Có thờ có thiêng có kiêng có lành nghĩa là gì

Nguyễn Vũ Diệu 

PHẦN III. Tiếp theo VÌ SAO “CÓ THỜ CÓ THIÊNG, CÓ KIÊNG CÓ LÀNH”.

Các vấn đề kiêng cữ của người Việt kể cả hiện tượng khách quan và những nghi lễ liên quan tôi đã trình bày ở hai phần trước. Nhưng vấn đề vì sao lại “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”? Bài viết này được bổ sung bởi anh Nguyễn Đắc Đại hỏi tôi về vấn đề này.

Vấn đề “có kiêng, có lành” thì tôi đã xác định rằng: Nó không phải là sự kiêng cữ vu vơ. Mà là có nguyên nhân khách quan của những nhận thức đã bị thất truyền, do một nền văn minh bị sụp đổ. Hay nói một cách khác: Có một chân lý được nhận thức, đằng sau những tục kiêng cữ này. Nhưng vấn đề còn lại: Tại sao “có thờ có thiêng”? Và bàn thờ bao giờ cũng được chọn vị trí trang trọng nhất với những nghi lễ long trọng nhất – dù bạn theo tôn giáo, hoặc tín ngưỡng nào. Tôi có thể khẳng định rằng: nếu cách đây 50 năm, nền tảng tri thức của nền văn minh hiện nay sẽ không thể lý giải được điều này. Tất nhiên, điều đó cũng trở nên huyền bí trong suy nghĩ của nhiều người. Và những người tự cho mình có tri thức khoa học và chỉ tin theo những nhận thức gọi là “được khoa học công nhận”, sẽ luôn coi việc thờ cúng là “mê tín dị đoan”. Vậy nó thiêng ở chỗ nào? Thờ Chúa; thờ Phật, thờ Đức Ala; thờ Ông Địa….thờ ai thì “thiêng” hơn? Hay cứ “có thờ, có thiêng”? Vì sao lại thiêng? Nó do con người tin vào sự thiêng liêng, hay thiêng thật? Ở đây tôi chỉ đưa ra một cách giải thích và mọi người có quyền đưa ra một cách giải thích khác. Tôi không tranh luận. Trước hết, tôi xin lưu ý quý vị và các bạn một sự kiện thực nghiệm của Vật Lý Lượng tử. Đó là các nhà khoa học đã chứng minh bằng thực nghiệm rằng: “Ý thức tương tác với cấu trúc vật chất vi mô”. Cụ thể nó tương tác với các hạt cơ bản. So sánh với những tri kiến của Lý học Đông phương – nhân danh nền văn hiến Việt – thì phát hiện của Vật Lý Lượng Tử mới chỉ là kiến thức sơ khai về bản chất của hiện tượng được thực nghiệm. Nền tảng tri thức khoa học hiện nay – cụ thể là Vật Lý lương tử – mới chỉ nhận thức qua thực nghiệm hiện tượng. Nhưng nền văn minh hiện nay vẫn chưa thể hiểu được bản chất cơ chế tương tác của ý thức với các hạt cơ bản. Bởi vậy, để giải thích được “có thờ, có thiêng” vẫn chưa thể rốt ráó, chính vì nên tảng tri thức của cả nền văn minh hiện nay, chưa đủ để hiểu biết tường tận những bí ẩn của thiên nhiên và vũ trụ. Nhưng sự kiện thực chứng của Vật Lý Lượng tử – xác định một thực tế khách quan , là “ý thức tương tác với vật chất vi mô”, lại là nền tảng để có thể mô tả và giải thích vì sao “có thờ, có thiêng”. Nếu cách đây trên 50 năm về trước, sẽ không thể giải thích điều này, vì thiếu những nền tảng tri thức khoa học thực nghiệm căn bản, nhằm xác định một thực tại khách quan. Và đến nay, chính những thực nghiệm này của ngành Vật lý Lương tử, xác định một sự liên hệ giữa hai phạm trù của cả triết học và khoa học là “Vật chất” và “Ý thức” – một các gọi khác của ý thức là “tinh thần”. Mặc dù từ rất lâu, trong lĩnh vực của triết học, người ta đã thừa nhận sự tương tác của ý thức lên vật chất. Sự khác nhau của “Duy tâm” hay “Duy vật”, chỉ là cái gì có trước và cái gì là bản thể quyết định của cái kia mà thôi. Tóm lại, tôi muốn xác định với quý vị và các bạn rằng: Dù trong lĩnh vực triết học, hay khoa học thì đến ngày hôm nay, ở nền tảng tri thức căn bản của nền văn minh, con người vẫn thừa nhận tính tương tác của ý thức với vật chất. Và điều này đã được các thực nghiệm của Vật Lý Lượng tử chứng minh. Thưa quý vị và các bạn. Như tôi đã trình bày: Nền tảng tri thức khoa học hiện nay – cụ thể là Vật Lý lương tử – mới chỉ nhận thức qua thực nghiệm hiện tượng. Nhưng nền văn minh hiện nay, vẫn chưa thể hiểu được bản chất cơ chế tương tác của ý thức với các hạt cơ bản. Đương nhiên, khi nền tảng tri thức của cả một nền văn minh hiện đại, vẫn chưa thể hiểu được “bản chất cơ chế tương tác của ý thức lên vật chất vi mô”, của Vật Lý Lượng tử – thì – sự giải thích không thể coi là dễ hiểu. Do đó, tôi cần xác định một số tiên đề để làm cơ sở cho việc giải thích: Vì sao “có thờ có thiêng”. Tiền đề thứ nhất. Định nghĩa về vật chất của tôi là: [“Tất cả mọi dạng tồn tại có năng lượng và tương tác, đều là vật chất”]. Đây là một nền tảng tri thức rất căn bản, mà tôi đã giảng trong khóa học 8 buổi về “Những kiến thức căn bản về Lý học Đông phương – nhân danh nền văn hiến Việt”. Trên cơ sở này, các học viên của lớp Địa Lý Lạc Việt, mới có thể hiểu rõ những tri kiến trong chuyên ngành ứng dụng Địa Lý Lạc Việt, Và họ sẽ hiểu rõ ngành Địa Lý Lạc Việt, hoàn toàn rất khoa học. Mọi mô hình biểu kiến của DLLV đều có chân lý khách quan, đằng sau những mô hình biểu kiến và phương pháp ứng dụng của nó. Tiền đề thứ hai. Định nghĩa về khái niệm “Khí” trong Lý học Đông phương – nhân danh nền văn hiến Việt, là: [“Khí là một dạng tồn tại của vật chất phi khối lượng, phi hình thể. Được hình thành bởi vật chất và tương tác trở lại với vật chất. Khí chính là trường tương tác của mọi dạng tồn tại của vật chất và với chính nó”] Trên cơ sở của sự xác định qua thực nghiệm trong ngành Vật Lý Lượng tử và những tiền đề đã trình bày, tôi xác định rằng: Việc thờ cúng – “có thờ có thiêng” – chính là sự tập trung ý thức của một cá nhân, một gia đình, một cộng đồng làng xã, một dân tộc cho một địa điểm tín ngưỡng, tôn giáo của họ. Dù họ thờ cái gì? Sự giải thích này, trên cơ sở thực chứng của ngành Vật Lý Lượng tử và sự tương tác với năng lượng của một dạng vật chất quen gọi là “ý thức”. Vậy thì tại sao nó lại thiêng? Và nó hình như cũng thiêng thật với hàng loạt hiện tượng, mà người ta có thể kể ra về sự linh thiêng của những nơi thờ tự (?!). Sự tương tác của ý thức (Một dạng tồn tại của vật chất) với địa điểm tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo ra một dạng “khí” và thông qua – trường khí tồn tại khách quan và độc lập – với hai đối tượng (Ý thức và địa điểm tín ngưỡng), tổng hợp thành một tập hợp những tương tác, tác động trở lại với môi trường, khiến nó trở nên “linh thiêng”. Thưa quý vị và các bạn. Cụm từ mà tôi trình bày ở trên – [“trường khí tồn tại khách quan và độc lập”] – chính là điều kiện địa lý của môi trường có địa điểm tín ngưỡng, là chùa, miếu, đình, đền, nhà thờ….Và điều này giải thích vì sao các Địa Lý phong thủy gia – từ cổ chí kim – có thể dùng tri thức Địa Lý phong thủy để tác động đến sự linh thiêng của địa điểm tín ngưỡng, tôn giáo. Thưa quý vị và các bạn. Tôi đã giải thích xong vấn đề “Có thờ có thiêng”, nhưng tôi cũng xin nhắc lại, rằng: Đấy chỉ là một sự giải thích. Bất cứ ai cũng có quyền giải thích khác tôi theo cách hiểu của họ. Tôi không tranh luận. Tuy nhiên, tôi cũng cần xác định rằng: Việc gọi là “đuổi mưa” thực chất chỉ là sự tương tác của ý thức với vật chất. Có điều quan niệm về vật chất của Lý học Đông phương – nhân danh nền văn hiến Việt – và quan niệm về vật chất của nền văn minh hiện đại khác nhau khá xa. Chưa nói đến bản chất cơ chế tương tác, cái mà tôi cần xác định rằng: Nền tảng tri thức của nền văn minh hiện nay chưa biết gì về nó. Ngài SW Hawking cho rằng: 50 năm trước khi Lý thuyết Tương đối của Eistein được công nhận, nền tảng tri thức của nền văn minh chưa đủ để đặt vấn đề về Lý Thuyết thống nhất. Tôi xin bổ sung thêm rằng: 100 năm nữa, nếu không thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ Nam sông Dương tử, và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương, thì nền văn minh hiện này cũng còn tiếp tục đặt vấn đề có hay không một Lý thuyết thống nhất. Cảm ơn sự quan tâm và chia sẻ của quý vị và các bạn. PS: Thưa quý vị và các bạn. Với định nghĩa về vật chất của tôi thì Thượng Đế và các thánh thần nếu còn tương tác với trần gian, thì các Ngài cũng phải có năng lượng – tức là một dạng tồn tại của vật chất. Có điều dạng tồn tại nào thì còn là sự tiếp tục khám phá. Những ai có tín ngưỡng vẫn cứ tiếp tục giữ niềm tin của các vị. Định nghĩa lại về vật chất, xóa bỏ ranh giới giữa ý thức và các khái niệm vật chất cổ kim, không có nghĩa Thượng đế và các thánh thần không tồn tại. Nhưng điều chắc chắn rằng: Định nghĩa lại về vật chất, sẽ làm thay đổi và mở rộng đối tượng nghiên cứu khoa học. Đức Phật đã chứng minh một cách hoàn hảo trong bộ kinh nổi tiếng “Thần Chú Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm” rằng: Không thể có hai cái “Tính thấy” nhìn thấy nhau.

Bởi vậy, cái nền khoa học thực chứng, thực nghiệm hiện đại, cần phải có những lý thuyết khoa học hoàn hảo để tiếp tục phát triển. Do những cái nó không thể nhìn thấy.

Bài này đã được đăng trong Các Đề Tài Khác. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.

Thực sự, trong cuộc sống, có nhiều chuyện khó lý giải nhưng nó hiện hữu rất thật và cũng không nằm ngoài nhân quả: người hống hách không trọng ai thì không thể an ổn được và ngược lại vậy thôi!

Có thờ có thiêng có kiêng có lành nghĩa là gì


1. Còn nhớ, cách đây 5 năm, khi đó, với nhu cầu mở rộng nhà để thờ tự trang nghiêm hơn nên gia đình tôi quyết định cơi nới thêm khu nhà trên. Do vậy, bắt buộc phải đốn hạ một cây mít đã gắn bó với gia đình khá lâu năm - từ hồi còn là nhà tranh be bé, cũng mấy chục năm tuổi.Việc quyết định đốn cây mít được đưa ra thì vài hôm sau, má tôi kêu một người trong xóm qua hạ giúp. Mít được hạ xong, cưa làm nhiều đoạn, không xảy ra chuyện gì cho tới vài hôm sau, đột nhiên trong nhà xuất hiện một cặp rắn hổ mây quấn trên mái nhà. Tuy là tư gia nhưng hàng đêm nhà tôi đều tổ chức tụng kinh, bái sám giống như một ngôi thất nhỏ, nên thấy cảnh ấy dù không sợ lắm nhưng cũng cảm thấy lo.Bấy giờ, má tôi mới sực nhớ là có lần đã nhìn thấy cặp rắn này trú ngụ trên cây mít thì mới hoảng hồn: chắc do mình “phá nhà” mấy ổng nên ổng vào nhà mình để ở. Tôi trấn an má bình tâm, và hãy tha thiết tụng kinh, hồi hướng - “mời” mấy ổng tìm chốn khác để ở. Vài tuần trôi qua, cả nhà cùng sống chung với “hai ông dài” đó và đột nhiên, một buổi sáng còn tờ mờ, tôi nghe một tiếng rơi rất mạnh ở nền nhà và bật dậy. Cảnh tượng hai “ông” rắn dữ bò trong nhà mình khiến người cứng cỏi nào cũng ớn trong người.Khi đó, tôi và má theo dõi thì thấy mấy ổng bò trước gian thờ một lát rồi lẻn ra ngoài. Đến trưa và tối thì thấy tiếp tục quấn trên trần nhà. Tôi nói với má: Vậy là không ổn. Sau đó, tôi chợt nhớ lại, tích hoàng hậu hóa rắn sau khi chết và duyên khởi của bộ Lương hoàng sám, nên nói với má: Hai má con mình phải tụng bộ Lương hoàng sám - để sám hối việc phá nhà người ta mà không nói một tiếng (dù nó chính đáng với mình), nguyện cho mấy ổng hiểu, thông cảm mà rời đi chứ kiểu này sao an ổn mà ở được.Liền buổi tối hôm đó, tôi và má khai kinh, tụng Lương hoàng sám. Đúng ba bữa sau khi tụng và lạy Phật hồi hướng thì hai ông rắn đã đi đâu mất, nhà tôi trở lại bình thường. Lúc đó, má con tôi mới thực sự rút ra một điều là, cái cây lâu năm trong vườn nhà mình (dù là của mình) thì cũng không nên tùy tiện chặt hạ mà không thông báo một tiếng cho “cảnh giới” khác, vì chắc chắn đó cũng là “nhà” của nhiều chúng sanh khác.

2. Nghĩ chuyện nhà mình, tôi lại nhớ tới chuyện chùa Long Thọ ở xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Tôi và một vài Phật tử thiện tâm năm ngoái đã từng đến đây, nghe Sư cô trụ trì Thích nữ Đồng Lạc kể về việc linh thiêng của ngôi chùa cổ. Đó có thể là những lần “ai đó” gọi dậy công phu, gọi báo có trộm… trong mơ hồ nhưng rất rõ ràng, dứt khoát và chính xác. Trong đó, có một việc cũng liên quan tới chuyện chặt cây.

Sư cô chia sẻ: hồi đó chùa có cây xoài cũng khá lớn tuổi. Vì nhu cầu xây cất chùa nên có ý muốn hạ cây xoài nhưng cô ngại vì “tuổi cây lớn hơn tuổi cô”. Khi đó, Sư cô trụ trì đã thắp hương bạch với Tam bảo, rồi ra “nói chuyện” với cây xoài về việc chùa cần được mở rộng và bắt buộc phải hy sinh cây xoài, mong cây thông cảm cũng như tất cả chúng sanh trú ngụ trên cây hoan hỷ.Điều bất ngờ là, sau bữa “thưa gửi” đó không lâu thì lá xoài tự rụng, khi đó nhà chùa mới an tâm hạ cây và an ổn xây dựng chùa. Theo Sư cô Đồng Lạc thì mình và mọi loài cộng cư, mỗi loài có duyên-nghiệp riêng, nhiều loài có linh tánh nên mình nghĩ gì đều tương thông. Do vậy phải tôn trọng nhau, đừng có xem thường…

3. Đó chính là “có kiêng, có lành”! Kiêng là tôn trọng và đừng ỷ mình mạnh, mình có quyền, có tiền rồi muốn làm gì cũng được. Trong nhiều cảnh giới khác, có thể có những loài và chúng sinh còn mạnh hơn, nếu mình không sống đàng hoàng thì việc họ chi phối đời sống của mình là có thể lắm. Nên chăng, làm gì đó, đều nghĩ tới Tam bảo, để được soi sáng và cẩn trọng khi làm, khiêm hạ khi hành sự để không bị bất cứ thế lực nào cảm thấy khó chịu. Nhờ vậy mình được an ổn, an ngay trong nếp nghĩ đầy tôn trọng người khác, loài khác.

Thực sự, trong cuộc sống, có nhiều chuyện khó lý giải nhưng nó hiện hữu rất thật và cũng không nằm ngoài nhân quả: người hống hách không trọng ai thì không thể an ổn được và ngược lại vậy thôi!

Bài viết: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành"
Thành Toàn/ Vườn hoa Phật giáo