Khám điền thổ là gì

Khám điền thổ là gì

Đang CT16 đi khám điền thổ thì bị bắt.

Ngày 20/9, nhân dịp các bạn về quê chơi, Ông Hội đồng Xướng đã báo với bạn là mình vừa mua 1,4 mẫu đất vườn ở Phú Phụng gần nhà Võ tấn Đoàn. Nguyễn Văn Chiếm cùng các người bạn đã đi xem và chúc mừng ông Xướng địa phát khi về già. Tuy nhiên, do vườn mới mua, chưa kịp chăm sóc nên chưa có trái cây chi cả, do đó Hội đồng Xướng có lời mời năm tới đến vườn sẽ có nhiều loại trái cây hơn, mặc sức ăn.

Tin vui HM

Khám điền thổ là gì

                Hội đồng (chống gậy bên trái) đi cùng anh Chiếm

Mục lục bài viết

  • 1. Khái quát về thuế điền thổ
  • 2. Thuế điền thổ ở các quốc gia trên thế giới
  • 3. Thuế điền thổ của Việt Nam qua các thời kỳ.
  • 3.1 Thuế điền thổ dưới thời nhà Trần
  • 3.2 Thuế điền thổ thời nhà Hồ
  • 3.3 Thuế điền thổ thời Minh Thuộc
  • 3.4 Thuế điền thổ thời Hậu Lê
  • 4. Sắc lệnh ấn định biểu thuế điền thổ ở Trung Bộ
  • 5. Biều thuế điền thổ

1. Khái quát về thuế điền thổ

Thuế điền thổ là thuế thu đối với người sử dụng ruộng đất nằm ngoài phần đất đô thị không thuộc phạm vi đất đô thị.

Thuế điền thổ được chia ra làm hai hạng là thuế điền đánh vào các ruộng cấy lúa và thuế thổ đánh vào các vườn trồng hoa màu, ao chuôm, đất làm nhà ở khu vực nông thôn.

Thuế điền thổ là một loại thuế được áp dụng trong các xã hội cũ, nay không còn sử dụng nữa. "Điền thổ" là cụm từ Hán - Việt được sử dụng để chỉ ruộng và đất. Thuế điển thổ thực chất là thuế thu hàng năm đối với đất ruộng và đất ở nông thôn.

Từ năm 1897, toàn quyền Đông Dương đã nhiều lần cho điều chỉnh lại theo 4 hạng điền, 6 hạng thổ (đất) phân biệt theo đất canh tác và đất ở, đất xây dựng, ở thành phố, thị xã hay nông thôn; trồng lúa, màu hay các cây công nghiệp khác nhau (thuốc lá, trầu, cau, dừa, mía, dâu, chè, bông, đay, gai, thầu dầu, ngô, vừng, khoai lang, khoai sọ, đỗ, cây ăn quả, cói, lạc; đất không trồng trọt; đất bùn, ao, hồ, đầm; ruộng muối; đất đối với người bản xứ, người châu á, châu Âu, ngoại kiều khác...; miễn thuế cho các loại đất dành cho nghĩa trang, đền thờ, chùa, nhà thờ, các công trình tôn giáo; miễn thuế 6 năm đầu cho đất trồng cà phê và 4 năm đầu cho đất trồng chè (Lịch sử Việt Nam- tập II- trang 104).

Việc phân định lại hạng ruộng đất nhằm phục vụ lợi ích của bọn thực dân và chính quyền phong kiến. Mức thuế chủ yếu là tăng lên, kèm với những khoản phụ thu, nhưng diện tích làm căn cứ tính mẫu, sào lại điều chỉnh giảm xuống. Ví dụ: Theo quy định từ thời Tự Đức (1847-1883), mỗi mẫu Việt nam là 4.970m2. Năm 1897, ở Bắc kỳ, mỗi mẫu chỉ có 3.600m2 (Lịch sử Việt Nam- tập II- trang 104). Vì vậy dẫu mức thuế điều chỉnh lại bằng hay cao hơn cũ, thuế phải nộp thực tế tăng lên, có khi đến 2-3 lần.

2. Thuế điền thổ ở các quốc gia trên thế giới

Thuế điền thổ được coi là một sắc thuế cổ xưa nhất. Ngay từ khi nhân loại còn sống thành bộ lạc, các bộ lạc cổ xưa thường có các tình rạng tranh chấp hay chiến tranh. Những bộ lạc bại trận phải thuần phục và nộp cho bộ lạc thắng trận một số hoa màu được trồng trọt trên đất đai của chính mình để được phép tiếp tục canh tác trên phần đất đai đó. Theo Brauer thuế điền thổ đã xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng trước năm 2000 năm trước Thiên Chúa Giáo sinh và tại hai nơi là Trung Hoa và Ai Cập cổ đại. Vì những lợi điểm mà loại thuế này dần dần tràn lan và trở nên là một loại thuế chính tại hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Tại Châu Âu thuế điền thổ được đế quốc La Mã áp dụng trong suốt thời kỳ trung cổ tại chính đế quốc này cũng như là các nước bị đế quốc này thống trị.

Tại Anh quốc loại thuế này được đề nghị áp dụng từ năm 1962 nhưng cũng phải cho đến năm 1798 mới được cho phép chính thức phát hành thu.

Tại Pháp Luật thuế điền thổ năm 1970 được xem là sắc thuế chính để điều hướng các sắc thuế khác. Chính từ nước Pháp thuế điền thổ đã lan ròng sang hết các quốc gia khác ở Châu Âu.

Tại Nga - Sô thuế điền thổ đã được áp dụng từ lâu nhưng từ năm 1917 cuộc cách mạng vô sản đã đưa quốc gia này đến một thể chế chính trị mới. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc cách mạng vô sản là do sự mẫu thuẫn xung đột giữa giới địa chủ và nông dân. Tuy vậy nhà nước Nga - Sô cũng vẫn phải chờ đến năm 1926 mới chính thức có các quy định điều chỉnh loại thuế này cho phù hợp với những điêu kiện của chế độ chính trị mới. Thuế điền thổ mới được chiết tính trên căn bản lũy tiến và trên một số hoa lợi thu lợi hàng năm. Việc áp dụng căn bản thuế mới này là một tiến bộ mới so với các quy định trước đây về việc áp dụng để tính thuế là phân hạng ruộng đất.

...

3. Thuế điền thổ của Việt Nam qua các thời kỳ.

Tại Việt Nam thuế điền thổ là một sắc thuế đã được áp dụng từ khá lâu.Qua những sử liệu còn lưu truyền chúng ta chỉ ghi nhận được sự xuất hiện đầu tiên của những sắc thuế điền thổ tại Việt Nam được ban hành vào năm 1225 dưới thời nhà Trần.

3.1 Thuế điền thổ dưới thời nhà Trần

Theo sử liệu các vua nhà Trần đã cho thu nhiều sắc thuế như thuế trầu cau, thuế hương yên tức, tôm, cá, ra, quả,..Ngoài những sắc thuế đã được kể trên hai sắc thuế chính thời bấy giờ là thuế ruộng và thuế thân đều tùy theo số ruộng mọi người có được mà đánh thuế. Thời đó thuế điền thổ được gọi là thuế ruộng và có nhiều giá biểu thuế tùy theo loại và hạng ruộng. Thuế ruộng được thu bằng thóc còn ruộng muối được thu bằng tiền.

3.2 Thuế điền thổ thời nhà Hồ

Năm 1400 Hồ Quý Li phế vua Thiếu Đế tự xưng làm vua. Hồ Quý Li theo thông lệ của các vua nhà Trần nên năm 1940 nhường ngôi vua sang cho con là Hồ Hán Thương rồi làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nhà nước. Nhà Hồ tuy cai quản không lâu nhưng đã sửa đổi khá nhiều các chính sách của đất nước ta thời bấy giờ, về vấn đề thuế má nhà Hồ cũng đã có sự cải sửa lại. Thuế điền thổ trước đây nhà Trần đánh thuế ruộng tư mỗi năm 3 thăng thóc, ruộng dâu mỗi năm 9 quan hoặc 7 quan, nay nhà Hồ đổi lại ruộng tư điền phải đóng 5 thăng thóc còn ruộng dâu chia làm 3 hạng:

- Hạng nhất: 5 quan/ mẫu

- Hạng hai: 4 quan/ mẫu

- Hạng ba: 3 quan/ mẫu

3.3 Thuế điền thổ thời Minh Thuộc

Nhà Minh lấy cớ giệt nhà Hồ giúp nhà Trần đem quân sang xâm chiếm nước ta. Sau khi chiếm đất nhà Minh không đưa con cháu nhà Trần lên ngôi mà lại sửa sang mọi việc trong nước nhằm việc đồng hóa người dân An Nam với người Minh. Về thuế má nhà Minh định rằng cứ mỗi mẫu ruộng phải nộp năm thăng thóc, mỗi một mẫu bãi để trồng dâu phải nộp một lạng tơ và cứ mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa.

3.4 Thuế điền thổ thời Hậu Lê

Năm 1791 đời vua Dụ Tông, Trịnh Cương sai các quan Phú Huyện và quan Thừa - Chánh, Hiến - Sát làm việc đạc điền để mà chia tiền thuế cho các dân xã cho đều, lệ bấy giờ là cứ đo công điền, công thổ mà đánh thuế. Thuế chia làm 3 hạng: Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền.

...

4. Sắc lệnh ấn định biểu thuế điền thổ ở Trung Bộ

Ngày 29 tháng 5 năm 1946 Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra sắc lệnh ban hành biểu thuế điền thổ ở Trung Bộ, cụ thê như sau:

"Chiểu thể lệ hiện hành về thuế điền thổ ở Trung Bộ Việt Nam,

Chiểu theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,

Sau khi Ban thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ đã thoảhiệp.

RA SẮC LỆNH :

Điều thứ nhất

Kểtừ ngày 1 tháng 1 năm 1946 các thuế biểu về thuế điền thổ ấn định như sau nàycho toàn hạt Trung bộ cả người Việt Nam lẵn người ngoại quốc :

1-Ruộng và đất có hướng thuỷ lợi nông giang (rizière et terrain irrigués pargravité à l—aide des travaux du Service de l—hydrauliqua agricole).

Hạngnhất 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm 20đ00

Hạngnhì 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm18.00

Hạngba 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm16.00

2-Ruộng thường :

Hạngnhất 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm13.00

Hạngnhì 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm10.00

Hạngba 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm7.00

Hạngtư 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm4.00

3-Đất thường

Hạngnhất 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm13.00

Hạngnhì 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm10.00

Hạngba 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm6.00

Hạng tư 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm4.00

Hạngnăm 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm2.00

Hạngsáu 1mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm1.00

Hạngbảy 1 mẫu ta (4979 th.vuông 25) 1 năm0.20

Nếuruộng đất tính diện tích bằng mẫu tây (10.000 thước vuông thuế biểu kê trên sẽnhân lên 2 lần.

Điều thứ hai

Cáchthức phân hạng làm tờ khai, tờ tụng v.v... tạm thời, cứ theo như thể lệ hiệnhành.

Điều thứ ba

Ông Bộ trưởngBộ Tài chánh và ông Chủ tịch Uỷ ban hành chánh Trung bộ chịu uỷ nhiệm thi hành Sắc lệnh này".

5. Biều thuế điền thổ

Ngày 20 tháng 11 năm 1948 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 212/SL thay đổi biểu thuế điền thổ, cụ thể như sau:

"Xét các luật lệ hiện hành về thuế trực thu nhất là các Sắc lệnh số 26-SL và 27-SL ngày 28-2-1947, 69-SL ngày 16-5-1946 và 78-SL ngày 29-5-1946;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính;

Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban Thường trực Quốc hội đã thoả thuận;

RA SẮC LỆNH:

Điều 1

Trong niên khoá 1948, thuế biểu thuế điền thổ ấn định trong các Sắc lệnh số 69-SL ngày 16-5-1946 và 78-SL ngày 29-5-1946 sửa đổi lại như sau:

Bắc Bộ

Ruộng hạng nhất : 1 mẫu ta 3.600 thước vuông : 18đ00

Ruộng hạng nhì : - : 15,00

Ruộng hạng ba : - : 12,00

Đất hạng nhất : - : 18,00

Đất hạng nhì : - : 12,00

Đất hạng ba : - : 4,00

Đất hạng tư : - : 1,50

Đất hạng năm : - : 0,15

Các đồn điền :

Ruộng hạng nhất : 1 mẫu tây 10.000 thước vuông : 30đ00

Ruộng hạng nhì : - : 18,00

Ruộng hạng ba : - : 12,00

Ruộng hạng tư : - : 7,50

Ruộng hạng năm : - : 3,50

Ruộng hạng sáu : - : 1,50

Ruộng hạng bảy : - : 0,30

Trung Bộ

Ruộng có hướng thuỷ lợi nông giang :

Hạng nhất : 1 mẫu ta 4.970 thước vuông : 30đ00

Hạng nhì : - : 27,00

Hạng ba : - : 24,00

Ruộng thường :

Hạng nhất : - : 19đ00

Hạng nhì : - : 15,00

Hạng ba : - : 10,00

Hạng tư : - : 6,00

Đất thường :

Hạng nhất : - : 19đ00

Hạng nhì : - : 15,00

Hạng ba : - : 9,00

Hạng tư : - : 6,00

Hạng năm : - : 3,00

Hạng sáu : 1 mẫu ta 4.970 thước vuông : 1đ50

Hạng bảy : - : 0,30

Ngoài ra số 100% phụ thu vào thuế điền thổ vẫn giữ nguyên như cũ.

Điều 2

Nay thu thêm 100% vào chính tang thuế môn bài.

Điều 3

Các Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Liên Khu được uỷ quyền ấn định:

a) Một số bách phân phụ thu vào quỹ liên xã trong giới hạn tối đa là 20%.

b) Một số bách phân phụ thu vào thuế điền thổ cho các Uỷ ban phụ trách việc thu thuế để lấy tiền in phát lại trong giới hạn tối đa là 5%.

Điều 4

Các số thuế trực thu do:

- Các Ty trưởng thuế trực thu lập và kết toán,

- Các Giám đốc Sở thuế trực thu kiểm soát và duyệt y.

- Các UBKCHC Liên khu ra lệnh ban hành".