Hiến pháp 1946 có sơ sỡ pháp lý là gì năm 2024

Sau khi giành nền độc lập, với tư tưởng tiến bộ về xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân trên cơ sở lấy dân làm gốc, với trí tuệ uyên bác và tầm nhìn xa, trông rộng của một vị lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương việc thực hiện Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, để sớm ban hành Hiến pháp. Mục đích nhằm xây dựng Nhà nước Việt Nam dân chủ nhân dân kiểu mới trên một cơ sở pháp lý vững chắc; xác lập và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi người dân Việt Nam; tăng cường đoàn kết dân tộc để củng cố và giữ vững nền độc lập.

Ngày 03/9/1945, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Lâm thời đã họp phiên họp đầu tiên và xác định nhiệm vụ nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội để ấn định cho nước Việt Nam mới một bản Hiến pháp. Trong phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với Chính phủ rằng: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống…”[3]. Lời đề nghị này của Người được xem là có ý nghĩa như một tuyên bố lập hiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa [4].

Hiến pháp 1946 có sơ sỡ pháp lý là gì năm 2024

Sắc lệnh số 14/SL ngày 8/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam DCCH

Thực hiện lời tuyên bố lập hiến đó, ngày 08/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ khi đó là cụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch Chính phủ Lâm thời kí Sắc lệnh số 14/SL quy định trong thời gian hai tháng kể từ ngày ký Sắc lệnh này sẽ mở cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thay mặt toàn dân để ấn định cho nước Việt Nam một Hiến pháp dân chủ cộng hoà [5].

Tiếp đó, cùng với việc tạo lập cơ sở pháp lý cho cuộc Tổng tuyển cử như việc ban hành Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử [6] ; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 ấn định ngày Tổng Tuyển cử và thể lệ cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội [7],… Ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 34-SL về thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp gồm có 7 thành viên là: Hồ Chí Minh (Trưởng ban), Vĩnh Thụy (Bảo Đại), Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) [8]. Đây được xem là bước chuẩn bị nội dung quan trọng cho sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hiến pháp 1946 có sơ sỡ pháp lý là gì năm 2024
Sắc lệnh số 34 ngày 20/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam

Căn cứ vào tình hình đất nước, đồng thời khảo nghiệm/tham chiếu Hiến pháp của một số nước Âu - Mỹ, Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã khẩn trương soạn thảo Dự thảo Hiến pháp trong thời gian hơn một tháng và đệ trình để Chính phủ thảo luận, góp ý, sửa chữa, hoàn chỉnh bản dự thảo.

Ngày 10/11/1945, Chính phủ Lâm thời ra Thông cáo về việc công bố dự thảo Hiến pháp để toàn dân thảo luận góp ý (kèm theo Bản dự án Hiến pháp gồm 9 chương, 71 điều). Bản Thông cáo viết: “Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập Hiến pháp của nước nhà nên Chính phủ công bố bản dự án Hiến pháp để mọi người đọc kỹ càng và được tự do phê bình…Ủy ban dự thảo Hiến pháp sẽ tập trung các đề nghị sửa đổi và ý kiến của nhân dân rồi trình lên Toàn quốc Đại hội bàn luận” [9] .

Ngày 31/12/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 78/SL thành lập Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết quốc gia [10]. Ủy ban này sau đó cũng đã soạn thảo một Dự án Hiến pháp đệ trình Chính phủ xem xét.

Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc. Ngày 02/3/1946, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội Khóa được tiến hành trong không khí vô cùng khẩn trương. Quốc hội đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, bầu ra Ban Thường trực Quốc hội để góp ý phê bình và giám sát hoạt động của Chính phủ và lập Ban dự thảo Hiến pháp của Quốc hội gồm 11 thành viên là: Tôn Quang Phiệt, Trần Duy Hưng, Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đỗ Đức Dục, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ và Nguyễn Thị Thục Viên. Ban có nhiệm vụ dự thảo bản Hiến pháp [11] .

Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa I diễn ra từ ngày 28/10 – 09/11/1946, bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là cải tổ Chính phủ (bãi nhiệm Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thành lập Chính phủ mới), Quốc hội đã dành phần lớn thời gian để thảo luận và thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới. Theo hồ sơ lưu trữ tổng hợp các biên bản tường thuật Kì họp thứ 2, Quốc hội Khóa I, nội dung chủ đạo này chiếm lĩnh phần lớn thời gian của kì họp này [12].

Và trong kì họp này, ngày 29/10/1946, Quốc hội quyết định mở rộng thêm 10 vị đại diện của các nhóm, đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào các dân tộc thiểu số tham gia vào Tiểu ban dự thảo Hiến pháp để tu bổ và hoàn chỉnh bản Dự thảo Hiến pháp. Ồng Đỗ Đức Dục thay mặt Tiểu ban đã thuyết trình trước Quốc hội bản Dự thảo Hiến pháp đã được tu chỉnh.

Từ ngày 02/11 – 8/11/1946, Quốc hội đã tiến thảo luận/tranh luận sôi nổi để bổ sung sửa đổi từng điều cụ thể trong Dự thảo Hiến pháp. Cũng cần phải nói thêm rằng, Dự thảo Hiến pháp này được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Dự thảo được hình thành trên cơ sở tu sửa lại bản dự án Hiến pháp do Tiểu ban Hiến pháp kì họp thứ nhất khởi thảo trên cơ sở dự án Hiến pháp của Chính phủ đưa ra, có đối chiếu với bản dự thảo của Ủy ban Cứu quốc và tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân, cũng như tham khảo kinh nghiệm Hiến pháp của các nước Âu – Á.

Ngày 9/11/1946, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240 đại biểu trên tổng số 242 đại biểu có mặt (hai đại biểu không tán thành là Nguyễn Sơn Hà và Phạm Gia Đỗ).

Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp phản bội ước Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 đã kí kết với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược mới đang đe dọa nhân dân cả nước, việc công bố Hiến pháp cần phải được cân nhắc thận trọng. Chính vì vậy, sau khi tuyên bố Hiến pháp trở thành chính thức, Quốc hội đã ra Nghị quyết trao cho Ban Thường trực Quốc hội nhiệm vụ “cùng với Chính phủ quyết định sự ban bố và thi hành Hiến pháp” khi có điều kiện. Cũng theo Nghị quyết này “trong thời kỳ chưa thi hành được thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành các Sắc luật” [13].

Hiến pháp 1946 có sơ sỡ pháp lý là gì năm 2024
Hiến pháp 1946 có sơ sỡ pháp lý là gì năm 2024

Nghị quyết ngày 9/11/1946 của Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa I về việc ủy nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành bản Hiến pháp

2. Nội dung mang ý nghĩa lịch sử và thời đại của Hiến pháp 1946

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước nhà. Nội dung Hiến pháp hết sức ngắn gọn, súc tích, chỉ có 3.385 từ, gồm Lời nói đầu và 70 điều được phân bố trong 7 chương: Chương I (Chính thể), Chương II (Nghĩa vụ và quyền lợi công dân), Chương III (Nghị viện nhân dân), Chương IV (Chính phủ), Chương V (Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính), Chương VI (Cơ quan tư pháp) [14], Chương VII (Sửa đổi Hiến pháp) nhưng Hiến pháp 1946 đã điều chỉnh các quan hệ xã hội của nước ta một cách hợp lý và rõ ràng, đặc biệt là trong vấn đề tổ chức quyền lực và tổ chức bộ máy nhà nước và phù hợp với bối cảnh và điều kiện lúc bấy giờ.

Kỹ thuật lập hiến của Hiến pháp 1946 được cho là theo khuynh hướng trường phái Hiến pháp cổ điển (áp dụng kỹ thuật trừu tượng hóa, viết ngắn gọn ít nội dung vào Hiến pháp), chính vì vậy Hiến pháp 1946 phần nào đã bị giới hạn về phạm vi và về độ chi tiết hóa. Các nhà thảo hiến chỉ lựa chọn những nguyên tắc căn bản nhất của hoạt động chính trị để đưa vào. Hiến pháp chỉ biểu đạt những nội dung gồm các quy định về chính quyền, điều chỉnh những vấn đề căn bản nhất tương quan giữa công quyền và dân quyền, mà chưa đề cập đến những vấn đề khác như xã hội, văn hóa... [15]. Tuy nhiên, Hiến pháp 1946 vẫn được đánh giá là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, mẫu mực trên nhiều phương diện, cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Những nguyên tắc cơ bản ghi nhận trong Hiến pháp vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được ghi nhận, kế thừa và phát triển trong các bản Hiến pháp tiếp theo, phù hợp với ý nguyện của toàn dân Việt Nam, phù hợp với từng giai đoạn phát triển và sự vận hành của bộ máy Nhà nước Việt Nam sau này.

Hiến pháp 1946 khẳng định đường lối đại đoàn kết, thống nhất ý chí toàn dân tộc

Lời nói đầu Hiến pháp ghi: “Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới”. Có thể thấy, đây là bản tổng kết ghi lại thành quả đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc là của toàn dân Việt Nam. Từ chỗ mất nước, nhân dân Việt Nam đã giành lại độc lập và chủ quyền quốc gia, từ chỗ bị phân chia làm 3 xứ thuộc địa và bảo hộ, nhân dân ta đã thống nhất lại đất nước thành “một khối thống nhất Bắc, Trung, Nam không thể phân chia” (Điều 2). Những thành quả ấy có được chủ yếu là do nhân dân ta đã đoàn kết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Lời nói đầu cũng đề ra nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và nhân dân trong giai đoạn lịch sử trước mắt và vạch ra đường lối cơ bản để thực hiện những thắng lợi ấy, đó là:“Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo”. Đây là một nguyên tắc chiến lược của dân tộc của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, một nguyên tắc mà Đảng Cộng sản Đông Dương đã kế thừa và phát triển thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất để chĩa mũi nhọn đấu tranh của toàn dân vào kẻ thù của dân tộc.

Tư tưởng đoàn kết dân tộc cũng là tư tưởng hàng đầu trong nguyên tắc xây dựng Hiến pháp. Nó cùng với 2 nguyên tắc: “Đảm bảo các quyền tự do dân chủ”, “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” để tạo nên “tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi”. Đây chính là đường lối chiến lược để đưa “nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại.”

Công nhận và bảo đảm quyền hợp pháp của công dân

Hiến pháp 1946 đã khẳng định những quyền cơ bản của công dân Việt Nam

- Các quyền bình đẳng: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6); “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7); “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8); “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9);

- Các quyền tự do: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, Tự do xuất bản, Tự do tổ chức hội họp, Tự do tín ngưỡng, Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10); “Tư pháp chưa quyết định thì không bị bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật” (Điều 11).

- Các quyền về kinh tế: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo” (Điều 12); “Quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm” (Điều 13).

- Các quyền về văn hóa: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiêng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình của Nhà nước” (Điều 15).

- Các quyền về xã hội: “Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc gì thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14).

Hiến pháp 1946 ra đời ghi nhận, khẳng định những quyền hợp pháp của công dân sau một thời gian dài dưới sự thống trị của các triều đại phong kiến và nhiều năm bị sự đô hộ của thực dân Pháp. Người dân trong các chế độ đó không được coi là một công dân theo đúng nghĩa của nó mà bị coi là những “thần dân” với những quyền dân chủ rất hạn chế. Với Hiến pháp 1946, quyền của người dân Việt Nam có một bước tiến nhảy vọt khi người dân từ địa vị bóc lột, nay đã thực sự làm chủ cuộc đời mình với tư cách công dân của một nước độc lập, tự do, dân chủ. Và tư cách, địa vị đó là mặc nhiên và Nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện.

Về bản chất của nhà nước Việt Nam mới với chính thể dân chủ rộng rãi: Xuyên suốt nội dung của bản Hiến pháp, tính chất dân chủ của Nhà nước Việt Nam DCCH đã được ghi nhận như một giá trị điển hình. Dân chủ được thể hiện ở việc trao quyền quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước cho người dân và xác lập mục tiêu hoạt động của các cơ quan nhà nước là vì nhân dân.

Theo Hiến pháp 1946, chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân, người dân là người làm chủ đất nước. Nhân dân là chính là người làm ra Hiến pháp nên có quyền phúc quyết bản hiến pháp của mình; nhân dân có quyền bỏ phiếu thể hiện ý chí của mình trong những trường hợp liên quan đến vận mệnh mệnh quốc gia,... Điều này được thể hiện thông qua các quy định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam” (Điều 1); “Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu, Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín” (Điều 17); “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử” (Điều 21); “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra theo Điều thứ 41 và 61” (Điều 20) … Bên cạnh việc thừa nhận hình thức dân chủ đại diện qua việc nhân dân bầu lên Nghị viện, nhân dân còn có quyền thực hiện một số quyền dân chủ trực tiếp qua các quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia theo Điều thứ 32 và 70”; “Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm một lần…” (Điều 24); “Nghị viện nhân dân họp công khai, công chúng được vào nghe…” (Điều 30).

Với sự ra đời của Hiến pháp 1946 trong một chính thể nhà nước cộng hoà, người dân Việt Nam đã thực sự được công nhận những quyền cơ bản của con người và chuyển sang vị thế làm chủ đất nước. Những quy định mang tính chất dân chủ này là một giá trị rất đặc thù của Hiến pháp 1946 dù được thể hiện ở các chừng mực khác nhau trong các bản hiến pháp về sau nhưng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì luôn được duy trì đầy đủ, mặc dù mỗi một giai đoạn lịch sử của nước ta có một bản hiến pháp khác nhau để thực hiện những sứ mệnh nhất định.

Đề ra nguyên tắc cho việc tổ chức bộ máy nhà nước

Hiến pháp 1946 quy định:

- Cơ quan lập pháp: “Nghị viện nhân dân (danh từ hồi ấy dùng chỉ Quốc hội) là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”(Điều 22); “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài” (Điều thứ 23); “Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ” (Điều 27). Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nghị viện (Các Điều 24, 35, 26 và các Điều (từ Điều 28 đến Điều 42)

- Cơ quan hành pháp: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Điều thứ 43); “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng” (Điều thứ 44). Hiến pháp cũng quy định cách bầu, quyền hạn, nhiệm vụ và cách chức các chức vụ này (từ Điều 45 đến Điều 56).

- Cơ quan tư pháp: “Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:a) Toà án tối cao. b) Các toà án phúc thẩm. c) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp” (Điều 63). Hiến pháp cũng quy định những nguyên tắc rất tiến bộ: “Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án” (Điều 66); “Các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều thứ 67); “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân” (Điều thứ 68); “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. (Điều thứ 69).

- Bộ máy hành chính địa phương, Hiến pháp 1946 xác định: “Nước Việt Nam về phương diện hành chính có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã” (Điều 57). “Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình” (Điều 58). Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng quy định cụ thể mô hình tổ chức chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính) (từ Điều 59 đến Điều 62).

Căn cứ vào những quy định về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1946, có thể thấy, Hiến pháp 1946 đã tiếp thu có chọn lọc các hiến pháp dân chủ và tiến bộ của các nước, đồng thời đã Việt hóa một cách tối đa cho phù hợp với điều kiện nước ta. Hiến pháp 1946 đã cố gắng phân định rõ các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo đó, quyền lập pháp được trao cho Nghị viện nhân dân - cơ quan cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; quyền hành pháp thuộc về Chính phủ và tòa án nắm quyền tư pháp. Đồng thời Hiến pháp cũng phân quyền rõ nét và hợp lý cho chính quyền địa phương…

Như vậy, chỉ trong vòng hơn 01 năm sau khi nước nhà giành được độc lập, Hiến pháp 1946 - Đạo luật cơ bản đầu tiên của Nhà nước Việt Nam mới với chính thể Dân chủ cộng hòa được soạn thảo và thông qua với sự cố gắng của các nhà thảo hiến, của bộ máy chính quyền Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Bản Hiến pháp 1946 hội tụ đầy đủ các yếu tố của một bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ, mẫu mực trên nhiều phương diện, cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến. Những nguyên tắc ghi nhận trong Hiến pháp vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện rõ tư tưởng tiến bộ về pháp quyền và để lại cho hôm nay những bài học cần phải tiếp tục nghiên cứu, phát huy./.

Minh Châu - Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam

----

Chú thích:

[1] Luật số 14/2012/QH13 - Luật Phổ biến giáo dục pháp luật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XII thông qua ngày 20/6/2012

[2] Điều 8 Luật số 14/2012/QH13 - Luật Phổ biến giáo dục pháp luật quy định: Ngày 09 tháng 11 hằng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

[13 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 (1945-1946), NXB Chính trị quốc gia, H: 2011, tr7.

[4] Lê Mậu Hãn. Hiến pháp 1946: Quyền dân tộc và dân chủ, tự do và bình đẳng xã hội là động lực tiến hóa của Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo: “Phát huy những giá trị lịch sử, chính trị, pháp lý của Hiến pháp 1946 trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” do Trung tâm Thông tin, Thư viện và Nghiên cứu khoa học – Văn phòng Quốc hội tổ chức. NXB Chính trị quốc gia, H: 2006, tr70.

[5] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 01, tờ số 6.

[6] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 01, tờ số 51.

[7] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 01, tờ số 70 – 79.

[8] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 01, tờ 44.

[9] Ban Chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam. Biên niên Lịch sử Chính phủ 1945 – 2005, tập 1 (1945 – 1954). Nxb Văn hóa Thông tin, H:2006, tr96-97.

[10] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 1, tờ số 136-137.

[11] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 – 1960. NXB Chính trị quốc gia, H:1994, tr68 – 79.

[12] Tổng hợp các biên bản tường thuật Kì họp thứ 2, Quốc hội Khóa I . Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Quốc hội, Hồ sơ số 4, tờ số 1-56. Theo đó chương trình nghị sự của Quốc hội về thảo luận và thông qua Hiến pháp diễn ra như sau: Sáng ngày 29/10: Tiểu ban Hiến pháp báo cáo; Sáng ngày 02/11: Thuyết trình dự thảo Hiến pháp; phát biểu ý kiến về dự án Hiến pháp; Chiều: Phát biểu ý kiến về dự án Hiến pháp; Thảo luận Hiến pháp (Điều 1 – Điều 8); Chiều Ngày 03/11: Thảo luận Hiến pháp (Điều 9 – Điều 10); Ngày 04/11: Sáng: Thảo luận Hiến pháp (Điều 11 – Điều 21). Chiều: Thảo luận Hiến pháp (Điều 22 – Điều 31); Ngày 05/11: Sáng: Thảo luận Hiến pháp (Điều 32 – 46) (tr 37), Chiều: Thảo luận Hiến pháp (Điều 47 – 56); Ngày 06/11: Sáng: Thảo luận Hiến pháp (Điều 47 – 56) (tr 37). Chiều: Thảo luận Hiến pháp (Điều 57 – 62); Ngày 7/11: Sáng: Thảo luận Hiến pháp (Điều 63 – 70). Chiều: Xét các từ bổ án (các từ bổ sung vào dự án Hiến pháp). Ngày 8/11/1946: Sáng: Duyệt Lời nói đầu của Hiến pháp. Chiều: Thảo luận cơ bản tuyên ngôn Hiến pháp; Các đảng phái phát biểu ý kiến đối với Hiến pháp; Ngày 9/11: Sáng: Việc trưng cầu dân ý về bản Hiến pháp; Việc ban bố và thi hành Hiến pháp; Chiều: Quốc hội quyết nghị ủy nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp.

[13] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Quốc hội, Hồ sơ số 6, tờ số 28.

[14] Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ số 558, tờ số 63-66.

[15] Trần Ngọc Đường – Bùi Ngọc Sơn. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xây dựng và ban hành Hiến pháp. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, H: 2013, tr416-417