Cơ thể con người có khoảng 700 cơ vân (cơ xương), hàng tỷ tế bào cơ trơn và 01 cơ tim. Vậy cơ nào khỏe nhất trong số các cơ này? Không dễ để có câu trả lời cho câu hỏi này vì có nhiều cách khác nhau để đo lường sức mạnh của cơ bắp, gồm có:
Hầu hết mọi người đã biết hệ cơ bắp của con người gồm có ba loại đó là cơ xương (cơ vân), cơ trơn và cơ tim. Cơ tim tạo nên thành tim và chịu trách nhiệm cho sự co bóp mạnh mẽ của tim. Các cơ trơn tạo nên các thành của ruột, tử cung, mạch máu và các cơ bên trong của mắt,... Cơ xương (cơ vân) được gắn vào xương và ở một số vùng da (cơ ở mặt chúng ta). Co thắt của cơ xương giúp cho chân tay và các bộ phận khác của cơ thể có thể di chuyển. Vị trí của cơ vân trong cơ thể Hầu hết các tài liệu đều nói rằng có hơn 650 cơ xương được đặt tên trên cơ thể con người. Cũng có một số tài liệu nói đến con số 840 cơ xương. Sự bất đồng này đến từ việc đếm các cơ trong một vị trí. Ví dụ như cơ bắp tay brachii là một cơ phức tạp có hai đầu và hai nguồn gốc khác nhau, tuy nhiên ở một phía chúng hợp lại thành một. Bạn có thể tính đây là một hoặc hai cơ? Mặc dù hầu hết mọi người đều có cùng một hệ thống cơ bắp, tuy nhiên có một số thay đổi giữa người này với người kia. Nói chung, cơ trơn không được tính ở đây vì hầu hết các cơ này ở cấp độ tế bào và số lượng lên đến hàng tỷ. Về cơ tim, chúng ta chỉ có một mà thôi. Các cơ bắp được đặt tên Latin theo vị trí, kích thước tương đối, hình dạng, hành động, nguồn gốc của cơ. Ví dụ như cơ flexic hallicis longus là cơ dài uốn cong ngón chân cái:
Cơ dài uốn cong ngón chân cái (flexic hallicis longus) Dưới đây là các cơ được coi là mạnh nhất trong cơ thể con người dựa trên các định nghĩa khác nhau về sức mạnh:
Cơ tim là cơ bắp làm việc chăm chỉ nhất trong cuộc đời mỗi người
Thật khó để có thể nói cơ nào khỏe nhất trong cơ thể con người, bởi có nhiều cách khác nhau để đo lường sức mạnh của cơ bắp như sức mạnh tuyệt đối, sức mạnh động, sức mạnh đàn hồi hay sức bền. Việc tập thể dục, tập gym có thể làm tăng cơ, giúp cho một nhóm cơ nào đó phát triển và mạnh hơn. Nguồn tham khảo: loc.gov XEM THÊM:
Cấu tạo xương bàn chân: Bàn chân có thể được chia thành ba vùng. Bàn chân sau (rearfoot) bao gồm xương sên và xương gót; bàn chân giữa (midfoot) bao gồm xương ghe, 3 xương chêm và xương hộp; và bàn chân trước gồm các xương bàn ngón và các xương ngón chân. Khớp: Hầu hết các vận động ở chân xảy ra tại ba khớp hoạt dịch: khớp cổ chân (talocrural), khớp dưới sên (subtalar) và khớp giữa cổ chân (midtarsal). Bàn chân di chuyển trong ba mặt phẳng hầu hết các vận động xảy ra trong chân sau.
Quay sấp: xảy ra trong một hệ thống chuỗi mở với bàn chân hở mặt đất, bao gồm vặn ngoài (mặt phẳng trán) xương gót, dạng (mặt phẳng ngang), và gập mu bàn chân (mặt phẳng trước sau). Quay ngửa: ngược với quay sấp, với gót vặn trong (mặt phẳng trán), khép (mặt phẳng ngang) và gập lòng (mặt phẳng trước sau) ở tư thế không chịu trọng lượng Vặn trong và vặn ngoài của khớp dưới sên có thể đo được bằng góc tạo thành giữa cẳng chân và xương gót. Vặn trong khớp dưới sên có thể từ 20°đến 30°. Vặn trong sẽ giảm đáng kể ở những người bị thoái hóa khớp cổ chân. Vặn ngoài trung bình khoảng 4-5°. Hầu hết bệnh nhân viêm khớp, vặn ngoài quá mức xương gót tạo nên biến dạng bàn chân sau vẹo ngoài.
Các khớp khác của bàn chân giữa là các khớp trượt với vận động trượt và xoay nhỏ. Bàn chân trước gồm các xương bàn ngón và xương ngón chân cùng với các khớp giữa chúng. Chức năng của bàn chân trước là duy trì vòm ngang giữa bàn chân, vòm dọc trong, và giữ sự linh hoạt của xương bàn ngón thứ nhất. Mặt phẳng của bàn chân trước ở đầu xương bàn ngón được tạo bởi các xương bàn ngón thứ hai, thứ ba, và thứ tư. Mặt phẳng này vuông góc với trục dọc của gót chân trong sự chỉnh thẳng bàn chân trước bình thường. Đó là vị trí trung gian của bàn chân trước. Nếu mặt phẳng này bị nghiêng vào trong (mặt trong nâng lên) thì gọi là bàn chân trước ngửa hoặc varus, ngược lại nếu mặt phẳng nghiêng ra ngoài gọi là bàn chân trước sấp hoặc valgus. Nếu xương bàn ngón thứ nhất nằm dưới mặt phẳng của các xương bàn đốt kế cận, gọi là hàng đầu gập lòng, thường kết hợp với bàn chân hõm. Khớp cổ- bàn ngón chân (tarsometatarsal): là các khớp trượt, cho phép chuyển động hạn chế giữa các xương chêm, xương hộp với các xương bàn ngón. Các vận động khớp cổ-bàn ngón chân thay đổi hình dạng của vòm ngang bàn chân. Khi xương bàn ngón chân thứ nhất gập và dạng và xương bàn đốt thứ năm gập và khép, vòm sâu hơn hoặc tăng độ cong. Tương tự như vậy, nếu xương bàn ngón thứ nhất duỗi và khép và xương bàn ngón thứ năm duỗi và dạng, vòm bẹt xuống. Gấp và duỗi ở các khớp cổ- bàn ngón chân cũng góp phần vào động tác vặn trong và vặn ngoài của bàn chân. Khớp giữa xương chêm đầu và xương bàn ngón thứ nhất vận động nhiều, cho phép xương bàn ngón thứ nhất chịu trọng lượng và tạo lực đẩy tới. Các khớp cổ- bàn ngón chân được làm vững bởi các dây chằng mu chân trong và ngoài. Các khớp bàn –ngón chân (metatarsophalangeal) là khớp hai trục, cho phép gập duỗi và dạng khép. Những khớp này chịu tải trong giai đoạn đẩy tới của dáng đi sau nhấc gót chân và bắt đầu gấp lòng bàn chân, gấp các ngón chân. Duỗi ngón chân nhiều hơn ngón tay do đòi hỏi của giai đoạn đẩy tới của dáng đi. Các khớp gian đốt ở bàn chân tương tự bàn tay, là khớp một trục cho phép gấp duỗi ngón chân. Các ngón chân ít chức năng hơn ngón tay bởi vì chúng thiếu một cấu trúc đối diện như ngón tay cái.
Các xương cổ chân và bàn ngón tạo nên ba vòm, hai vòm chạy theo chiều dọc và một vòm chạy ngang bàn chân. Cơ cấu này tạo nên một hệ thống hấp thụ sốc đàn hồi. Khi đứng, một nửa trọng lượng được chịu bởi gót chân và một nửa bởi các xương bàn ngón ở trước với một phần ba trọng lượng này là ở xương bàn ngón thứ nhất. Vòm dọc bên ngoài được hình thành bởi xương gót, xương hộp, xương bàn ngón thứ tư và thứ năm. Vòm này tương đối bằng phẳng và ít di động. Bởi vì nó thấp hơn so vòm dọc trong, vòm ngoài có thể chạm đất và chịu một phần trọng lượng trong vận động, do đó đóng vai trò nâng đỡ trong bàn chân. Vòm dọc trong chạy từ xương gót đến xương sên, ghe, chêm và ba xương bàn ngón đầu tiên. Nó linh hoạt và di động hơn so với vòm ngoài và đóng một vai trò quan trọng trong việc hấp thụ lực sốc khi tiếp xúc với mặt đất. Mặc dù vòm dọc trong thay đổi khi vận động, nó thường không chạm đất, trừ khi một người có bàn chân phẳng chức năng. Vòm dọc trong được nâng đỡ bởi xương sên, dây chằng gót- sên, dây chằng dọc gan chân, và mạc gan chân (fascia plantar), một mạc xơ dày cày từ xương gót đến khớp bàn- ngón chân. Vòm ngang được tạo bởi các xương cổ chân nêm vào và nền các xương bàn ngón. Các xương hoạt động như các thanh xà nâng đỡ vòm này, dẹt xuống khi chịu trọng lượng và có thể chịu ba đến bốn lần trọng lượng cơ thể. Dựa vào chiều cao của vòm trong có thể chia làm bàn chân bình thường, hõm (vòm cao) và bẹt (bàn chân bằng). Bàn chân hõm có phần giữa bàn chân không chạm đất, có khả năng hấp thu lực kém. Ngược lại, bàn chân bẹt, thường tăng vận động, có mặt lòng bàn chân tiếp đất nhiều nhất và làm yếu mặt trong. Loại bàn chân này thường kết hợp với quay sấp quá mức suốt thì tựa của dáng đi. Cơ góp phần quan trọng vào cấu tạo bàn chân con người: Có hai mươi ba cơ tác động lên cổ chân và bàn chân, 12 có nguồn gốc ngoài bàn chân và 11 bên trong bàn chân. Tất cả 12 cơ bắp bên ngoài, ngoại trừ cơ bụng chân, cơ dép, và cơ gan chân (plantaris), tác dụng lên cả các khớp dưới sên và khớp giữa bàn chân. Các cơ của bàn chân đóng một vai trò quan trọng trong việc chịu các tác động có cường độ rất cao. Chúng cũng tạo ra và hấp thụ năng lượng trong khi vận động. Các dây chằng và gân cơ lưu trữ một phần năng lượng cho sự trở lại sau đó. Ví dụ, gân Achilles có thể lưu trữ 37 jun (J) năng lượng đàn hồi, và các dây chằng của vòm chân có thể lưu trữ 17 J khi bàn chân hấp thụ các lực và trọng lượng cơ thể.
Mạc (mạc sâu) của gan chân dày lên tạo cân gan chân (plantar aponeurosis). Cân gan chân có hình tam giác và chiếm vùng trung tâm của gan chân. Phần mạc phủ các cơ giạng của ngón cái và ngón thứ hai thì vẫn mỏng. Đỉnh của cân gan chân bám vào củ gót. Nền của cân gan chân chia ra ở ngang gốc các ngón chân thành 5 chẽ, mỗi chẽ lại tách đôi để bao quanh các gân gấp và cuối cùng hoà lẫn với bao sợi gân gập. Tư các bờ trong và ngoài của cân gan chân, nơi nó liên tiếp với mạc phủ các cơ giạng ngón cái và ngón út, có các vách sợi chạy lên vào gan chân và tham gia vào sự hình thành các ngăn mạc của gan chân. |