việc trả ơn và cả thái độ biết ơn của Kiều Nguyệt Nga
  • Dẫn chứng trong lịch sử dân tộc:. Ngay trong thời đại của Nguyễn Đình Chiểu đã có biết bao sĩ phu đứng lên cùng nhân dân đánh giặc chống thực dân Pháp
  • Ý thức về việc nghĩa trong mọi hoàn cảnh: cần xác định được thế nào là việc nghĩa và việc nghĩa như thế nào là phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Để làm sao cho việc nghĩa ấy mang lại lợi ích cho dân, cho nước

Xem thêm:  Hình ảnh người lính thời kháng chiến chống Pháp qua bài Đồng chí

3. Kết bài

Liên hệ ý nghĩa của câu nói vào bản thân: Tuy không phải tất cả đều là anh hùng nhưng lối sống chung của đại đa số là lối sống anh hùng, sẵn sàng làm việc nghĩa. Đó là một truyền thống đạo đức cao đẹp mà thế hệ trẻ chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy.

II. Bài tham khảo cho đề bình luận câu nói: Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

Truyện “Lục Vân Tiên” đã sống cùng nền văn học Việt Nam và độc giả trong suốt hơn một trăm năm qua. Truyện gây ấn tượng sâu sắc không chỉ bởi những tình tiết hấp dẫn, mà còn vì trong truyện có những nhân vật luôn sống và hành động theo một phương châm cao quý. Tác giả đã bộc lộ điều đó qua câu nói của Lục Vân Tiên:

“Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Tư tưởng trong câu nói trên là một tư tưởng thể hiện lẽ sống cao thượng, bởi vì câu nói nhắc đến một phương châm làm việc nghĩa vô điều kiện: có nghĩa là ta có thể làm việc thiện nghĩa ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước bất kì khó khăn nào, không màng đến lợi ích hay sự thiệt thòi của bản thân, không ngại hiểm nguy, càng không mong được ca tụng và đền đáp. Đó là hành động cao thượng vì đã giúp ích cho đời, giúp đỡ người yếu đuối trong cảnh bị bức hại, giúp người nghèo khổ khi gặ khó khăn và dám chống lại những kẻ quyền uy, bạo lực, côn đồ để bảo vệ công lý. Đó chính là quan điểm đề cao thinh thần xả thân vì nghĩa.

Xem thêm:  Giới thiệu về truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân

Kiến ngãi bất vi nghĩa là gì
Bình luận ý thơ sau: Nhớ câu kiến ngãi bất vi – Làm người thế ấy cũng phi anh hùng

Trong tác phẩm, Lục Vân Tiên chỉ cần nghe tháy tiếng kêu cứu của người bị nạn là xông phi ngay tới chỗ bọn cướp để cứ người. Lục Vân Tiên chỉ kịp bẻ một cành cây bên đường làm vũ khí để “tả đột hữu xung” trước bọn cướp hung hăng và tàn bạo. Khi đã đánh tan bọn cướp, chàng từ chối việc trả ơn và cả thái độ biết ơn của Kiều Nguyệt Nga. Chàng quan niệm rằng sống trên đời gặp việc như thế ai cũng phải hành động tùy sức mình. Trong lịch sử của nước ta đã có rất nhiều những tấm gương hành hiệp trượng nghĩa như thế. Ngay trong thời đại của Nguyễn Đình Chiểu đã có biết bao sĩ phu đứng lên cùng nhân dân đánh giặc chống thực dân Pháp. Họ biết khó để tránh khỏi thất bại nhưng họ vẫn quyết tâm chiến đấu vì họ muốn cứu đất nước, cứu nhân dân, cứu quê hương ra khỏi cảnh bị giày xéo. Lối sống vì việc nghĩa và sẵn sàng làm việc nghĩa ấy là một lối sống đáng ca ngợi và học tập của thời đại chúng ta.

Tuy nhiên chúng ta cần xác định được thế nào là việc nghĩa và việc nghĩa như thế nào là phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Để làm sao cho việc nghĩa ấy mang lại lợi ích cho dân, cho nước. Dù là ai đi chăng nữa khi đã xác định được việc nghĩa thì đều có thể làm được việc nghĩa, giống như Lê Văn Tám tự đốt mình làm ngọn đuốc đốt cháy kho xăng giặc. Ngay trong cuộc sống bình thường chúng ta không cần chờ đến việc lớn mới làm việc nghĩa mà cần phải biết làm và tập làm việc nghĩa từ những việc nhỏ nhặt mới mong làm được việc nghĩa lớn. Ví dụ như dắt em bé hoặc đưa người già qua đường, tham gia lớp học tình thương, hành động từ thiện,.. tất cả đều là việc nghĩa.

Xem thêm:  Bình giảng khổ thơ đầu bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu

Dân tộc ta vốn là một dân tộc có truyền thống hiếu nghĩa, giàu nhân đạo và nhân nghĩa. Tuy không phải tất cả đều là anh hùng nhưng lối sống chung của đại đa số là lối sống anh hùng, sẵn sàng làm việc nghĩa. Đó là một truyền thống đạo đức cao đẹp mà thế hệ trẻ chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy.

Kiến ngãi bất vi nghĩa là gì
Hai câu văn sau liên kết với nhau bằng cách nào (Ngữ văn - Lớp 5)

Kiến ngãi bất vi nghĩa là gì

4 trả lời

     Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta, mãi mãi xứng đáng là ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ Việt Nam trong thế kỉ XIX. Ông để lại một số truyện thơ, tiêu biểu nhất là Truyện Lục Vân Tiên. Qua cuộc đời của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, nhà thơ khẳng định và ngợi ca một lẽ sống đẹp:

Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

     Lục Vân Tiên là một anh hùng lí tưởng của nhà thơ mù yêu nước. Có biết bao tình tiết hào hùng và cảm động về trang anh hùng nghĩa hiệp này. Chiến công đánh cướp của Lục Vân Tiên mãi mãi là bài ca hùng tráng của người anh hùng trong một xã hội loạn lạc.  Sau khi giết chết Phong Lai, đánh tan lũ giặc sơn đài, trừ hậu họa cho nhân dân, giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã thể hiện một cách ứng xử vô cùng cao thượng và hào hiệp. Người đẹp băn khoăn về chuyện báo đức thù công  thì Lục Vân Tiên "liền cười" rồi đĩnh đạc nói:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

     "Kiến ngãi bất vi" nghĩa là thấy việc nghĩa mà không làm. "Phi anh hùng" là không phải anh hùng. Hai câu thơ nêu lên một phương châm, một lẽ sống: Thấy việc nghĩa mà không làm thì con người như thế không đáng mặt anh hùng, thậm chí đó là kẻ tầm thường. Từ phủ định để đi tới khẳng định về một lẽ sống cao đẹp của người anh hùng ngày xưa: để cao tinh thần nghĩa hiệp, hành động hướng tới nhân nghĩa; coi việc nghĩa ở đời là trách nhiệm cao cả, thiêng liêng.

     Tại sao lại khi thấy việc nghĩa mà không làm, như thế không phải là anh hùng? Việc nghĩa ở đây là nhân nghĩa, là tình thương người, chở che bênh vực người bị áp bức, bị hại. Là tinh thần cương quyết chống lại cái ác, chống lại hung tàn bạo ngược để bảo vệ hạnh phúc, tài sản và tính mệnh của nhân dân. Đã là người anh hùng thì phải xả thân vì việc nghĩa, coi việc nghĩa là lẽ sống cao đẹp của mình, sẵn sàng đem tài năng và lòng dũng cảm để làm cho việc nghĩa tỏa sáng trong lòng người. Đạo lí nhân văn đề cao và coi trọng nhân nghĩa. Bởi vậy, những kẻ thấy việc nghĩa mà không làm, dửng dưng trước nỗi đau buồn, bất hạnh của đồng loại, thì những kẻ ấy không đáng mặt là anh hùng, thậm chí đó là những kẻ đạo đức giả rất tầm thường. Anh hùng phải gắn bó với nhân dân, với nỗi lo, nỗi đau, niềm vui và mơ ước của nhân dân. Anh hùng phải bảo vệ và phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân. Có như thế mới xứng đáng là người anh hùng chân chính.

     Hai câu thơ: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng” nêu lên một quan niệm về anh hùng rất đúng đắn, tích cực. Nhân nghĩa là nội dung đạo lí nhân dân. Người có nhân nghĩa mới được nhân dân quý mến, kính trọng. Người anh hùng sống và chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, đem tài năng bảo vệ nhân dân, đó là con người nhân nghĩa.

     Bọn bất lương, lũ hung tàn bạo ngược thì bất nhân bất nghĩa. Vì nhân nghĩa mà phải chống lại bạo ngược hung tàn. Muốn chống lại cái ác, chống lại cường quyền, bạo ngược dễ gì ai cũng làm được? Phải có lòng dũng cảm và quyết tâm như sắt đá. Phải có tài năng mưu trí. Dám xả thân vì việc nghĩa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Làm được thế, có phẩm chất như thế mới xứng đáng là anh hùng.  “Xả thân, thủ nghĩa” là phương châm xử thế của tráng sĩ xưa nay. Quan niệm về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu mang tính nhân dân sâu sắc. Lục Vân Tiên xuống núi về kinh ứng thí, giữa đường gặp cướp, chàng nói với dân chạy giặc:

Tôi xin ra sức anh hào,

Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.

     Chàng đã "bẻ cây làm gậy", căm thù lên án tên tướng cướp Phong Lai:

Tiên rằng: Bớ đảng hung đồ,

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân

     Sau đó chàng đã "tả đột hữu xông" đánh tan lũ cướp! Vân Tiên đã hành động theo đúng quan niệm người anh hùng nghĩa hiệp.

     Người anh hùng nghĩa hiệp rất coi thường danh lợi. Họ trọng nghĩa khinh tài (tiền tài). Làm việc nghĩa không mảy may vụ lợi, rất coi trọng lời thề chung thủy sắt son. Tình huynh đệ tâm giao, tình sư phụ cao cả, tình đồng loại bao la, đối với họ là nghĩa nặng nghìn non, không gì có thể lay chuyển được.

     Tóm lại, quan niệm anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong Truyện Lục Vân Tiên rất cao cả, rất đẹp. Vì anh hùng gắn với nhân nghĩa, nhân nghĩa gắn liền với trung, hiếu, tiết, hạnh. Sống giữa loạn lạc, rối ren, một xã hội đầy rẫy kẻ lừa thầy phản bạn, bất nghĩa bất nhân, mà Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao anh hùng nhân nghĩa, điều đó chứng tỏ cái "tâm” của ông rất sáng. Đúng như Báo Định Giang đã ca ngợi: "Nguyễn Đình Chiểu tuy bị mù lòa, nhưng tâm hồn ông vằng vặc như sao Bắc Đẩu”

     Câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu bắt nguồn từ một câu nói bất hủ của người xưa: “Kiến ngãi bất vi vô dũng giã”. "Dũng giã" là con người dũng cảm. Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là con người dũng cảm. Người dũng cảm thì không sợ nguy nan, coi thường cái chết, ra sức cứu nguy phò đời. Với thanh gươm nghĩa hiệp, họ sống và hành động theo phương châm: "Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ". Nghĩa là: Trên đường thấy việc nghĩa liền vung dao cứu giúp, bênh vực. Các anh hùng hảo hán ngày xưa đã thẳng tay trừng trị bọn ác bá quan lại gian tham độc ác. Họ hành động theo phương châm ấy. Nhân vât Từ Hải trong Truyện Kiều, một con người khao khát tự do "Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo "đã từng tuyên bố:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng,

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

     Quan niệm về anh hùng của nhân dân ta rất sâu sắc. Chí bốn phương vẫy vùng là tầm vóc của đấng nam nhi, của trang anh hùng:

Làm trai cho đáng nên trai,

Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng.

     Quan niệm về anh hùng lại mang màu sắc thời đại. Mỗi thời đại lại có một mẫu lí tưởng về anh hùng. Trong lịch sử 4000 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc ta đã có bao tấm gương anh hùng sáng chói lưu danh sử sách. Với Trần Quốc Tuấn: "... Chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Với Nguyễn Trãi, người anh hùng phải là người nhân nghĩa, có tài năng và dũng lược, biết yêu ghét mạnh mẽ:

Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng.

     Nguyễn Công Trứ là nhà nho văn võ toàn tài, sống trong nửa đầu thế kỉ XIX, là một con người có nhiều công danh: "Khi Thủ khoa, khi Tham tấn, khi Tổng đốc Đòng... "để lại nhiều bài thơ nói về "chí nam nhi", "chí anh hùng" bằng một giọng điệu hào hùng, một chí khí hăm hở phi thường:

- Đã mang tiếng ở trong trời đất,

Phải có danh gì với núi sông.

- Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ

Quyết ra tay buồm lái trận cuồng  phong.

Chí những toan xẻ núi lấp sông,

Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.

     Những quan niệm anh hùng, lí tưởng anh hùng của tiền nhân đều mang tính thời đại và lịch sử sâu sắc. Tổ tiên, ông cha ta đã nêu cao lí tưởng anh hùng, lẫm liệt hiên ngang xả thân vì nước vì dân, hướng về nhân nghĩa. Đó là vốn quý của dân tộc rất đáng tự hào.

     Trong nửa thế kỉ qua, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến vĩ đại, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược. Có biết bao anh hùng xuất hiện, đúng là "ra ngõ gặp anh hùng". Người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc thì "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Ngày xưa "Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", ngày nay người phụ nữ Việt Nam mang tầm vóc thời đại mới: "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

     Qua nhân vật Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi một lí tưởng anh hùng vị nghĩa cao đẹp:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

     Trong tâm hồn hàng triệu người Việt Nam hơn thế kỉ qua, hình ảnh Lục Vân Tiên hiện lên với nhiều ngưỡng mộ:

Vân Tiên đầu đội kim khôi,

Tay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô.

     Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời dùng thơ văn làm vũ khí bào vệ đạo đức, đạo lí, góp phần đánh giặc vì nước vì dân:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

     Quan niệm anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu đã gắn liền với đạo lí làm người, hướng về nhân dân. Đó là bài học sâu sắc nhất mà ta cảm nhận được. Trong thời đại mới "công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ", chúng ta phải khơi dây trí tuệ Việt Nam để làm nên động lực mới cho sức mạnh Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam.