Giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài thương mại được giải quyết khi có thỏa thuận trọng tài trước, trong hay sau khi xảy ra tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp diễn ra trong một hoặc nhiều phiên họp, phiên họp cuối phải được tuyên bố cho các bên tranh chấp và sau đó Hội đồng trọng tài sẽ không nhận bất cứ hồ sơ, tài liệu, chứng cứ bổ sung nào của các bên tranh chấp. Trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, giấy triệu tập tham dự phiên họp phải được gửi cho các bên chậm nhất 30 ngày trước ngày mở phiên họp. Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp do quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại quy định, đối với Trọng tài vụ việc do các bên thỏa thuận. Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời khỏi phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì bị coi là đã rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng trọng tài tiếp tục giải quyết tranh chấp nếu bị đơn có yêu cầu hoặc có đơn kiện lại, Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp giải quyết tranh chấp mà không được Hội đồng trọng tài chấp thuận thì Hội đồng trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có, theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên.

Phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp thương mại và chấm dứt tố tụng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số, trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các nội dung chủ yếu là ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết, tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn, họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên, tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp, căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thoả thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết, kết quả giải quyết tranh chấp, thời hạn thi hành phán quyết, phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan, chữ ký của Trọng tài viên. Khi có Trọng tài viên không ký tên vào phán quyết trọng tài, Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải ghi việc này trong phán quyết trọng tài và nêu rõ lý do, trong trường hợp này, phán quyết trọng tài vẫn có hiệu lực, phán quyết trọng tài được ban hành ngay tại phiên họp hoặc chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng, phán quyết trọng tài phải được gửi cho các bên ngay sau ngày ban hành, các bên có quyền yêu cầu Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài vụ việc cấp bản sao phán quyết trọng tài, Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành.

Giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, trừ khi các bên có thỏa thuận khác về thời hạn, một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài sửa chữa những lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai trong phán quyết nhưng phải thông báo ngay cho bên kia biết. Trường hợp Hội đồng trọng tài thấy yêu cầu này là chính đáng thì phải sửa chữa trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về thời hạn, một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài giải thích về điểm cụ thể hoặc phần nội dung của phán quyết nhưng phải thông báo ngay cho bên kia. Nếu Hội đồng trọng tài thấy rằng yêu cầu này là chính đáng thì phải giải thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Nội dung giải thích này là một phần của phán quyết, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ban hành phán quyết, Hội đồng trọng tài có thể chủ động sửa những lỗi quy định tại khoản 1 Điều 63 Luật Trọng tài thương mại và thông báo ngay cho các bên, trường hợp các bên không có thoả thuận khác, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết, một bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài ra phán quyết bổ sung đối với những yêu cầu được trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết và phải thông báo ngay cho bên kia biết. Nếu Hội đồng trọng tài cho rằng yêu cầu này là chính đáng thì ra phán quyết bổ sung trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trường hợp cần thiết, Hội đồng trọng tài có thể gia hạn việc sửa chữa, giải thích hoặc ra phán quyết bổ sung. Để có thể thi hành phán quyết trọng tài hiệu quả Hội đồng trọng tài cần tránh sai sót trong việc đánh giá tài liệu hồ sơ chứng cứ, thiếu thống nhất giữa phần xem xét, nhận định và quyết định.

Trung tâm trọng tài có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ vụ tranh chấp đã thụ lý. Hồ sơ vụ tranh chấp do Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ, hồ sơ trọng tài được lưu trữ trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra phán quyết trọng tài hoặc quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật Trọng Tài Thương Mại, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký tại Tòa án nơi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết trước khi yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền tổ chức thi hành phán quyết trọng tài đó. Việc đăng ký hoặc không đăng ký phán quyết trọng tài không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài, trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Trọng Tài Thương Mại kèm theo bản chính hoặc bản sao có chứng thực hợp lệ các tài liệu.

I/ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TẠI VIỆT NAM

Theo Khoản 1 Điều 66 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, nếu hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 69 của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan Thi Hành Án Dân Sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài được căn cứ theo Điều 61 và Điều 66 Luật TTTM năm 2010. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 61 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 thì trong phán quyết trọng tài có nội dung thời hạn thi hành phán quyết, thông thường các phán quyết trọng tài ghi là phán quyết trọng tài này là chung thẩm, ràng buộc các bên và có hiệu lực kể từ ngày lập phán quyết, hoặc ghi chung chung là trong thời hạn quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự. Điều 30 Luật Thi hành án dân sự ngày 29/6/2018 về thời hiệu yêu cầu thi hành án quy định trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án, trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn, đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn, đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án được hoãn thi hành án, trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.

Để tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải căn cứ vào nội dung thời hiệu để xem xét là đã hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài chưa, hoặc là bên phải thi hành phán quyết có yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài hay không, từ đó cơ quan thi hành án dân sự mới có căn cứ để tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án và thụ lý giải quyết vụ việc. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010 là trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, bên yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc phải gửi đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài tới Tòa án có thẩm quyền. Sau khi nhận được đơn xin đăng ký phán quyết trọng tài thì Tòa án thực hiện việc đăng ký hoặc từ chối đăng ký phán quyết. Vì vậy, để có thể tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải yêu cầu đương sự chứng minh việc phán quyết trọng tài đã được đăng ký tại Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Trọng tài Thương mại thì hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ban hành phán quyết trọng tài, mà một hoặc các bên mới có đơn yêu cầu Tòa án đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc, thì Tòa án không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn yêu cầu đó, trường hợp có căn cứ cho thấy phán quyết trọng tài vụ việc đang được xem xét, giải quyết theo thủ tục yêu cầu hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án có thẩm quyền thì khi nhận được đơn yêu cầu đăng ký phán quyết trọng tài, Tòa án chưa thụ lý yêu cầu này để đợi kết quả giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.

Thông thường, trước khi nhận đơn yêu cầu của người được thi hành Phán Quyết Trọng Tài, cơ quan thi hành án dân sự có công văn đề nghị tòa án có thẩm quyền, nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết, nhằm xác nhận phán quyết trọng tài có bị Tòa án tuyên hủy hoặc có đơn yêu cầu hủy hay không, khi nhận được văn bản về việc người phải thi hành phán quyết trọng tài không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài hoặc nhận được quyết định không hủy phán quyết trọng tài thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ thông báo nhận đơn yêu cầu và thụ lý thi hành án, ra quyết định thi hành án và chỉ định chấp hành viên thực hiện. Trường hợp tòa án thông báo đã thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của người phải thi hành phán quyết trọng tài thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ trả lại đơn yêu cầu, hướng dẫn người được thi hành phán quyết trọng tài chờ kết quả giải quyết của tòa án. Đối với phán quyết của trọng tài vụ việc, bên được thi hành Phán Quyết Trọng Tài làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật Trọng tài thương mại. Theo Điều 8 Luật Trọng Tài Thương Mại năm 2010, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết. Trên thực tế các Trung tâm Trọng tài Thương mại thường tập trung tại các thành phố lớn là Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ chí Minh, các phán quyết trọng tài chủ yếu được ban hành tại các trung tâm trọng tài đặt tại hai thành phố này. Các doanh nghiệp thường có hoạt động kinh doanh trên cả nước, việc quy định cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể dẫn tới khó khăn cho các doanh nghiệp không có trụ sở kinh doanh tại hai thành phố này khi nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài. Điều 55 Luật Thi hành án dân sự ngày 29/6/2018 về ủy thác thi hành án thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết có thể lại phải ủy thác thi hành án đến nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở, dẫn đến thời gian tổ chức thi hành án bị kéo dài. Để việc thi hành phán quyết trọng tài hiệu quả, trong quá trình thi hành án, bên được thi hành phán quyết trọng tài cần phải hợp tác giải quyết cũng như cung cấp thông tin về người phải thi hành cũng như tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành để chấp hành viên có cơ sở xác minh xử lý thi hành theo quy định. Theo quy định pháp luật hiện nay, phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại được tổ chức thi hành theo trình tự thủ tục thi hành án dân sự, kể cả thủ tục cưỡng chế thi hành án. Thực tiễn, hoạt động thi hành án dân sự thời gian qua và hiện nay không có sự phân biệt việc thi hành phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại với thi hành bản án, quyết định của tòa án, hoàn toàn không có sự phân biệt cả trong hoạt động tác nghiệp và tâm lý của chấp hành viên.

II/ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TẠI NƯỚC NGOÀI

Công ước 1958 được Liên Hiệp Quốc thông qua vào ngày 10/6/1958 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 7/6/1959, Công ước có tổng cộng 16 điều, trong đó 9 điều quy định về các thủ tục gia nhập, ký kết, phê chuẩn của các quốc gia thành viên, về hiệu lực của công ước, các điều còn lại quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, việc từ bỏ tham gia công ước, việc sử dụng công ước của các quốc gia và trách nhiệm của Liên Hợp quốc trong việc trển khai thi hành công ước. Công ước này áp dụng đối với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của một Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng cho những quyết định trọng tài không được coi là quyết định trong nước tại Quốc gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu, thuật ngữ “các quyết định trọng tài” bao gồm không chỉ những quyết định ra bởi các Trọng tài viên được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm những quyết định ra bởi các tổ chức trọng tài thường trực được các bên đưa vụ việc ra giải quyết, khi ký kết, phê chuẩn, hoặc gia nhập Công ước này, hoặc thông báo phạm vi áp dụng Công ước theo điều X, bất kỳ Quốc gia nào cũng có thể trên cơ sở có đi có lại tuyên bố rằng Quốc gia đó sẽ áp dụng Công ước đối với việc công nhận và thi hành các quyết định được đưa ra tại lãnh thổ một Quốc gia thành viên khác mà thôi. Quốc gia đó còn có thể tuyên bố chỉ áp dụng Công ước cho các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp lý, dù là quan hệ hợp đồng hay không. Được coi là quan hệ thương mại theo pháp luật quốc gia của Quốc gia đó, mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài. Thuật ngữ “thoả thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thoả thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc được ghi trong thư tín trao đổi, Toà án của một Quốc gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà đối với vấn đề đó các bên đã có thoả thuận theo nội dung của điều này, sẽ, theo yêu cầu của một bên, đưa các bên tới trọng tài, trừ khi Toà án thấy rằng thoả thuận nói trên không có hiệu lực, không hiệu quả hoặc không thể thực hiện được. Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận các quyết định trọng tài có giá trị ràng buộc và thi hành chúng theo quy tắc về thủ tục của lãnh thổ nơi quyết định sẽ được thi hành, theo các điều kiện được nêu trong các điều khoản dưới đây. Không được đặt các điều kiện về căn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so với việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài trong nước. Để đạt được việc công nhận và thi hành một quyết định trọng tài như nói ở trên, bên yêu cầu công nhận và thi hành, khi nộp đơn yêu cầu phải cung cấp: Bản quyết định gốc có xác nhận hợp lệ hoặc một bản sao quyết định có chứng nhận hợp lệ, thỏa thuận gốc hoặc bản sao thỏa thuận đó được chứng nhận hợp lệ, nếu quyết định hoặc thỏa thuận nói trên không được lập bằng thứ tiếng chính thức của nước nơi quyết định sẽ được thi hành, bên yêu cầu công nhận và thi hành quyết định phải xuất trình bản dịch các tài liệu đó ra thứ tiếng chính thức của nước nơi quyết định sẽ được công nhận và thi hành. Bản dịch phải được chứng nhận bởi một thông dịch viên chính thức hay đã tuyên thệ hoặc bởi một cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự.

Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng các bên của thỏa thuận như trên, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực, hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định, hoặc nếu bên phải thi hành quyết định không được thông báo thích đáng về việc chỉ định trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác không thể trình bày vụ việc của mình, hoặc Quyết định giải quyết một tranh chấp không được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc quyết định trọng tài gồm các quyết định về các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu xét xử bằng trọng tài, tuy nhiên, nếu các quyết định về các vấn đề được yêu cầu xét xử bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết định về các vấn đề không được yêu cầu, thì phần của quyết định trọng tài gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được công nhận và thi hành, hoặc thành phần trọng tài xét xử hoặc thủ tục xét xử trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước tiến hành trọng tài, hoặc Quyết định chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình hoãn bởi cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định được lập. Việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài còn có thể bị từ chối nếu như cơ quan có thẩm quyền của nước, nơi việc công nhận và thi hành đó được yêu cầu cho rằng đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo luật pháp của nước đó, hoặc việc công nhận và thi hành quyết định sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó.

Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức các phán quyết trọng tài của Trọng tài Thương mại Việt Nam được công nhận và cho thi hành tại nước ngoài theo Công ước New York 1958 như nêu trên. Tuy nhiên Bên được thi hành phán quyết trọng tài của Trọng tài Thương mại Việt Nam có thể nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài tại Cục thi hành án dân sự có thẩm quyền cũng theo thủ tục hồ sơ như trên, Cục thi hành án dân sự có thẩm quyền sẽ chuyển hồ sơ qua Bộ Tư Pháp Việt Nam, chuyển tiếp đến Tòa án nơi Bên phải thi hành phán quyết trọng tài đặt trụ sở hay có tài sản để Tòa án sở tại ra Trát tòa (Với các quốc gia theo hệ thống Thông luật) hoặc bản án (Với các quốc gia theo hệ thống Dân luật hay Luật châu Âu lục địa) công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài theo quy định của Công ước New York 1958 như đã trình bày ở trên. Hoặc Bên được thi hành phán quyết trọng tài của Trọng tài Thương mại Việt Nam có thể nộp đơn yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trực tiếp tại Tòa án sở tại nơi Bên phải thi hành phán quyết trọng tài đặt trụ sở hay có tài sản để Tòa án sở tại ra Trát tòa (Với các quốc gia theo hệ thống Thông luật) hoặc bản án (Với các quốc gia theo hệ thống Dân luật hay Luật châu Âu lục địa) công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài, cũng có thể ủy thác cho các công ty Luật Việt Nam thực hiện việc này. Hiện nay các công ty Luật Việt Nam cũng có nhiều chi nhánh và văn phòng tại nước ngoài sẽ hỗ trợ các Doanh nghiệp Việt Nam trong việc yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Việt Nam tại nước ngoài.

III/ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Ngày 28/7/1995, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Quyết định số 453/QĐ-CTN về việc tham gia Công ước về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Được biết cho đến nay đã có khoảng 156 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia Công ước 1958.

Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do trong đó đều có chương riêng về giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài, 37 Hiệp định về tương trợ tư pháp (Bao gồm dẫn độ, hình sự, lao động , gia đình, dân sự, thương mại), trong đó bao gồm 18 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự đề cập đến quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài.

Trong các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết thời gian gần đây cũng quy định đối với việc công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài thực hiện theo các quy định của Công ước này. Nội dung Công ước 1958 quy định các nước thành viên phải công nhận các phán quyết Trọng tài được đưa ra ngoài lãnh thổ của họ và các phán quyết không được coi là phán quyết trong nước của các nước thành viên. Các phán quyết Trọng tài nước ngoài sẽ được thi hành như những quyết định của Toà án địa phương và hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành phán quyết.

Như đã trình bày, phán quyết trọng tài thương mại nước ngoài là phán quyết được tuyên tại Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài đó, việc công nhận và thi hành các quyết định trọng tài được ban hành tại Quốc gia khác với Quốc gia nơi có yêu cầu công nhận và thi hành quyết định trọng tài đó, xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân tại lãnh thổ của một quốc gia thành viên của Công ước New York 1958.

Bên được thi hành phán quyết trọng tài gửi yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài tại nước ngoài đến Bộ Tư pháp Việt Nam hoặc Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam để yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết trọng tài đó. Thời hạn để gửi yêu cầu là 05 năm kể từ ngày phán quyết của Trọng tài có hiệu lực pháp luật. Khi gửi yêu cầu, bên được thi hành phán quyết trọng tài phải gửi kèm theo hồ sơ, giấy tờ, tài liệu quy định như đã nêu trên, trường hợp không có điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế không quy định thì phải có hồ sơ, tài liệu gồm bản chính hoặc bản sao có chứng thực phán quyết của Trọng tài, bản chính hoặc bản sao có chứng thực thỏa thuận trọng tài giữa các bên, các loại giấy tờ này đều phải được dịch sang tiếng Việt, có công chứng, chứng thực hợp pháp.

Trường hợp yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài tại nước ngoài đến Bộ Tư pháp Việt Nam, Bộ Tư pháp sẽ chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền để xem xét và tiến hành nghiên cứu, xử lý hồ sơ. Trình tự, thủ tục quy định tại Bộ Luật tố tụng dân sự 2015. Sau khi xem xét, Tòa án sẽ quyết định công nhận và cho thi hành hoặc không công nhận tại Việt Nam phán quyết trọng tài nước ngoài trên. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ra các quyết định trên, Tòa án gửi các quyết định cho các Bên tranh chấp hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát cùng cấp. Ngoài những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 459 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015 thì Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài, việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết trên trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Sau khi có quyết định của Tòa án có thẩm quyền tại Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật, Bên được thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài nộp đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Cục thi hành án dân sự theo thủ tục thi hành án dân sự như đã nêu trên./.

Th.s Vũ Trọng Khang, Trọng tài viên Trung Tâm Trọng Tài Thương Mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT)