Đồng nghĩa có hai dạng, đó là hiện tượng đồng nghĩa cố định và hiện tượng đồng nghĩa lâm thời. Đồng nghĩa cố định là hiện tượng chỉ xảy ra giữa các đơn vị có sẵn trong hệ thống ngôn ngữ. Chẳng hạn để biểu thị hành động đưa thức ăn vào miệng để nuôi sống cơ thể. Tiếng Việt có rất nhiều từ đồng nghĩa như: ăn, xơi, xực, chén, táp, đớp... đây là những đơn vị từ vựng thuộc cấu trúc có sẵn trong Từ điển đồng nghĩa, mang tính chất cố định, chỉ khác về mặt phong cách chức năng và phạm vi sử dụng. Đồng nghĩa lâm thời là hiện tượng không có sẵn trong cấu trúc ngôn ngữ mà được hình thành trong từng văn bản (ngôn cảnh) cụ thể. Đặt ngoài ngôn cảnh (văn cảnh) hiện tượng đồng nghĩa lâm thời không tồn tại. Chẳng hạn có bài ca dao sau: Em như con hạc đầu đình Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay Trong ví dụ này, cụm từ “con hạc đầu đình” lâm thời chỉ người con gái. Vậy tại sao lại dùng hình ảnh “con hạc đầu đình” mà không phải là một hình ảnh khác để chỉ “em”? Tác giả dân gian đã lấy một đặc điểm cơ bản của “con hạc đầu đình” đó là nó làm bằng đá, lẽ dĩ nhiên là nó không bay được. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng vậy không được tự do quyết định số phận của mình. Họ bị bó buộc, giam hãm cho nên nói như câu ca dao trên đã nói “muốn bay không nhấc nổi mình mà bay”. Như vậy, chỉ trong văn cảnh này, người đọc mới hiểu con hạc đầu đình để chỉ số phận người phụ nữ. Đó chính là hiện tượng đồng nghĩa lâm thời trong ca dao. Phương thức thể hiện của đồng nghĩa lâm thời trong ca dao rất đa dạng bao gồm ẩn dụ tu từ, so sánh tu từ, nhân cách hóa, hoán dụ tu từ. Trong đó, phương thức ẩn dụ tu từ và phương thức so sánh tu từ được sử dụng cao nhất. Tác giả Nguyễn Phan Cảnh trong công trình “Ngôn ngữ thơ” cũng đã cho rằng: “Ca dao lấy việc khai thác các đồng nghĩa lâm thời làm phương tiện biểu hiện cơ bản nghĩa là làm việc chủ yếu bằng hệ lựa chọn vì thế hình tượng ngôn ngữ ca dao trước hết là hình tượng ẩn dụ tính. Điều đó giải thích vì sao số các ẩn dụ trong ca dao lại lớn đến thế. Có thể nói không quá rằng mỗi câu ca dao nhất là ca dao tình yêu nam nữ, đều là một cấu trúc ẩn dụ”. Ví dụ: Anh nói em cũng nghe anh, Bát cơm đã trót chan canh mất rồi ! Nuốt đi đắng lắm anh ơi, Bỏ ra thì để tội trời ai mang... Chắc chắn không một người con trai nào sau khi nghe cái thông báo ấy lại đi hỏi người con gái những câu đại loại như “Bát cơm đã trót chan canh” nghĩa là gì”? Tại sao “nuốt” lại “đắng”, bỏ một chén canh thì đến mức gì phải “tội trời”. Nội dung của bài ca dao trên không nói chuyện “cơm” “canh” mà là sự than thân của một cô gái đã lấy chồng nhưng không được như ý muốn. “Bát cơm” lâm thời chuyển đổi để nói đến đời em, “chan canh” lâm thời chuyển đổi để nói đến chồng con. Ngoài văn cảnh này, cách liên tưởng như trên không hề tồn tại. Ngoài phương thức ẩn dụ thì so sánh tu từ cũng được sử dụng tương đối nhiều. Ca dao thường dùng nhiều hình ảnh để nói lên cái đẹp, cũng có khi nói về cái xấu nhưng lại không nói thẳng. Nhờ so sánh tu từ mà ca dao dù trong sáng, giản dị vẫn rất hàm súc. Chẳng hạn, người con gái không được chủ động trong hôn nhân đã tự ví mình: Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Ví dụ này có quy tắc: A như B, trong đó A là vế được so sánh và B là vế so sánh. “Hạt mưa sa”(B) lâm thời chỉ “Thân em”(A). Ngoài văn cảnh này không có mối liên hệ nào để nói hạt mưa sa là của em cả. Giá trị tu từ của hiện tượng đồng nghĩa lâm thời cũng được biểu hiện trên nhiều phương diện: Thứ nhất, hiện tượng đồng nghĩa lâm thời giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về đối tượng miêu tả. Cùng nói về một đối tượng là thân phận người phụ nữ nhưng ở mỗi bài ca dao dưới đây lại có cách biểu đạt khác nhau, cho chúng ta những liên tưởng tương đồng không giống nhau: Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân Thân em như miếng cau khô Người thanh tham mỏng, người thô tham dày. Để làm nổi bật hoàn cảnh đáng thương tội nghiệp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tác giả dân gian đã lựa chọn hàng loạt các hình ảnh như “giếng giữa đàng”, “miếng cau khô”, “hạt mưa sa”... Giữa chúng có khác nhau về mặt ý nghĩa nhưng qua hình ảnh gợi cảm đó ta thấy nổi bật lên thân phận của những người phụ nữ nhỏ bé tội nghiệp và hoàn toàn bị động trong tình yêu. Thứ hai, hiện tượng đồng nghĩa lâm thường bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, tính cách, sự đánh giá của người nói nhưng đồng thời cũng “khêu gợi” tình cảm, cảm xúc nơi người đọc. Ví dụ: Gà tơ xào với mướp già Vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi. Ra đường, chị giễu, em cười, Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng... Hình ảnh “gà tơ” và “mướp già” có sức gợi tả lớn. Đây là cách sử dụng đồng nghĩa lâm thời rất độc đáo. “Gà tơ” lâm thời chỉ cô gái còn trẻ lại đẹp và đầy sức sống. Một cô gái như thế lại đi lấy “mướp già” - một ông chồng già nua bằng tuổi ông mình. Cô gái xót xa lại càng xót xa hơn khi “Ra đường, chị giễu, em cười”. Rõ ràng, chỉ với hai hình ảnh ẩn dụ “gái tơ” và “mướp già” tác giả dân gian đã bày tỏ cảm xúc của mình một cách mãnh liệt qua từng lời thơ, hình tượng thơ. Bài ca dao tuy chân thật, mộc mạc nhưng lại gợi cho người đọc biết bao cảm xúc. Thứ ba, hiện tượng đồng nghĩa lâm thời mang đến giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm. Để bày tỏ tình yêu, ông cha ta đã sử dụng những lời nói ý nhị, kín đáo, cách nói ví von nhưng không phải vì thế mà kém phần thắm thiết mà trái lại chính sự trau chuốt trong lời ăn tiếng nói này lại đem đến giá trị thẩm mỹ cao cho những bài ca dao. Đến đây Mận mới hỏi Đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì Đào xin thưa Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. Hình ảnh “Mận” “Đào” trong trường hợp này lâm thời chỉ cô gái và chàng trai. Và câu chuyện giữa họ không chỉ là câu chuyện thăm hỏi bình thường mà là một lời tỏ tình thật dễ thương. Bài ca dao đã giữ lại cho chúng ta thấy một tình cảm trong sáng, lành mạnh và tế nhị trong cách tỏ tình của đôi lứa ngày xưa. Khánh Yên - Triều Nguyên Chính phủ lâm thời, cũng gọi là Chính phủ tạm thời hoặc Chính phủ chuyển tiếp, là một cơ quan chính phủ khẩn cấp được thành lập để quản lý quá trình chuyển đổi chính trị, thường trong các trường hợp của các quốc gia mới thành lập hoặc sau sự sụp đổ của chính quyền cai trị trước đó. Các chính quyền tạm thời thường được bổ nhiệm, và thường xuyên phát sinh, trong hoặc sau các cuộc chiến dân sự hay chống ngoại xâm.
Chính phủ lâm thời duy trì quyền lực cho đến khi một chính phủ mới có thể được chỉ định bởi 1 quá trình chính trị thường xuyên, mà nói chung là 1 cuộc bầu cử.[1] Họ có thể tham gia vào việc xác định cấu trúc pháp lý của các chế độ, hướng dẫn liên quan đến quyền con người và quyền tự do chính trị, cấu trúc của nền kinh tế, tổ chức chính phủ và sự liên kết quốc tế.[2] Các chính quyền lâm thời khác với các chính phủ tạm quyền, chịu trách nhiệm quản lý trong 1 hệ thống nghị viện được thành lập và là cơ quan tạm quyền sau khi chính phủ trước đó bị giải thể do bất tín nhiệm, hoặc sau khi liên minh cầm quyền bị giải thể.[2] Theo ý kiến của Yossi Shain và Juan J. Linz, các chính phủ lâm thời có thể được phân loại thành 4 nhóm:[3]
Việc thành lập các chính phủ lâm thời thường xuyên gắn liền với việc thực hiện công lý chuyển tiếp.[4] Các quyết định liên quan đến công lý chuyển tiếp có thể xác định ai được phép tham gia vào 1 chính phủ lâm thời.[5] Các chính phủ lâm thời ban đầu được tạo ra để chuẩn bị cho sự trở lại của quy tắc hoàng gia. Các hội đồng bất thường triệu tập trong Cách mạng Anh, chẳng hạn như Liên minh Ireland (1641-1649), được mô tả là "tạm thời". Các Quốc hội Lục địa, 1 quy ước của đại biểu đến từ 13 thuộc địa của Anh trên bờ biển phía đông của Bắc Mỹ trở thành chính phủ lâm thời của nước Mỹ vào năm 1776, trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Chính phủ đã đưa ra tình trạng tạm thời vào năm 1781, sau khi phê chuẩn các Điều khoản Liên bang, và tiếp tục cho đến khi nó được thay thế bởi Quốc hội Hoa Kỳ năm 1789. Việc thực hành sử dụng "chính phủ lâm thời" như 1 phần của tên chính thức có thể được truy nguồn từ chính phủ của Talleyrand ở Pháp năm 1814. Năm 1843, những người tiên phong của Mỹ ở quốc gia Oregon, khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương Bắc Mỹ đã thành lập Chính phủ lâm thời Oregon - chính phủ liên bang Hoa Kỳ chưa mở rộng thẩm quyền của mình trong khu vực - tồn tại cho đến tháng 3/1849. Nhiều chính phủ lâm thời trong cuộc cách mạng năm 1848 đã đưa ra ý nghĩa hiện đại của nó: 1 chính phủ tự do được thành lập để chuẩn bị cho cuộc bầu cử. Nhiều chính phủ lâm thời đã được thành lập từ những năm 1850, bao gồm:
|