Đánh giá tâm lý học lao động

  1. Xã hội - Tổ chức subdirectory_arrow_left
  2. Tâm lý học lao động
  • Giới thiệu
  • Chương 1

1. Khái niệm lao động

Để hiểu rõ hơn đối tượng của tâm lí học lao động (TLHLĐ) và quá trình phát triển của nó, trước hết chúng ta phải định nghĩa khái niệm lao động và phân tích nó một cách toàn diện.

Hiểu theo nghĩa rộng, lao động là một hoạt động thực tiễn nào đó do con người tiến hành theo một nhiệm vụ xác định, nhằm đạt được một mục đích nhất định. Trong tác phẩm kinh điển "Vai trò của lao động trong quá trình chuyển hoá từ vượn thành người", Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng: "lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người... lao động đã sáng tạo ra bản thân con người. [C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 20, 641]

C.Mác đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về lao động và vai trò của nó trong sự hình thành con người như sau: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên...". [C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 23, 266]

Có thể xem xét khái niệm "lao động" ở nhiều góc độ khác nhau để hiểu rõ hơn nội dung của nó.

Trước hết, lao động của con người có tính chất xã hội. Ngay từ đầu, lao động của con người đã là công việc của những nhóm xã hội chứ không do một cá nhân riêng lẻ thực hiện và mục đích của bất kỳ hình thức lao động nào cũng có tính chất xã hội. Trong tác phẩm "Tư bản", C.Mác đã xác định bản chất xã hội và mục đích chung của lao động như sau: "Lao động là một hoạt động có mục đích để tạo ra những giá trị sử dụng".

Xét về phương diện sinh lí học, theo ý kiến của C.Mác: "Dù các dạng lao động có ích có khác nhau như thế nào, dù những hoạt động sản xuất có khác nhau đến đâu thì về phương diện sinh lí học, đó vẫn là những chức năng của cơ thể con người và mỗi một chức năng ấy, dù nội dung và hình thức của nó như thế nào về thực chất vẫn chỉ là sự tiêu hao não, thần kinh, cơ bắp và các cơ quan cảm giác...". [Phạm Tất Dong, Tâm lý học lao động - Tài liệu dùng cho học viên cao học, viện KHGD, 1979]

Việc hiểu bản chất xã hội và bản chất sinh lí học của lao động giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất tâm lí của lao động bởi vì cái tâm lí trong lao động không thể tách rời và cô lập với những hiểu biết về những bản chất đó.

Trong lao động cái tâm lí chung nhất được bộc lộ ra là tính tích cực, tính mục đích, là những hình ảnh nảy sinh trong đầu con người mà nhờ nó con người xác định được kết quả hoạt động của mình.

Dù hoạt động lao động có khác nhau về mục đích, đối tượng, công cụ và điều kiện như thế nào chăng nữa, bao giờ nó cũng gồm hai cơ chế đặc thù: trước hết đó là quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất của con người. Nói cho cùng, mọi sản phẩm lao động đều là những biểu hiện cụ thể của tài năng, đức độ, tình cảm... con người. Cái tâm lí đã hoá thân vào toàn bộ thế giới đồ vật do con người tạo ra. Kết quả của quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất con người trong lao động là loài người có được một nền văn hoá xã hội - lịch sử ngày càng phát triển. Đến lượt mình, nền văn hoá đó lại là hiện thân trực tiếp của sự tiến hoá của loài người - một hình thức tiến hoá đặc thù ở loài người - sự tiến hoá theo quy luật xã hội – lịch sử. Lao động của con người cứ từng bước thay đổi thế giới đồ vật xung quanh họ. Cứ mỗi thay đổi được ghi dấu trong thế giới đồ vật này đều có thể được coi như là một điều kiện góp phần vào việc tạo ra những bước phát triển của loài người.

Song, để thực hiện được quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất của mình, con người lại phải sử dụng công cụ lao động (mà công cụ lại là kết quả của quá trình đối tượng hóa nói trên). Phải nắm được cách thức sử dụng công cụ lao động thì lúc đó công cụ mới tồn tại với đúng tư cách là một công cụ. Người ta phải học cách sử dụng công cụ. Thực chất của quá trình học cách sử dụng công cụ là sự lĩnh hội cái tâm lí chứa bên trong công cụ đó. Ta gọi quá trình này là sự người hoá sức mạnh bản chất của con người trong lao động.

2. Cấu trúc của hoạt động lao động

Hoạt động lao động là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học trong đó có tâm lí học. Đối với các nhà tâm lí học, điểm cơ bản trong lao động mà họ quan tâm là tính mục đích, tính tự giác, tính tích cực của con người. Hoạt động lao động là sự thống nhất của cái tâm lí và cái sinh lí. Trong khái niệm hoạt động lao động, những hiện tượng tinh thần (động cơ, mục đích, hứng thú,...) bạo giờ cũng ở trong một thể thống nhất hữu cơ với những biểu hiện bề ngoài của chúng là những vận động thực hiện. Vì vậy, phải nghiên cứu hoạt động lao động với đầy đủ những thành phần nêu trong cấu trúc của nó.

Hoạt động lao động là một dạng hoạt động đặc biệt của con người. Khi tiến hành lao động, con người sử dụng công cụ, phương pháp, cách thức và nghệ thuật sử dụng công cụ được gọi là thuật lao động.. Hoạt động lao động của con người bao giờ cũng nhằm đạt được một mục đích nhất định do họ tự giác đặt ra.

Mục đích của hoạt động lao động là hình ảnh về kết quả công việc sắp được tiến hành. Hình ảnh đó tồn tại trong đầu óc con người trước khi họ thực sự bắt tay vào công việc. Mục đích lao động nảy sinh trong ý thức trên cơ sở những nhu cầu tinh thần và nhu cầu vật chất của con người. Sự nảy sinh mục đích lao động còn phụ thuộc vào kinh nghiệm lao động đã tích luỹ được. Mục đích có thể là gần nhưng cũng có thể là xa. Song, nhìn chung hoạt động lao động bao giờ cũng có mục đích xa, bao trùm lên những mục đích gần có tính chất bộ phận. Quá trình tiến hành một hoạt động lao động là quá trình đạt từ mục đích bộ phận này sang mục đích bộ phận khác cho đến khi đạt được mục đích cuối cùng. Như vậy, ta có được một sơ đồ giản lược, mô tả một quá trình hoạt động như sau:

Mục đích có tính chất bao trùm các mục đích bộ phận chính là động cơ của hoạt động. Mục đích bao trùm (động cơ) có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện các mục đích bộ phận được kết lại thành một hệ thống. Chính vì vậy, khi nói đến một hoạt động, bao giờ người ta cũng xét đến động cơ tương ứng với nó.

Một hoạt động diễn ra trong từng giai đoạn đạt được những mục đích nhất định. Quá trình hoạt động để đạt được mục đích bộ phận được gọi là hành động.

Hành động là yếu tố của hoạt động, cụ thể hơn, đó là một đơn vị của hoạt động. Kết quả của hành động là đạt đến một

“Mục đích 1 -> Mục đích 2 -> … -> Mục đích cuối cùng”

mục đích cụ thể nào đó mà con người đã nhận thức được. Có thể nói, mỗi hành động bao giờ cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ sơ cấp cơ bản, nghĩa là nhiệm vụ không thể phân nhỏ hơn được nữa. Như vậy là, muốn xem một hoạt động lao động có bao nhiêu hành động, ta cần phải xác định có bao nhiêu nhiệm vụ sơ cấp cơ bản trong đó, hoặc có bao nhiêu mục đích cụ thể. Vì vậy, khi tổ chức một hoạt động sản xuất, điều quan trọng bậc nhất là phải chỉ ra cho được những mục đích bộ phận và trình tự đạt tới những mục đích đó.

Trong lao động sản xuất, muốn đạt tới mục đích, người ta cần tính xem phải hành động theo phương thức nào (bằng công cụ gì? với những phương tiện nào? Cách thức sử dụng công cụ ra sao?...).

Nói đến phương thức thực hiện hành động là nói đến thao tác Trong công nghiệp, thuật ngữ "thao tác" có khi được dùng để chỉ một yếu tố của một quá trình công nghệ được thực hiện trên một vị trí làm việc, do một hoặc nhiều nhóm công nhân tiến hành để làm ra một chi tiết hoặc một số các chi tiết được gia công đồng thời, hoặc tạo ra một số bán thành phẩm cho đến khi chuyển sang những chi tiết sau.

Trong hoạt động lao động, thao tác là "đơn vi cơ động" của hành động. Một hành động có thể có một hoặc nhiều thao tác. Nhưng, để xác định được số lượng những thao tác trong một hành động, ta phải căn cứ vào công cụ và phương thức thực hiện hành động đó. Cùng một hành động, người ta có thể dùng một hệ thống thao tác này hoặc một hệ thống thao tác khác. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện trang bị kỹ thuật. Như vậy là, một hành động được tiến hành thông qua một hoặc nhiều thao tác. Nhiều thao tác khác nhau có thể dẫn đến một mục đích như nhau. Chính vì vậy ta nói thao tác là đơn vị cơ động của hành động.

Nội dung của mỗi thao tác là do đặc điểm cấu trúc của công cụ quy định. Tuỳ thuộc vào hình dáng, kích thước và những đặc trưng cơ cấu của công cụ mà xác định tư thế và những vận động (động tác) phù hợp. Như vậy, trong mỗi thao tác cụ thể có một hệ thống những tư thế và vận động riêng. Tư thế cũng có thể coi là một dạng của động tác. Hơn nữa, động tác cũng chưa phải là yếu tố hợp thành nhỏ nhất trong thao tác. Người ta còn phân động tác thành những "vi động tác".

Một hành động lao động được lặp lại nhiều lần trong quá trình luyện tập và trở nên tự động hoá được gọi là kỹ xảo. Tuy nhiên, khi người công nhân thực hiện thành thạo, điêu luyện các thao tác trong hành động không có nghĩa là ý thức của họ không kiểm tra lại cách thức tiến hành thao tác. Ta gọi là sự tự động hoá của kỹ xảo chỉ với nghĩa là thao tác đã thành thạo, không cần sự tập trung chú ý mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, độ chính xác.

3. Định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lí học lao động

Như trên ta đã thấy, lao độnglà một hình thức cơ bản của sự tác động qua lại có ý thức giữa con người với hiện thực xung quanh. Hiệu quả của lao động phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố bên trong và bên ngoài. Thậm chí, các yếu tố bên ngoài (thiết bị kỹ thuật, sự tổ chức, môi trường vật lí và xã hội v.v...) quy định phần lớn hiệu quả lao động thông qua các yếu tố bên trong (năng lực, tri thức, kinh nghiệm, động cơ, hứng thú, thái độ,...).

Như vậy, nghiên cứu lao động được đặt trên yếu tố trung tâm - con người, cần xuất phát từ việc nhận thức các quy luật điều khiển hành vi con người trong lao động. Theo nghĩa này, tâm lí học lao động là một khoa học nhằm xây dựng một hệ thống tri thức thống nhất và hệ thống hành động của con người trong lao động. A.Roger nhấn mạnh rằng bằng vai trò khoa học của mình, nhà tâm lí học lao động quan sát, mô tả và tìm cách giải thích hành động của con người trong tư cách họ những người lao động.

Đồng thời, việc hiểu một hiện tượng không thể là một mục đích tự thân. Hiểu biết về một hiện tượng là nhằm làm thay đổi nó cho phù hợp với những mục đích nhất định. Chính vì vậy, tâm lí học lao động sử dụng những hiểu biết về hành động của còn người trong lao động cùng với những tri thức của các chuyên ngành khoa học khác nhằm làm thay đổi lao động theo nghĩa hoàn thiện nó.

Nói cách khác, tâm lí học lao động vừa là một khoa học vừa là một công nghệ kỹ thuật. Việc phân biệt hai thành phần đó trong hoạt động của nhà tâm lí học lao động là cần thiết nhưng không nên đối lập chúng với nhau, trong khi những hiểu biết về lao động giúp chúng ta làm thay đổi lao động thì việc thay đổi đó sẽ làm tăng nhận thức của chúng ta về lao động. Từ góc độ thuần tuý tâm lí học, có thể quan tâm tới việc thiết lập một số quan hệ giữa các chức năng tâm lí, tới việc phát hiện một số cơ chế tâm lí của những hành động lao động. Từ góc độ ứng dụng, có thể đưa các tri thức thu được của tâm lí lao động vào nghiên cứu hoàn thiện một số tiêu chuẩn đánh giá lao động. Các tiêu chuẩn có thể rất khác nhau: sự an toàn, sự thuận tiện, tốc độ thực hiện, thời gian học tập v.v... Để hoàn thiện được các tiêu chuẩn này cần có sự góp phần của một số ngành khoa học và kỹ thuật khác.

Tâm lí học lao động đề cập tới hành động lao động nói chung. Do hoạt động của con người được diễn ra trong các lĩnh vực rất khác nhau nên tâm lí học lao động cũng bao hàm một phạm vi rộng lớn, gồm: tâm lí học công nghiệp, tâm lí học giao thông, tâm lí học nông nghiệp, tâm lí học kinh doanh, tâm lí học hành chính.

Trong tài liệu này chúng ta chỉ quan tâm tới tâm lí học lao động công nghiệp. Ở lĩnh vực này, hành động lao động nằm trong phạm vi tác động tương hỗ giữa con người - các đối tượng và môi trường vật lí, xã hội của lao động, tức là trong hệ thống người - máy - môi trường. Do đó, tâm lí học lao động công nghiệp nhằm nghiên cứu và hoàn thiện sự tác động qua lại này với mục đích nhân bản hoá lao động, tăng năng suất và chất lượng lao động, sự an toàn của các hệ thống kỹ thuật xã hội, tăng hiệu quả và tăng sự thuận tiện trong lao động.

Trong việc nghiên cứu sự tác động qua lại giữa người - máy và môi trường, các chức năng tâm lí của con người (tri thức, thói quen, ý muốn, chú ý, tình cảm, động cơ, hứng thú v.v...) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhưng, hiệu quả lao động không chỉ phụ thuộc vào những khả năng hay những hạn chế của con người, vào chất lượng các chức năng tâm lí của người đó, mà phụ thuộc vào tất cả các yếu tố vật chất và xã hội của môi trường lao động. Vì vậy, tâm lí học lao động công nghiệp, trong khi nghiên cứu trước hết là con người với tư cách là thành tố chủ yếu trong hệ thống, đã xuất phát từ luận đề cho rằng: hiệu quả vận hành của hệ thống người - máy - môi trường phụ thuộc vào phương thức thích ứng lẫn nhau giữa các thành phần của nó: người máy, môi trường vật lí và xã hội.

Từ đó có thể rút ra được đối tượng của tâm lí học lao động công nghiệp: nghiên cứu và áp dụng các tri thức nhằm thích ứng, về mặt tâm lí học, con người với máy móc, với môi trường tìm việc của mình, đồng thời thích ứng máy móc và môi trường làm việc với những đặc điểm tâm lí của con người. Các phương tiện chủ yếu của sự thích ứng lẫn nhau này là: a) Định hướng, tuyển chọn, đào tạo và thích ứng nghề nghiệp cho con người; b) Thích ứng các đặc điểm cấu trúc và vận hành của máy móc, các yếu tố của môi trường vật lí và xã hội, yếu tố tổ chức lao động với những đặc điểm tâm lí của con người. Như vậy, rõ ràng là, sự thích ứng lẫn nhau trong hệ thống sẽ chỉ được bao quát đầy đủ khi có sự tham gia của tất cả các bộ môn khoa học nghiên cứu về lao động.

Như vậy, hoạt động của nhà chuyên môn trong lĩnh vực tâm lí học lao động công nghiệp bao gồm những vấn đề rất phong phú và đa dạng. Nhà tâm lí học cần phân tích bản chất thao tác và hành động của các nhiệm vụ lao động, phân tích yêu cầu của các chức năng tâm lí trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đó. Từ đây, phải nghiên cứu và xác định khả năng cũng như những giới hạn tâm lí của con người (được hiểu như là một kênh truyền thông tin). Trong khi lưu ý đến cấu trúc và bản chất của các nguồn thông tin, của tất cả cá yếu tố vật chất và xã hội, nhà tâm lí học sẽ xác định các cơ chế tâm lí của những hành động đúng và những hành động sai, xác định mức độ huy động tối ưu, sự yêu cầu một cách hợp lí và cân bằng của các chức năng tâm lí và những khả năng sáng tạo của người lao động.

Trên cơ sở những nghiên cứu này, chuyên gia tâm lí học lao động phải xác lập họa đồ tâm lí nghề nghiệp với những yêu cầu của công việc, xây dựng các phương pháp đo nghiệm nhằm kiểm tra năng lực và nhân cách của những người dự tuyển để tuyển dụng và đào tạo nghề nghiệp (hướng nghiệp, lựa chọn, hướng nghiệp lại, phân phối, huy động). Tương tự, phải đề ra các yêu cầu, phương pháp và những tiêu chuẩn đào tạo nghề nghiệp cũng như đánh giá việc đào tạo và hoà nhập nghề nghiệp.

Đồng thời, cùng với những chuyên gia khác trong lĩnh vực nghiên cứu lao động, nhà tâm lí học lao động công nghiệp góp phần làm cho các thiết bị kỹ thuật, các yếu tố môi trường và tổ chức phù hợp và những khả năng cũng như hạn chế của con người (trong giai đoạn thiết kế hoặc chỉnh sửa những hệ thống hiện có, trong việc phân bố các chức năng thao tác giữa người và máy). Và, vì người công nhân là thành viên của một tập thể lao động cho nên cần thiết phải nghiên cứu phân công nhiệm vụ một cách hợp lí, nghiên cứu tổ chức các mối quan hệ người - người, nghiên cứu sự tác động và giáo dục các động cơ, thái độ cho người lao động.

Trên đây đã trình bày về cơ bản các hướng chính của toàn bộ vấn đề mà nhà tâm lí học lao động công nghiệp quan tâm nghiên cứu.

Qua việc tìm hiểu đối tượng và những nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học lao động, ta có thể khẳng định rằng, tri thức của khoa học này rất cần thiết cho nhiều nhà chuyên môn của nhiều lĩnh vực khác nhau như tâm lí học, giáo dục học, y học, kỹ thuật... Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nghiên cứu tâm lí học lao động là cần thiết đối với nhiều người. Công việc đó có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động nhằm xây dựng công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh nhịp độ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

4. Tâm lí học lao động với các chuyên ngành tâm lí học khác và với các khoa học khác về lao động

4.1. Với các chuyên ngành tâm lí học khác

Trong hệ thống các khoa học tâm lí hiện đại, tâm lí học lao động thuộc vào một trong những chuyên ngành phát triển mạnh nhất. Những vấn đề lí luận và thực tiễn mà tâm lí học lao động đề cập tới ngày càng được mở rộng. Tính chất ứng dụng của nó ngày càng đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, tâm lí học lao động luôn luôn nằm trong một quan hệ và tác động qua lại mật thiết với các chuyên ngành tâm lí học khác cũng như với các khoa học lân cận.

Tâm lý học lao động có quan hệ qua lại với Tâm lí học đại cương. Giữa chúng có sự chuyển đổi lẫn nhau ở hai nghĩa: từ tâm lí học lao động đến tâm lí học đại cương và ngược lại. Đối với tâm lí học đại cương, tâm lí học lao động là một chuyên ngành đề cập thường xuyên và cụ thể tới một hoạt động chủ yếu của con người - hoạt động lao động đến lượt mình, tâm lí học lao động lại sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau của tâm lí học đại cương như: phương pháp lâm sàng (quan sát, phân tích trực tiếp hành vi lao động), phương pháp thực nghiệm, chẩn đoán (bằng trắc nghiệm). Và, trong khi nghiên cứu các chức năng tâm lí khác nhau (tri giác, trí nhớ, tư duy...), tâm lí học lao động góp phần làm phong phú thêm cho những tri thức của tâm lí học đại cương, làm cho phần lí luận của tâm lí học đại cương được chứng minh chặt chẽ hơn.

Đối với vấn đề định hướng, tuyển chọn và hoà nhập nghề nghiệp, tâm lí học lao động dựa trên những tri thức của Tâm lí học sai biệt (là một chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của cá nhân) và dựa trên Tâm lí học người già (là chuyên ngành nghiên cứu các đặc điểm tâm lí của quá trình lão hoá).

Trong việc đào tạo nghề nghiệp, tâm lí học lao động sử dụng các quy luật phát triển tâm lí ở các lứa tuổi của Tâm lí học phát triển. Chính nhờ tâm lí học dạy lao động, những quy quật truyền thụ tri thức sản xuất, tri thức kỹ thuật ngày càng được sáng tỏ và đó là tài liệu cần thiết cho tâm lí học phát triển. Bởi vì, hoạt động lao động của con người được diễn ra trong một tập thể, trong phạm vi của một tổ chức (hệ thống kỹ thuật xã hội) và tổ chức này lại có liên quan với những yếu tố bên ngoài cho nên tâm lí học lao động có quan hệ chặt chẽ với Tâm lí học xã hội, Tâm lí học tổ chức và Tâm lí học kinh tế.

Tâm lí học lao động và Tâm lí học xã hội có vấn đề chung rất quan trọng: học thuyết về nhóm và tập thể. Ta biết rằng, về phương diện lịch sử, cả tập thể lẫn con người đều hình thành trong lao động. Trong bất kỳ nhóm lao động nào, những mối quan hệ liên nhân cách cũng nảy sinh. Đó là đối tượng nghiên cứu của cả tâm lí học lao động lẫn tâm lí học xã hội. Cùng với việc nghiên cứu các loại nhóm và các mối quan hệ liên nhân cách trong nhóm, tâm lí học lao động còn đề cập tới sự tương hợp nhóm (còn gọi là sự phù hợp nhóm), những hiện tượng tâm lí của đám đông trong lao động tập thể... Những vấn đề ấy cũng được tâm lí học xã hội quan tâm nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học tổ chức là những vấn đề tầm lí học trong việc lãnh đạo và tổ chức các tập thể lao động cũng là những khía cạnh mà tâm lí học lao động quan tâm nhằm mục đích hoàn thiện các quan hệ lao động, trên cơ sở đó tăng năng xuất lao động. Còn đối tượng của tâm lí học kinh tế là những yếu tố tâm lí của các mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng (người tiêu thụ). Đây cũng là vấn đề TLHLĐ có đề cập đến.

Tâm lí học lao động có quan hệ với Tâm lí học quân sự trong mọi vấn đề lao động trong quân đội, nhất là lao động với những khí tài hiện đại. Ngày nay, những vũ khí trong quân đội đã được hiện hoá. Các chiến sĩ đều phải tiếp xúc và điều khiển các loại máy móc hết sức đa dạng. Ở đây, cần nghiên cứu chiến sĩ sử dụng vũ khí hiện đại giống như đối với việc nghiên cứu thao tác viên bên những máy móc, thiết bị tối tân. Quan hệ người - máy cần được đi sâu nghiên cứu. Những quy luật tâm lí rút ra từ những công trình nghiên cứu tâm lí học lao động có nhiều tác động cho việc tiến hành nghiên cứu tâm lí học quân sự và giúp trực tiếp vào việc đào tạo, huấn luyện chiến sĩ mới trong mối quan hệ với kỹ thuật. Các lĩnh vực tâm lí học hàng không, tâm lí học vũ trụ đã gắn với tâm lí học lao động bằng những mối liên hệ hợp tác chặt chẽ.

Tâm lí học lao động cũng có những mối liên hệ nhất định với Tâm lí học tội phạm. Chẳng hạn, tâm lí học tội phạm đề cập tới những hành động sai lầm và những đặc điểm nhân cách trong mối liên hệ với những hành động phạm pháp. Đây cũng là vấn đề rất gần với việc nghiên cứu các hành động sai và những nguyên nhân gây ra hành động sai trong lao động. Nhưng, mối liên quan chặt chẽ hơn cả được thể hiện ở chỗ, trong khi tâm lí học lao động nghiên cứu sự hoàn thiện nhân cách trong lao động nghề nghiệp, thì tâm lí học cải tạo phạm nhân lại nghiên cứu quá trình cải tạo nhân cách đang suy thoái bằng hình thức lao động sản xuất.

Tâm lí học lao động có rất nhiều vấn đề cần giải quyết cùng với Tâm lí học y học. Trước khi đi vào hàng loạt vấn đề của giám định lao động, tâm lí học lao động không thể tách rời khỏi tâm lí học y học: vấn đề tuyển chọn người vào các nghề với các đặc điểm bệnh lí cụ thể. Ở đây, cần có sự kết luận về những bệnh mà nghề kiêng tránh, về sự phù hợp nghề của những người tàn tật, về những nguyên nhân gây ra tai nạn lao động hoặc hỏng hóc kỹ thuật mà nguồn gốc là từ những đặc điểm chịu sự chế ước sinh lý cụ thể ở mỗi người, về những liệu pháp y tế cần thiết cho những trường hợp đi vào nghề.

4.2. Với các khoa học khác về lao động

Bởi vì lao động không thể được nghiên cứu chỉ dưới khía cạnh tâm lí của nó, cho nên, cũng giống như các chuyên ngành tâm lí học khác, tâm lí học lao động có quan hệ cả với những khoa học khác về lao động như: Sinh lí học và vệ sinh lao động, Nhân trắc học, Kinh tế lao động và tổ chức, Kinh tế chính trị học, Xã hội học (đặc biệt xã hội học công nghiệp). Mối liên hệ giữa các ngành khoa học này được thể hiện rõ trong phạm vị của Công thái học (Ergonomie). Chính ở trong công thái học - được định nghĩa như một khoa học và kỹ thuật liên ngành về lao động sự thích ứng lẫn nhau một cách hoàn chỉnh giữa người, máy và môi trường có thể được thực hiện. Công thái học sử dụng những tư liệu của tâm lí học lao động và các dữ liệu của hàng loạt các khoa học khác để giải quyết việc thiết kế các trạm, các bộ phận điều khiển, bố trí nơi làm việc theo những thông số ánh sáng, độ ẩm, độ thông gió, kích thước... Có thể nói rằng, tâm lí học lao động đã và đang góp phần không nhỏ vào việc định mức kỹ thuật, xác định nhịp độ tối ưu trong lao động, xác lập chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của sự đơn điệu trong lao động đến tâm lí và sinh lí con người cùng với nhiều vấn đề khác nữa mà khoa học tổ chức lao động đề cập đến.

5. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lí học lao động

Tâm lí học lao động xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi đó được gọi là "kỹ thuật tâm lí học" gắn liền trực tiếp với thực tiễn, với nhu cầu giải quyết một số vấn đề của con người và xã hội. Những tác phẩm công bố đầu tiên về TLHLĐ đã xuất hiện không lâu trước chiến tranh thế giới I. Phần lớn các sách này đều đề cập đến những phương pháp và kết quả thu được trong quá trình hoạt động thực tiễn. Các tác giả của những cuốn sách ấy đều nghiên cứu các vấn đề do xí nghiệp mà họ làm việc ở đó đề ra như: những vấn đề về việc tuyển chọn công nhân, vấn đề dạy nghề cho công nhân, sự sắp đặt nơi làm việc, vấn đề về các nhân tố gây ra các trường hợp bất hạnh hay những nhân tố có ảnh hưởng đến năng suất lao động kể từ sự chiếu sáng đến các mối quan hệ của con người. Theo nghĩa này. năm 1959, H.Wallon đã nhấn mạnh rằng, những ứng dụng thực sự đầu tiên của tâm lí học vào lĩnh vực lao động đã không xuất phát từ một chương trình lí thuyết mà xuất phát từ những yêu cầu của nền công nghiệp và lòng mong muốn nâng cao hiệu quả sản xuất

Để đạt được nguyện vọng này, tâm lí học lao động công nghiệp đã phát triển theo ba hướng chủ yếu: a) Định hướng và tuyển chọn nghề nghiệp; b) Hợp lí hoá lao động; c) Tâm lí học của các mối quan hệ liên nhân cách.

Đối với hướng thứ nhất, một trong những nhà sáng tạo ra tâm lí học lao động công nghiệp là H.Miinsterberg cho rằng, bằng việc thích ứng con người với những điều kiện lao động (tức là bằng việc tuyển chọn nghề nghiệp) những mục đích của chuyên ngành khoa học mới này có thể đạt được. Đó là tìm ra được người công nhân tốt nhất, tiến hành lao động trong những điều kiện tốt nhất và thu được những kết quả tốt nhất có thể được. Ông đã tiến hành kiểm tra tuyển chọn trong hàng ngũ các sĩ quan hải quân, vô tuyến điện. Các kỹ thuật kiểm tra đã phát triển và được phổ biến rộng rãi trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ nhất khi người ta tuyển lựa hơn một triệu rưỡi tân binh cho quân đội. Để phục vụ cho hướng nghiên cứu này, ở phương Tây và Liên Xô cũ đã xuất hiện nhiều phòng hướng nghiệp. Phòng hướng nghiệp đầu tiên đã được thành lập ở Bostơn năm 1915. Từ 1916, những cơ quan chuyên môn về hướng nghiệp đã được thành lập ở Đức, Pháp, Anh và Italy. Chẳng hạn, ở Đức năm 1925-1926 đã có 567 phòng tư vấn nghề nghiệp đặc biệt, đã nghiên cứu gần 400.000 thanh thiếu niên trong 1 năm. Vào thời ký này, công tác tư vấn đã rất được chú ý ở Anh - nước đã thành lập một Hội đồng Quốc gia đặc biệt nghiên cứu về vấn đề này.

Về vấn đề hợp lí hoá lao động, khoảng cuối thế kỷ trước. kỹ sư F.W.Taylor đã bắt đầu quan tâm đến việc tổ chức hoạt động lao động trên cơ sở chia các thao tác lao động thành những đơn vị đơn giản để loại bỏ những động tác thừa và như vậy sẽ làm giảm thời gian thực hiện các thao tác ("Phương pháp Taylor" hay "Dây chuyền Taylor"). Việc cải tiến thao tác, cải tiến tổ chức, cải tiến công cụ, mặc dù phải chi thêm những khoản tiền để tạo ra các điều kiện lao động mới nhưng thời gian bốc dỡ một tấn hàng đã giảm từ 7 - 8 giờ xuống 3 - 4 giờ, số công nhân trong một nhà kho từ 500 giảm xuống còn 140 người và tất nhiên tiền lãi mà nhà tư bản thu được là rất lớn. Cũng vào khoảng thời gian đó, F.B.Gilbreth (một kỹ sư) và vợ ông là M.Gilbreth (một nhà tâm lí học) trong khi nghiên cứu việc hợp lí hoá các động tác lao động đã đưa ra một số kỹ thuật phân tích mới: chụp ảnh và quay phim các thao tác lao động. Họ đã xác định được 17 yếu tố động tác được bao hàm trong các thao tác lao động. Năm 1911, F.B.Gilbreth đã xuất bản cuốn sách tại New York có tiêu đề: "Nghiên cứu các động tác. Kinh nghiệm tăng cường hiệu suất lao động của công nhân". Những nghiên cứu này đã được R.M.Barnes tiếp tục và năm 1937, ông đã xác lập được các nguyên tắc tiết kiệm động tác và 22 quy tắc hợp lí hoá động tác lao động.

Thuộc hướng này đã xuất hiện nhiều nghiên cứu đề cập tới sức làm việc của con người. Chẳng hạn, trong khoảng thời gian từ 1901 - 1903, bằng những thực nghiệm của mình. I.M. Xêsênốp đã cố gắng nêu lên cơ sở sinh lý của các quá trình tâm lí quyết định chất lượng của quá trình lao động. Và sau khi xác định các tiêu chuẩn về thời gian tối ưu của một ngày lao động, Xêsênốp đã đặt nền móng cho học thuyết về sự nghỉ ngơi tích cực mà bây giờ sinh lí học lao động và TLHLĐ dựa vào đó để chống lại sự mệt mỏi.

Năm 1905, F.Kraepelin đã sử dụng các phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu lao động và đề xuất việc đo đạc sự mệt mỏi. Năm 1910, J.M.Lahy quan tâm đến các điều kiện lao động của các công nhân sắp chữ trong nhà in, tìm tòi các dấu hiệu khách quan của sự mệt mỏi trong lao động trí óc theo tinh thần chống lại quan điểm Taylor.

Để phục vụ cho các nghiên cứu về tâm lí học lao động, trong hầu hết các nhà máy lớn hoặc trong các cơ sở công nghiệp thuộc các ngành lao động công nghiệp đều hình thành các phòng thí nghiệm tâm - sinh lí của mình. Ở đó đã tiến hành có kết quả nhiều công trình về TLHLĐ. Tuy nhiên, có một số phòng thí nghiệm lại do những người không được đào tạo về chuyên môn đảm nhận nên không đem lại những lợi ích thiết thực (đặc biệt là ở Liên Xô cũ).

Vì vậy tiếp theo là thời kỳ người ta tỏ ra dè dặt đối với những nghiên cứu đó bởi vì chúng đã bỏ qua những khía cạnh rất quan trọng của các quá trình tri giác, tư duy và xem con người thuần tuý như một "động cơ sống" với những hậu quả tiêu cực về mặt tâm lí xã hội.

Sự phát triển nhanh chóng của các thiết bị quân sự trong thời gian "Chiến tranh thế giới thứ II" đó ngay lập tức lôi kéo sự chú ý của các nhà chuyên môn (các kỹ sư, các nhà tâm lí học, các nhà quân sự) bởi vì hiệu quả sử dụng và độ tin cậy của các thiết bị mới không đạt tới mức hoàn thiện về kỹ thuật. Việc tuyển chọn và đào tạo các thao tác viên trong quân đội chưa đầy đủ, bởi vì các thiết bị quân sự đã không lưu ý tới khả năng cũng như những giới hạn của con người đã được quan tâm. Lần này đặc biệt là vấn đề về những giới hạn của con người đã được quan tâm. Con người không còn bị xem như một "động cơ sống" đơn giản chỉ thực hiện những động tác mà như một kênh truyền thông tin. Từ đó, bắt đầu thời kỳ phối hợp chặt chẽ giữa các nhà tâm lí học và các nhà kỹ thuật trong các lực lượng quân sự của Mỹ. Tâm lí học kỹ sư đã ra đời như vậy. Đó là chuyên ngành tâm lí học quan tâm nghiên cứu những khả năng, những giới hạn tâm lí của con người và làm sao cho những đặc điểm cấu tạo của máy móc phù hợp với những khả năng tâm lí đó. Tâm lí học kỹ sư là một nhánh crua tâm lí học lao động và nó ra đời từ trong lòng tâm lí học thực nghiệm hơn là từ tâm lí học công nghiệp. Ở giai đoạn đầu, tâm lí học kỹ sư hầu như chỉ quan tâm đến việc thích ứng những thiết bị đo đạc, các bộ phận điều khiển, sự phân bố các bộ phận này v.v...

Vào cuối giai đoạn 1950 - 1960, xuất hiện một sự thay đổi trong quan điểm của tâm lí học lao động công nghiệp, cũng như trong Công thái học. Theo nghĩa việc nghiên cứu phải được "tập trung vào hệ thống", sự vận hành của hệ thống phụ thuộc vào sự vận hành của con người và của máy móc. Như vậy, đối tượng của tâm lí học lao động công nghiệp được mở rộng và đặc biệt đa dạng cả trên bình diện lí luận lẫn thực tiễn.

Đối với tâm lí học của các mối quan hệ người - người, khởi đầu của những nghiên cứu này được biết đến dưới tên gọi "các nghiên cứu của nhóm Harvard", là các nghiên cứu được E.Mayo khởi xướng và lãnh đạo vào năm 1927 ở "Công ty điện lực miền Tây" (Mỹ). Nhân dịp này, người ta đã làm sáng tỏ một điều, rằng: ngoài những yếu tố vật lí, còn có những yếu tố tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng tới hiệu suất lao động. Các nghiên cứu tiếp theo đã hoàn chỉnh danh sách những yếu tố này và đã làm rõ vai trò của từng yếu tố như: động cơ; hứng thú; nhu cầu được khẳng định và đánh giá thái độ; dư luận; sự thoả mãn trong lao động, các mối quan hệ liên nhân cách (hấp dẫn - xa lánh, sự lịch thiệp; sự thân thiện; sự bàng quan, thờ ơ); cấu trúc của nhóm lao động (độ lớn, thành phần, tổ chức, giao tiếp, lãnh đạo, quyết định); việc tổ chức nhà máy như một hệ thống kỹ thuật xã hội thống nhất và có liên quan với các hệ thống khác v.v... Trên cơ sở những nghiên cứu đó, năm 1933, Mayo đã viết cuốn "Những vấn đề con người của nền văn minh công nghiệp". Trong đó ông đã khẳng định rằng, lí thuyết hiện đại về công tác quản lý phải dựa trên nền tảng cua những thành tựu tâm lý học. Và cái gọi là học thuyết về "các mối quan hệ của con người" do Mayo xây dựng từ những thực nghiệm ở Hotoócnơ vẫn còn giá trị đến ngày nay.

Như vậy, tất cả các hướng nêu trên bao hàm những vấn đề rộng lớn của tâm lí học cá nhân và tâm lí học xã hội trong lao động công nghiệp. Nghiên cứu lí luận và ứng dụng tất cả những vấn đề đó cùng với những nghiên cứu thuộc các chuyên ngành khoa học khác có tác dụng tối ưu hoá và nhân bản hoá lao động.

Ở việt Nam, ngành sinh lí học lao động mới bắt đầu hoạt động thực sự từ năm 1963. Tuy còn non trẻ nhưng sinh lí học lao động Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho sản xuất và chiến đấu. Trong mấy chục năm qua, chúng ta đã có hàng trăm công trình nghiên cứu có giá trị về nhiều lĩnh vực như: "Cường độ lao động từng lúc trong lao động" (Tô Như Khuê, Bùi Thụ). "Đánh giá sự mệt mỏi trong và sau lao động, chiến đấu (Bùi Thụ, Bùi Thu Nguyên, Phạm Quy Soạn...); "Khả năng thích nghi của những người làm việc lâu năm ở chỗ nóng" (Ngô Đức Hưởng, Bùi Thụ, Nguyễn Hùng...).

Năm 1971, "Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động" được thành lập. Trong chương trình nghiên cứu của viện có để cập tới tâm lí học lao động (vấn đề hướng nghiệp, lao động sư phạm...). Năm 1975, cuốn sách đầu tiên, khá đầy đủ về Ergonomie ở nước ta ra đời - cuốn "Khoa học lao động" của Nguyễn Văn Lê. Trong đó có đề cập tới một số khía cạnh tâm lí lao động. Từ năm 1976, chuyên đề tâm lí học lao động bắt đầu được đọc tại khoa tâm lí – giáo dục, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường cán bộ Công đoàn Trung ương và một số cơ sở sản xuất tại Hà Nội (Đoạn đầu máy xe lửa Hà Nội). Có thể nói, những nghiên cứu thực sự về TLHLĐ chỉ được bắt đầu khoảng cuối những năm 70 đến nay và chủ yếu là do tổ TLHLĐ - Hướng nghiệp của Ban tâm lý học (TLH). Viện Khoa học Giáo dục tiến hành (do GS. Phạm Tất Dong chỉ đạo khoa học). Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào vấn đề dạy lao động kỹ thuật và hướng nghiệp cho học sinh phổ thông (PT). Các cán bộ nghiên cứu của tổ TLHLĐ - Hướng nghiệp đã tiến hành những thực nghiệm dạy - học lao động kỹ thuật nhằm thử hình thành ở học sinh một số phẩm chất nhân cách của người lao động có kỹ thuật như: khả năng tư duy kỹ thuật, khả năng đọc bản vẽ kỹ thuật và tạo hình từ bản vẽ, khả năng kế hoạch hoá lao động, hứng thú lao động kỹ thuật v.v... Những nghiên cứu có thể đó là: "Khả năng sáng tạo của học sinh PTCS trong hoạt động học tập lao động kỹ thuật" (Nguyễn Khánh Hà); "Phát triển hứng thú và năng lực kỹ thuật thông qua hoạt động học lao động và hướng nghiệp nhằm hình thành lý tưởng nghề nghiệp cho học sinh" (Nguyễn Thế Trường). "Hình thành năng lực kỹ thuật cơ khí ở học sinh PT" (Trần Ánh Tuyết);. "Khả năng kế hoạch hoá lao động của học sinh PT" (Phạm Ngọc Luận), "Hình thành tư duy kỹ thuật với tư cách là một thành tố của sự sẵn sàng tâm lí đi vào lao động cho học sinh PTCS thông qua hoạt động học tập lao động kỹ thuật (Phạm Ngọc Uyển)... Các sản phẩm khoa học đã được công bố trên các báo, tạp chí ở trong và ngoài ngành giáo dục, đặc biệt trong một số kỷ yếu Hội nghị toàn quốc những người làm công tác TLH (1974, 1978, 1982) và một số sách về tâm lí học lao động (Một số vấn đề về TLHLĐ - Phạm Tất Dong; Công tác hướng nghiệp cho học sinh PT - Phạm Tất Dong...). Một điều quan trọng là kết quả nghiên cứu dạy lao động kỹ thuật và hướng nghiệp đã góp phần tích cực vào việc xây dựng cơ sở cho việc giáo dục lao động và công tác hướng nghiệp của nhà trường PTCS và PTTH, triển khai cải cách giáo dục trong việc chuẩn bị tâm thế học nghề cho học sinh PT. Ngoài ra, đã kiến nghị với lãnh đạo Bộ Giáo dục đưa môn lao động kỹ thuật theo hướng kỹ thuật tổng hợp (Bao gồm các môn: Vẽ kỹ thuật - cho Cấp I; Kỹ thuật cơ khí - cho Cấp II; Kỹ thuật điện - cho Cấp III) để thay thế chương trình lao động hiện lúc đó ở PTCS đang theo hướng dạy nghề đơn giản.

Trong thời gian gần đây đã xuất hiện một số nghiên cứu trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt sản xuất công nghiệp, thể hiện ở một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên như: Thái độ đối với lao động của công nhân nhà máy sản xuất thiết bị điện, Nghiên cứu bầu không khí tâm lí của nhà máy chế tạo thiết bị điện Đông Anh - Hà Nội. Nghiên cứu các mối quan hệ liên nhân cách trong tập thể công nhân nhà máy điện Uông Bí... Các nghiên cứu này đã góp phần bổ sung, làm phong phú thêm vốn tri thức lý luận của TLHLĐ và giúp các nhà lãnh đạo tại các cơ sở sản xuất hiểu rõ hơn các cơ sở tâm lí xã hội của việc xây dựng những tập thể sản xuất tốt. Trên cơ sở đó, tăng năng suất lao động.

Trong nhiều năm qua, khi phát triển công nghiệp, ta còn ít quan tâm tới tâm lí học lao động. Việc đó có ảnh hưởng nhất định đến những cố gắng đẩy mạnh nhịp độ sản xuất và tăng năng suất lao động. Trong sự phát triển các khoa học lao động, có thể nói rằng, tâm lí học lao động ở nước ta đứng ở hàng sau cùng. Sự không đồng bộ như vậy đã đến lúc cần phải khắc phục. Chúng ta phải làm cho tâm lí học lao động có một vị trí xứng đáng bên cạnh sinh lí học lao động, thẩm mĩ học lao động... Đó là trách nhiệm chung của những cá nhân và những cơ quan, đoàn thể có nhiệm vụ nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.

6. Các phương pháp của tâm lý học lao động

Chúng ta hiểu khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học là toàn bộ những cách thức và con đường để nghiên cứu một lĩnh vực nhất định.

Có rất nhiều phương pháp và kỹ thuật phân tích hệ thống người - máy - môi trường. Chúng có thể được phân chia và hợp thành nhóm theo các cách khác nhau. Nhìn chung, có thể có hai nhóm lớn: các phương pháp định tính và các phương pháp định lượng. Ở đây, chúng ta sẽ quan tâm một số phương pháp và kỹ thuật phân tích định tính.

6.1. Nghiên cứu tư liệu

Việc phân tích thường được bắt đầu bằng việc nghiên cứu các tư liệu của hệ thống. Ở đây là những tư liệu của một hệ thống tương tự, bản thiết kế, tài liệu chuyên môn, các tiêu chuẩn, các hướng dẫn kỹ thuật, các số liệu thống kê có liên quan đến sản xuất, năng suất lao động, các tai nạn, các hỏng hóc...

Cẩn phải nghiên cứu các số liệu này bởi việc phân tích không thể xuất phát từ số 0. Nhưng cũng không nên quy việc phân tích chỉ về nghiên cứu những tư liệu đó. Thật vậy, trong các hệ thống hiện có, các tư liệu thường mang tính quy chuẩn, tức là "cần phải như thế nào". Nhưng, trong thực tế sự việc lại khác: sự vận hành của các thiết bị không giống như trong bản thiết kế, thao tác viên không thể điều khiển máy móc phù hợp, hoặc do những đặc điểm cấu tạo của máy hoặc do chính bản thân con người (năng lực, trình độ đào tạo, kinh nghiệm...). Tương tự, các số liệu thống kê về năng suất, chất lượng, tai nạn lao động không thể cho ta biết trực tiếp các nguyên nhân của một số trường hợp bất thường. Vì vậy, nghiên cứu tư liệu là giai đoạn đầu tiên và bắt buộc nhưng sẽ được tiếp tục bằng việc sử dụng những phương pháp khác.

6.2. Phương pháp điều tra

Tác dụng của phương pháp này là có thể thu thập thông tin có ích trực tiếp từ những người hiểu biết tốt nhất về hệ thống. Các liên hệ thông tin đang tồn tại, đặc điểm, nét đặc biệt của các liên hệ đó. Muốn vậy, phải làm cho những người được hỏi hiểu thật rõ mục đích của cuộc điều tra và phải tạo được một bầu không khí hiểu biết, tin tưởng lẫn nhau.

Các câu hỏi có thể đặt vào yếu tố con người: lao động có quá mệt mỏi đối với họ hay không? Do quá ồn hay bởi các điều kiện khác? Có sự thiếu thoải mái trong (hay sau) lúc làm việc không? Các thao tác nào là quá khó khăn? Đâu là những thời điểm hay những tình huống phức tạp trong quá trình giám sát công việc? v.v...

Các câu hỏi cũng có thể đề cập tới những sai sót của máy như: có phải vì các tín hiệu được bố trí tồi nên khó nhìn thấy? Các bộ phận điều khiển cũng vậy. Do được bố trí không đúng nên thao tác viên khó sử dụng? Các tín hiệu nào thường sử dụng nhất? Các sự cố và nguyên nhân xảy ra? v.v...

Các cứ liệu của phương pháp này cần được sử dụng một cách thận trọng (do một số câu trả lời không đúng sự thật hoặc một số câu trả lời không đúng nội dung).

6.3. Phương pháp quan sát

Có hai cách: quan sát liên tục và quan sát gián đoạn.

6.3.1. Quan sát liên tục

Người nghiên cứu sẽ quan sát ghi lại toàn bộ những sự kiện và tình huống xảy ra ở nơi tiến hành quan sát: các tín hiệu truyền đến có nhận được ngay số tác động hay bị chậm trễ; chủng loại, số lượng và thời gian của các phản ứng tri giác hoặc phản ứng vận động của công nhân: các hiện tượng kỹ thuật bị ảnh hưởng hoặc bị làm thay đổi; các hành động phụ trợ v.v...

Trong khi tiến hành quan sát liên tục, có thể sử dụng một số kỹ thuật thu thập thông tin như dụng cụ đo thời gian, máy quay phim, máy ghi âm. Cũng có thể sử dụng thiết bị truyền hình nội bộ. Điều này có lợi vì người bị quan sát sẽ không cảm thấy bị bối rối trước sự có mặt của nhà nghiên cứu. Trong bất cứ trường hợp nào thì cũng nên thận trọng như đối với phương pháp điều tra, người bị quan sát phải biết được mục đích của công việc này và phải tạo bầu không khí tin tưởng lẫn nhau.

6.3.2. Quan sát không liên tục (gián đoạn) (còn được gọi là điều tra thống kê hay mẫu lao động)

Mục đích và nội dung của các quan sát kiểu này cũng tương tự như của quan sát liên tục, áp dụng cách này, có thể quan sát được (một cách lần lượt) nhiều vị trí làm việc. Người ta lấy một khoảng thời gian (mẫu) đã được xác định (chẳng hạn, từ 2-10 phút) và chỉ tiến hành quan sát tại cùng một vị trí, cần xác định một khoảng thời gian đủ lớn để người nghiên cứu có thể di chuyển sang vị trí làm việc thứ hai, là vị trí mà anh ta sẽ tiến hành quan sát trong một thời gian xác định. Số lần quan sát đối với từng vị trí làm việc sao cho có thể đại diện được về phương diện thống kê.

6.4. Kiểm tra bằng đánh dấu bảng hỏi (check list)

Kỹ thuật này bao gồm một bảng câu hỏi có nội dung và thứ tự đã được ấn định, nhằm kiểm tra những khía cạnh khác nhau trong hệ thống (hay kiểu hệ thống, các thành tố của hệ thống). Bảng hỏi có thể rất rộng nếu như nó đề cập đến một loạt vấn đề như: các thông số kỹ thuật của máy, quá trình công nghệ, sự an toàn của lao động, vấn đề tổ chức, các nguyên tắc của Công thái học v.v... Chúng ta sẽ làm rõ những điều vừa nói trên đây bằng một vài điểm đề cập về các nguyên tắc của Công thái học:

- Hình dáng và kích thước của vị trí làm việc đã được nghiên cứu kỹ chưa?

- Công nhân có thể ngồi ghế để làm việc hay nhất thiết phải đứng? Anh ta có thể thay đổi tư thế làm việc được không?

- Ghế ngồi làm việc đã được thiết kế đúng chưa (chiều cao, hình dạng, chỗ tựa)?

- Ghế ngồi có cản trở các vận động không?

- Các đèn hiệu đã được thiết kế phù hợp chưa (đặc điểm cấu tạo khoảng cách quan sát, chữ, ký hiệu)?

- Các bộ phận điều khiển đã được lắp đặt hợp lí chưa? Có thuận tiện cho công nhân khi sử dụng không?

- Các bộ phận điều khiển có tạo một sức tương phản mạnh với nền của máy hoặc của giá điều khiển không? v.v...

6.5. Phân tích các ma trận

Đó là kỹ thuật để đánh giá các tình thế (chẳng hạn, trong trường hợp phân bố chức năng cho các thành tố trong hệ thống) và để chỉ ra những một tác động tương hỗ trong hệ thống (thành tố B phụ thuộc vào thành tố A, và ảnh hưởng đến thành tố C v.v..) Công thức ma trận có thể được phân tích trên cơ sở những kết luận định tính hoặc các phương trình toán học riêng. Trong công thức này, các yếu tố của hệ thống được phân chia thành 3 loại lớn:

- Những yếu tố xác định "nằm ngoài" hệ thống nhưng lại qui định tính chất, hình thức và các giới hạn của hệ thống (mục đích, yêu cầu kết quả đầu vào và những hạn định như giá cả, thời gian v.v...).

- Các yếu tố thành phần (máy móc, con người, môi trường thiết bị hạ tầng như nhà xưởng, kho, đường sá v.v...)

- Các yếu tố tích hợp (các thao tác, giao tiếp thông tin, các cấu trúc tổ chức và quyết định).

6.6. Phân tích các mối liên hệ (links analysis)

Đó là một kỹ thuật làm sáng tỏ các mối liên hệ giữa các thành phần hay giữa các yếu tố của một thành phần. Các mối liên hệ này được trình bày bằng đồ thị và được thể hiện bằng những thuật ngữ thống kê: Tần số tương đối và giá trị của các liên hệ. Sơ đồ với các số liệu thống kê này sẽ giúp đề xuất những biện pháp hoàn thiện (nếu cần thiết) để tránh số chồng chéo các liên hệ khác nhau, giúp cho sự điều khiển tối ưu của người và máy; giúp bố trí phù hợp các yếu tố thông tin và các thiết bị điều khiển - điều chỉnh v.v...

6.7. Phân tích các sai sót

Theo D.Meister và A.D.Swain, có thể định nghĩa sai sót theo nhiều cách khác nhau: thực hiện một hành động không đúng theo yêu cầu; không thực hiện hành động được yêu cầu; thực hiện hành động không tuân theo đúng tuần tự đã được qui định; thực hiện một hành động không được yêu cầu; không thực hiện hành động được yêu cầu trong giới hạn thời gian đã cho. Tất cả những hành động không phù hợp này chỉ có thể bị xem là các sai sót nếu chúng còn có những điều kiện khác nữa, như:

- Hành động không phù hợp cần phải được xem xét trong một khung cảnh thao tác hay trong phạm vi mục đích, chức năng và nhiệm vụ của hệ thống. Bởi vì ý nghĩa của nó có thể bị thay đổi khi các yếu tố của nhiệm vụ hay bản thân các nhiệm vụ lại được kết hợp vào trong những nhiệm vụ hoặc chức năng mới. Tương tự, ý nghĩa của một hành động không phù hợp có thể thay đổi trong quan hệ với các biến số như: stres, động cơ (khi vượt quá những điều kiện hoạt động bình thường).

- Để trở thành một sai sót, hành động không phù hợp phải gây ra một hiệu quả tiêu cực (âm tính) thực hoặc tiềm tàng đối với hiệu quả của các tiểu hệ thống hay của hệ thống.

Có nhiều cách phân loại các sai sót, căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau.

Về mặt thái độ (theo E.C.Cornell), có thể có: a) Sai sót do không tôn trọng qui trình đã được xác lập, b) Dự đoán không đúng. c) Phán đoán sai; d) Phân tích thông tin không đúng (không phù hợp); e) Thiếu chú ý hoặc thiếu thận trọng.

Về phương diện những ảnh hưởng đối với các thao tác của hệ thống, ta có (theo bảng E.Brady): a) Những sai sót luôn luôn xuất phát từ những sai sót của hệ thống. b) Những sai sót đi liền với sai sót của trang thiết bi kỹ thuật và xuất phát từ sai sót của hệ thống (sai sót nguy cơ); c) Những sai sót xuất phát từ những sai sót của hệ thống chỉ khi trùng hợp với một số điều kiện nhất định.

* Phát hiện và nhận biết các sai sót

Hiện nay, trong nhiều hệ thống đã có những kỹ thuật tự động và nửa tự động để phát hiện các sai sót (chẳng hạn như: các mã sai sót - chỉnh sửa trong các trương trình máy tính; dự đoán; cô lập một yếu tố bị hỏng v.v...).

Các phương tiện phát hiện sai sót có thể được phân loại thành: a) Các phương tiện phân tích và bị các phương tiện tổng hợp phân tích. Người ta có thể xuất phát từ sai sót cuối cùng và dần dần trình bày tất cả các điều kiện và nguyên nhân có thể gây ra sai sót đó. Rõ ràng, đó là một sự phân tích đồng thời các thao tác của con người và của các trạng thái chức năng của trang thiết bị kỹ thuật.

6.8. Phân tích chu trình

Đó là việc xác lập và biểu diễn bằng đồ thị chu trình các thao tác hoặc các giai đoạn khác nhau của quá trình truyền thông tin. Bằng cách nghiên cứu này, có thể hoàn thiện trật tự diễn ra các thao tác, loại bỏ một số thao tác không cần thiết hoặc đưa vào một số thao tác khác. Phân tích chu trình có hai cách:

a) Biểu đồ (giản đồ) Kurke: trình bày đồ thị dựa trên sự ký hiệu hoá các thao tác khác nhau..

b) Họa đồ tổ chức: (orgamgramme): họa đồ bao hàm một loạt các thao tác - được trình bày dưới dạng những ô vuông nhỏ và ghi tên các thao tác ở bên trong - và trật tự cần diễn ra của những thao tác đó. Khi nói về yếu tố con người thì trật tự này có thể được hoặc không được tôn trọng. Trong trường hợp không được tôn trọng thì bản họa đồ tổ chức sẽ là thang chuẩn giúp để so sánh và đồng thời đưa vào đó nâng cao tay nghề cho công nhân (vì đó là một algoritm - thuật toán).

6.9. Phương pháp thực nghiệm

Nhờ phương pháp này có thể xác định một cách chắc chắn sự ảnh hưởng hoặc không của các biến số khác nhau đến hiện tượng cần nghiên cứu và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến số đó. Việc này có thể làm được vì trong thực nghiệm các biến số sẽ được kiểm soát chặt chẽ.

Trong bất cứ thực nghiệm nào cũng tồn tại hai loại biến số: các biến số độc lập, là những biến số nhằm nghiên cứu (các khả năng và hạn chế trong tri giác, trí nhớ, hành động của con người...) và các biến số phụ thuộc, là những biến số chịu ảnh hưởng của những biến số độc lập và nhờ có chúng có thể đánh giá được các yếu tố độc lập.

Có thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Sự khác nhau giữa hai loại thực nghiệm không chỉ ở chỗ loại thứ nhất diễn ra trong điều kiện thực còn loại thứ hai diễn ra trong phòng thí nghiệm, mà còn ở tính chất của các biến số. Như vậy, thực nghiệm tự nhiên ít được sử dụng hơn bởi vì: a) Không phải lúc nào cũng cho phép kiểm soát chặt chẽ các biến số được nghiên cứu. b) Đôi khi bắt buộc thực nghiệm viên phải chờ đợi sự xuất hiện của các hiện tượng mà anh ta đang quan tâm; c) Nhiều khi không thể thực hiện được.

Để khắc phục nhược điểm của phương pháp thực nghiệm tự nhiên và thực hiện trong phòng thí nghiệm, người ta sử dụng một loại thực nghiệm khác được gọi là sự đồng nhất. Đặc trưng của loại này thể hiện, trước hết, ở sự gần gũi giữa mô hình thực nghiệm với các điều kiện thực (ít nhất là trong tính chất của chúng) và sau nữa, ở tính có thể kiểm soát được các biến số. Mô hình được thực nghiệm (sự trình bày các điều kiện, các hiện tượng, các tín hiệu) có thể được làm bằng tay (do thực nghiệm viên làm) hoặc bằng các phương tiện bán tự động hay tự động.

Các mô hình thực nghiệm có thể rất phong phú tuỳ thuộc vào mục đích các hiện tượng cần nghiên cứu. Số liệu thực nghiệm cần được xử lý thống kê. Đồng thời, những kết quả thu được sau khi phân tích phải được kiểm định và khẳng định trong điều kiện vận hành của hệ thống.