Dấu kernig là gì

+ Màng cứng (dura mater); là một màng xơ dày, dính chặt vào mặt trong xương sọ và gồm có hai lá. Trong khoang sọ hai lá này dính với nhau, chúng chỉ tách ra ở những chỗ tạo thành xoang tĩnh mạch.

+ Màng nhện (arachnoidea): là một màng mỏng, gồm những sợi lỏng lẻo. Màng nhện nằm sát mặt trong của màng cứng.

+ Màng nuôi hay còn gọi là màng mềm (pia mater): dính sát tổ chức não, có nhiều mạch máu. Giữa màng nhện và màng nuôi có khoang dưới nhện chữa dịch não tuỷ.

  • Chức năng của màng não là bao quanh và bảo vệ não bộ, tuỷ sống cũng như phần đầu của các dây thần kinh sọ não.

Khi màng não bị tổn thương do nhiều nguyên nhân khác nhau, trên lâm sàng sẽ thấy biểu hiện của hội chứng màng não (meningismus). Trước khi khám tìm các triệu chứng khách quan của hội chứng màng não, người thầy thuốc cần xác định xem bệnh nhân có các triệu chứng cơ năng của hội chứng màng não không? Các triệu chứng đó là: đau đầu, nôn, táo bón, tăng cảm toàn thân. Tuy nhiên, ở người già, trẻ em và bệnh nhân hôn mê mặc dù có kích thích màng não nhưng các dấu hiệu thường biểu hiện không rõ hoặc thậm chí không có.

KHÁM HỘI CHỨNG MÀNG NÃO

Quan sát

Tư thế cò súng: các trường hợp có hội chứng màng não điển hình ta sẽ quan sát thấy bệnh nhân nằm ở tư thế màng não (bệnh nhân nằm nghiêng, đầu ngửa ra sau, hai tay co, hai đầu gối co sát bụng, lưng cong ra sau).

Khám các dấu hiệu màng não

Dấu hiệu cứng gáy (nucheal Rigidity)

  • Cần phân biệt dấu hiệu cứng gáy với dấu hiệu cứng cổ (cervlcal rigidity).

Cách khám: bệnh nhân nằm ngửa, thầy thuốc đặt một tay sau gáy, tay còn lại đặt nhẹ trên ngực bệnh nhân và thực hiện động tác gấp thụ động đầu bệnh nhân ra trước (hình 2.51).

Bình thường cằm bệnh nhân đưa sát được vào ngực.

Nghiệm pháp dương tính biểu hiện:

+ Cằm bệnh nhân không đưa sát được vào ngực.

+ Bệnh nhân thấy đau sau gáy (bệnh nhân nhăn mặt vì đau).

Dấu kernig là gì

Dấu hiệu Kernig

Cách khám:

  • Tư thế bệnh nhân: nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng (hình 2.52).

Dấu kernig là gì

  • Thầy thuốc đặt một chân bệnh nhân ở thư thế đùi vuông góc với mặt giường, cẳng chân vuông góc với đùi (khớp gối tạo thành góc 90°). Tiếp theo, giữ nguyên tư thế của đùi và nâng cẳng chân bệnh nhân lên theo hướng thẳng với đùi (mở khớp gối dần đến 180°), tới mức không mở được nữa thì thôi. Đo góc tạo bởi đùi và cẳng chân bệnh nhân (góc mở của khớp gối). Sau đó khám tiếp chân bên đối diện.
  • Đánh giá kết quả: bình thường góc này là 180°.

Trong trường hợp có hội chứng màng não, góc Kernig này sẽ nhỏ hơn 180°. Khi ghi trong bệnh án tốt nhất nên ghi góc Kernig, ví dụ: dấu hiệu Kernig 135°.

Dấu hiệu Brudzinski

Dấu hiệu Brudzinski trên

Cách khám:

+ Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, tư thế thoải mái.

+ Thầy thuốc đặt một tay sau gáy bệnh nhân và nhẹ nhàng gấp đầu bệnh nhân vào ngực.

Đánh giá kết quả: bình thường có thể gấp cổ lại dễ dàng, nhẹ nhàng và hai chân bệnh nhân vẫn duỗi thẳng.

Dấu hiệu dương tính biểu hiện: bệnh nhân gấp và khép chân lại.

Dấu hiệu Brudzinski dưới (hay đối bên)

  • Cách khám:

+ Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng.

+ Thầy thuốc gấp cẳng chân một bên của bệnh nhân vào đùi và gấp đùi bên đó vào bụng, chân còn lại vẫn duỗi thẳng (hình 2.53b).

  • Kết quả bình thường: chân còn lại vẫn giữ nguyên tư thế.
  • Dấu hiệu dương tính khi: chân bên đối diện co lại

Dấu kernig là gì

Gấp đùi một bên của bệnh nhân vào bụng, nghiệm pháp dương tính khi chân bên đối diện co lại
Dấu hiệu Brudzinski mu

  • Cách khám:

+ Bệnh nhân nằm ngừa, hai chân duỗi thẳng thoải mái.

+ Thầy thuốc dùng ngón tay cái của mình ấn mạnh trên xương mu của bệnh nhân.

Đánh giá kết quả: bình thường hai chân bệnh nhân vẫn duỗi thẳng.

Dấu hiệu dương tính khi: hai chân bệnh nhân khép và co lại.

Dấu hiệu vạch màng não (dấu hiệu Trousseau)

Đây là dấu hiệu phản ánh tình trạng rối loạn vận mạch không đặc hiệu. Bản thân dấu hiệu có độ nhậy và độ đặc hiệu không cao trong hội chứng màng não.

  • Cách khám:

Bệnh nhân nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, bộc lộ vùng bụng.

Thầy thuốc dùng kim đầu tù vạch các đường trên da bụng bệnh nhân ở cả hai bên (thường vạch theo các đường: đường núm vú, đường nối hai cung sườn và đường nối hai xương chậu).

các Dấu hiệu Kernig đó là một triệu chứng xảy ra ở những bệnh nhân bị viêm màng não hoặc xuất huyết dưới nhện. Trong những trường hợp này, bệnh nhân không thể mở rộng đầu gối bằng cách gập đùi ở hông, ở góc 90 độ.

Dấu hiệu này mang tên ông để vinh danh nhà thần kinh học người Nga Vladimir Mikhailovich Kernig (1840-1917), người đã ghi lại tín hiệu này sau khi quan sát nó ở một số bệnh nhân bị viêm màng não. Nghiên cứu của ông được công bố từ năm 1882 đến 1884.

Dấu kernig là gì

Dấu hiệu Kernig xảy ra vì trong quá trình viêm màng não, màng não bị viêm, đó là màng bao phủ hệ thống thần kinh trung ương, bao quanh não và tủy sống. Điều này gây ra cứng cổ và cơ cổ. Các triệu chứng khác liên quan đến căn bệnh này là chứng sợ ánh sáng và đau đầu rất nhiều.

Khả năng nhận biết dấu hiệu của Kernig, cùng với các dấu hiệu lâm sàng khác của viêm màng não, đạt được đánh giá nhanh chóng và hiệu quả bằng cách biết lịch sử của bệnh nhân, rất hữu ích để hướng dẫn điều tra đầy đủ và điều trị cụ thể.

Khám phá lâm sàng dấu hiệu Kernig

Dấu kernig là gì

Để kiểm tra sự hiện diện của dấu hiệu của Kernig, bệnh nhân nên được đặt ở tư thế nằm ngửa. Trong tư thế này, người dễ dàng kéo dài chân.

Trong trường hợp được ngồi, hoặc với đầu gối ấn vào ngực, phần mở rộng của đầu gối chỉ đạt 135 độ và nếu nó tiếp tục được ấn, nó rất đau cho bệnh nhân.

Ngoài sự khó chịu này, khi cố gắng kéo dài chân, bệnh nhân cũng cảm thấy đau ở vùng thắt lưng.

Nguyên nhân

Dấu kernig là gì

Viêm màng não gây ra co thắt khó chịu ở cơ gân kheo kéo dài hông và uốn cong đầu gối. Các cơ gân kheo được chèn vào xương chậu và xương chày, có vai trò chính trong việc mở rộng đùi và uốn cong của chân.

Các giả thuyết đầu tiên cho rằng chứng tăng trương lực cơ của các thành viên bên trong cơ thể, cùng với ưu thế sinh lý của các cơ duỗi của cổ và lưng, trên các cơ bắp uốn cong của chi dưới, là lời giải thích của dấu hiệu Kernig..

Dấu kernig là gì

Sau đó, người ta đã phát hiện ra rằng dấu hiệu Kernig là một phản ứng bảo vệ để ngăn ngừa đau hoặc co thắt cơ gân kheo, gây ra bởi sự kéo dài của rễ thần kinh bị viêm và quá mẫn cảm..

Đây là lý do tại sao ở bệnh nhân cũng có sự bất cân xứng của dấu hiệu của Kernig. Kích thích màng não cũng tạo ra các triệu chứng của bệnh liệt nửa người, tức là yếu ở một bên của cơ thể.

Đây thường là một biến chứng thứ phát rất phổ biến trong các trường hợp chấn thương hoặc viêm tủy sống - như trong viêm màng não.

Hữu ích trong thực hành lâm sàng

Theo bài báo gốc của bác sĩ nhi khoa người Ba Lan Josef Brudzinski (1874-1917) - người cũng đã mô tả 4 thao tác chẩn đoán lâm sàng bệnh viêm màng não - "Uber die kontralonymousen Reflexe an den unteren Extremitatenbei viêm màng não ở trẻ em "; Dấu hiệu của Kernig được tìm thấy trong khoảng 57% trường hợp viêm màng não.

Dấu hiệu của Kernig, cùng với các dấu hiệu của Brudzinski, dựa trên tình trạng viêm màng não và viêm rễ thần kinh. Do đó, viêm tăng làm tăng sự hiện diện của các dấu hiệu lâm sàng, như trong trường hợp viêm màng não do vi khuẩn.

Một nghiên cứu khác được thực hiện vào năm 1991 bởi các nhà nghiên cứu của Uchihara và Tsukagoshi, đã chứng minh độ nhạy cảm 9% với dấu hiệu của Kernig và độ đặc hiệu 100% trong chẩn đoán viêm màng não.

Tuy nhiên, những dấu hiệu này thường gặp hơn ở trẻ em và bệnh nhân bị viêm từ trung bình đến nặng, mà không chứng minh mức độ nghiêm trọng của bệnh..

Ngoài ra, dấu hiệu Kernig có thể vắng mặt ở trẻ sơ sinh hoặc bệnh nhân rất cao tuổi, cũng như bệnh nhân bị ức chế miễn dịch hoặc hôn mê. Điều này sẽ dẫn đến việc xem xét các phương pháp chẩn đoán viêm màng não khác ở loại người này, vì thực tế là nó không có mặt không phải là nguyên nhân để loại trừ viêm màng não.

Tuy nhiên, do tính đặc hiệu của nó, dấu hiệu Kernig bên cạnh dấu hiệu Brudzinski thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng và chẩn đoán y khoa là dấu hiệu bệnh lý của viêm màng não..

Viêm màng não

Dấu kernig là gì

Viêm màng não là một bệnh có thể gây tử vong nếu bạn không được điều trị nhanh chóng và đầy đủ. Viêm màng não có thể là vi khuẩn hoặc virus.

Viêm màng não do vi khuẩn là cấp tính hơn và có thể gây tử vong trong vòng vài giờ. Viêm màng não do virus nói chung là những trường hợp nhẹ hơn, chủ yếu là do enterovirus hoặc virus herpes.

Là một bệnh nghiêm trọng, chẩn đoán sớm và chính xác là điều cần thiết. Đây là lý do tại sao dấu hiệu Kernig, cùng với dấu hiệu Brudzinski, rất quan trọng, vì chúng cho phép phát hiện nhanh chóng và chính xác tình hình của một bệnh nhân bị viêm màng não..

Viêm màng não đã được ghi nhận từ thời cổ đại. Vào đầu thế kỷ XV trước khi Christ Hippocrates dạy rằng "Nếu trong một cơn sốt, trục cổ đột nhiên vặn và nuốt được thực hiện một cách khó khăn mà không có khối u, đó là một tín hiệu gây tử vong".

Viêm màng não như vậy được mô tả cụ thể bởi bác sĩ người Anh Thomas Willis (1621-1675) và bởi nhà giải phẫu học và bệnh lý học người Ý Battista Morgagini (1682-1771). Dịch bệnh viêm màng não do vi khuẩn đầu tiên được ghi nhận ở châu Mỹ là vào năm 1806, trong đó khám nghiệm tử thi cho thấy sự hiện diện của mủ giữa màng não của mater dura và pia mater, xác nhận chẩn đoán.

Đây là tầm quan trọng của việc phát hiện ra dấu hiệu rõ ràng và cụ thể của bệnh viêm màng não như Kenrig's. Bác sĩ người Nga lần đầu tiên mô tả dấu hiệu này vào năm 1882, tại Saint Petersburgh Mediznische Wochenschrift, khi kiểm tra bệnh nhân ngồi, ông phát hiện ra rằng ông không thể mở rộng đầu gối mà không khiến họ đau.

Cho đến ngày nay, ngay cả với tất cả những tiến bộ công nghệ, cộng đồng y tế vẫn chưa phát hiện ra các xét nghiệm khác thay thế các dấu hiệu vật lý này của viêm màng não..

Một kết quả tích cực của những dấu hiệu này là một dấu hiệu để bắt đầu điều trị bằng kháng sinh, làm tăng cơ hội phục hồi thành công căn bệnh này cho phép trở lại cuộc sống bình thường.

Sự đóng góp của bác sĩ Kernig sẽ luôn được ghi nhớ vì tầm quan trọng nhất đối với việc điều trị một căn bệnh có tỷ lệ tử vong cao như viêm màng não..