Chương trình môn học văn hóa việt nam năm 2024

1. Dẫn luận Văn hoá học 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Văn hóa Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hóa ngay từ những bước đi sơ khởi, tuy không phải ngay lúc ấy đã có một khái niệm văn hóa độc lập song có thể nói rằng văn hóa xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại, trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp. Ở phương Đông, từ văn hóa mà chúng ta dùng có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong ngôn ngữ Hán, hai chữ văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt. Theo những tài liệu cổ xưa của Trung Quốc thì văn có nghĩa là “ vẻ đẹp ”, hóa có nghĩa là “ biến đổi ”, biến hóa. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “ làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ ”. Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỷ III TCN. Xét về nguồn gốc, văn hóa là khái niệm gắn với sản xuất nông nghiệp. Văn hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ Cultus có nghĩa gốc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở rộng thành Cultus animi và được chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn con người. Từ thuật ngữ gốc Latinh này mà xuất hiện từ Culture trong tiếng Anh, Pháp, Kultur trong tiếng Đức và Kultura trong tiếng Nga đều có nghĩa là văn hóa. Theo tiến trình lịch sử, khái niệm văn hóa dần phong phú hơn về nội hàm, trong rất nhiều thế kỷ nó được dùng để chỉ những khái niệm và hiện tượng hết sức khác nhau. Năm 1952, A. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp. Năm 1871, E. Tylor đưa ra định nghĩa: “ Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội ”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật... Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người. F. Boas định nghĩa: “ Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với

1.1.1. Các khái niệm liên quan với văn hóa _ Văn minh_* Văn minh là danh từ Hán – Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sáng, chỉ tia sáng của đạo đức biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc Latinh là civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh là thị dân, công dân. Văn minh chủ yếu liên quan tới kĩ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho đáp ứng được đòi hỏi của con người. Cho nên một thành tựu của văn minh thường lan rộng khắp thế giới. Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động của trí tuệ, tâm thức con người. Nếu như văn minh của loài người tiến lên không ngừng thì văn hóa lại không thể. Có những nước văn minh rất cao nhưng văn hóa lại suy giảm. Thế giới đã trải qua nhiều nền văn minh: văn minh đồ đá, văn minh du mục, văn minh nông nghiệp, văn minh thương nghiệp, văn minh công nghiệp và đang bước vào văn minh hậu công nghiệp. Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau ở các điểm sau: - Văn hóa là khái niệm bao trùm gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần còn văn minh thiên về giá trị vật chất. - Văn hóa luôn có bề dày của quá khứ còn văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ “trình độ phát triển. - Văn hóa mang tính dân tộc, văn minh mang tính quốc tế. - Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Theo đấy, văn minh là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất. * Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải (Văn là văn hóa, hiến là hiền tài). **_Văn vật_* là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ tài và hiện vật trong lịch sử. Để dễ dàng cho việc phân biệt các thuật ngữ trên, Trần Ngọc Thêm đã thể hiện thông qua bảng so sánh:

Bảng 1: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật

VĂN HÓA VĂN HIẾN VĂN VẬT VĂN MINH Chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần

Thiên về giá trị tinh thần

Thiên về giá trị vật chất

Thiên về giá trị vật chất- kỹ thuật Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển Có tính dân tộc Có tính quốc tế Gắn bó nhiều với Phương Đông nông nghiệp Gắn bó nhiều với phương Tây đô thị

1.1.1. Văn hóa học Để nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, người ta sử dụng nhiều môn khoa học khác nhau như Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, Khảo cổ học, Tâm lý học.. nhiên chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển. Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận tổng thể trong nghiên cứu văn hóa và cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hóa học là Edward B – nhà nhân học nổi tiếng người Anh với cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871). Tuy nhiên, công sáng lập ra văn hóa học thì thuộc về nhà nhân học Hoa Kỳ Leslie Alvin White (1900-1975). Ông nổi tiếng với những công trình lý luận về sự tiến hóa của văn hóa và với những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ông gọi là “văn hóa học”. Trong các tác phẩm “Khoa học về văn hóa” (The Science of Culture - 1949), “Sự tiến hóa của văn hóa” (The Evolution of Culture - 1959), “Khái niệm văn hóa” (The concept of Culture - 1973) L.A đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một môn khoa học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học... Cuối thế kỷ XX, khi tiến trình toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ lên đời sống của các cá thể và cộng đồng trên thế giới, người ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân văn hóa đối với các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, và do đó mới quan tâm đầu tư để thúc đẩy văn hóa học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới. Nhờ thế mà các bộ môn nghiên cứu về văn hóa có điều kiện để phát triển, dẫn đến việc phổ biến khoa học về văn hóa ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, khái niệm về Văn hóa học cũng được bàn luận nhiều nhưng vẫn chưa đi đến thống nhất. Có thể tham khảo một vài quan điểm sau : Trong công trình Đại cương văn hóa Việt Nam, Phạm Thái Việt cho rằng: Văn hóa học là một bộ môn khoa học tương đối mới, một khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu văn hóa nói chung vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt. Mục đích của văn hóa học là phát hiện ra và phân tích tính quy luật của những biến đổi văn hóa – xã hội. Còn Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “Văn hóa học là một ngành khoa học nhân văn giáp ranh với khoa học xã hội, có đối tượng nghiên cứu là văn hóa với tư cách một hệ thống giá trị mang tính biểu tượng, bằng hệ phương pháp lý luận định tính mang tính liên ngành với độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu”. 1.1. Đặc trƣng và chức năng của văn hóa Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa. ... Cấu tr c của hệ thống văn hóa Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thống. Trên cơ sở này, hợp lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau:

HỆ THỐNG TIỂU HỆ VI HỆ

HỆ THỐNG

VĂN HÓA

. Văn hóa nhận thức

  1. Nhận thức về vũ trụ
  1. Nhận thức về con người

2. Văn hóa tổ chức cộng đồng

  1. Tổ chức đời sống tập thể
  1. Tổ chức đời sống cá nhân

. Văn hóa ứng xử với môi trƣờng tự nhiên

  1. Văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên
  1. Văn hóa đối phó với môi trường tự nhiên

4. Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội

  1. Văn hóa tận dụng môi trường xã hội
  1. Văn hóa đối phó với môi trường xã hội

Bảng 2: Cấu trúc của Hệ thống văn hóa

. .4. Đối tƣợng của Văn hoá học Mặc dù trong việc định nghĩa thế nào là văn hóa có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau nhưng trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học văn hóa thì các nhà nghiên cứu đều đi đến chỗ thống nhất: đối tượng của văn hóa học chính là văn hóa. Vậy nên, công việc của chúng ta là đã rõ ràng: - Tìm hiểu văn hóa là gì? - Đặc trưng và chức năng? - Các quy luật vận động và biến đổi của văn hóa ?...

. .5. Các phƣơng pháp nghiên cứu . .5.. Phƣơng pháp chung Hệ thống - chỉnh thể: khi xem xét bất cứ thành tố văn hóa nào cũng phải đặt nó trong chính hệ thống, chỉnh thể mà nó tồn tại nhằm tìm ra giá trị, vai trò thực chất của nó. Liên ngành: Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm hàm chứa những nội dung rất phong phú và rộng lớn. Để tiếp cận được, đặc biệt hơn là để có thể hiểu được, con đường tất yếu là phải tạo ra sự kết hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau. Lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử Lôgich (cách tiếp cận đồng đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ không gian, thời gian cụ thể, mang tính chất khách quan nhất, không áp đặt quan điểm của bản thân. . .5. Phƣơng pháp chu ên biệt Nhân học văn hoá: một trong những đối tượng nghiên cứu của ngành Nhân học là lịch sử hình thành, phát triển và không ngừng biến đổi của các tộc người. Nghiên cứu văn hóa dưới góc độ nhân học sẽ chỉ ra đượ c đặc trưng văn hóa tộc người. Sử học văn hoá: thực hiện phương pháp này, chúng ta nghiên cứu văn hóa trong tiến trình hình thành, phát triển với những quy luật nội tại của chúng, nghiên cứu văn hóa gắn với lịch sử tư tưởng, lịch sử xã hội của mỗi dân tộc và nhân loại. Xã hội học văn hoá: vận dụng những phương pháp nghiên cứu tối ưu của Xã hội học như quan sát, miêu tả, điều tra hiện tượng văn hóa để có cái nhìn đa chiều, cả chất và lượng. Kinh tế học văn hoá: Cơ sở kinh tế - xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền văn hóa và của các thành tố văn hóa. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Cơ sở kinh tế - xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng phát triển của văn hóa; bởi văn hóa mang tính giai cấp. .2. Văn hoá Việt Nam 1.2. Khái niệm văn hóa Việt Nam Văn hóa Việt Nam như đang tồn tại là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người. Hiện nay Việt Nam gồm có tất cả 54 tộc người, trong đó tộc người Việt/ Kinh là tộc người chủ thể. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặ c điểm là một nền văn hóa đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hóa Việt Nam cần phải hiểu và phản ánh được tính thống nhất trong sự đa dạng ấy. Hiện trạng văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử lâu dài, bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã hình thành những hằng số văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hằng số và bản sắc văn hóa luôn được gìn giữ và phát huy, và nó đang là nền tảng cho việc xây dựng một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

1.2.2. Nhân học - văn hoá Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng, điều kiện tự nhiên ở một số vùng trên trái đất cũng thay đổi và do cả những cuộc xâm lược lẫn nhau của chính con người đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý khác. Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hóa vốn trước kia bị chi phối bởi hoàn cảnh địa lý. Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một không gian địa lý có thể hàm chứa vô số các không gian văn hóa khác nhau. Đây là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự ra đời của phương pháp nhân học – văn hóa nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp địa – văn hóa. Phương pháp này xác định thực thể văn hóa chủ yếu dựa vào sự phân bố chủng người và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn hóa với chủ thể - con người (vừa là vật mang, vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hóa), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc vào hoàn cảnh địa lý khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hóa. Nó chuyển sang xem xét văn hóa như một quá trình tự thân có khả năng tái sản xuất ra chính nó trong khuôn khổ của một cồng đồng xác định. Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, có thể thấy văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tính đa dạng văn hóa là kết quả của sự đa dạng tộc người (có 54 tộc người đang sinh sống tại Việt Nam), trong đó, tộc người Kinh (Việt) đóng vai trò chủ thể (chiếm 90% tổng dân số). Bởi vậy, văn hóa Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng tâm vào văn hóa chủ thể - văn hóa Việt. * Về mặt chủng tộc, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: - Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10 năm về trước), có một dòng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam, tới vùng Đông Nam Á cổ đại thì dừng lại và hợp chủng với dân cư Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông Nam Á cổ đại. - Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5000 năm về trước), tại khu vực nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình Indonesien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ phía bắc đã hình thành chủng mới là chủng Nam – Á. Dần dà, chủng Nam – Á này đã được chia tách thành một loạt các dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt... sinh sống khắp khu vực phía nam sông Dương tử cho tới

Bắc Trung Bộ ngày nay, hợp thành những khối cư dân lớn như Môn – Khmer, Việt – Mường, Tày – Thái, Mèo – Dao... - Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ thể, trong đó người Việt (Kinh) chiếm gần 90% dân số cả nước. Ở phía nam Việt Nam là nơi cư trú của các tộc người Chăm, Giarai, Êđê, Churu, Hroi... gọi chung là Nam Đảo. * Về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay (tiếng Việt của tộc người Kinh) là kết quả của quá trình hòa hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng Bách Việt và quá trình Hán hóa. - Lúc đầu ngôn ngữ của người Kinh gồm các thổ ngữ của người Bách Việt. Cùng với sự hòa huyết và chung sống, và xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng, đó là ngôn ngữ Việt – Mường. Các yếu tố cấu thành ngôn ngữ Việt – Mường là Môn – Khơme, Tày – Thái. - Quá trình giao lưu văn hóa với Hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào giai đoạn Bắc thuộc, ngôn ngữ Việt – Mường đã hấp thụ Hán ngữ để làm giàu và phát triển. - Cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây – từ thời Pháp thuộc đến nay đã đem lại cho tiếng Việt một diện mạo mới, được đánh dấu bằng sự ra đời chữ Quốc ngữ và một cấu trúc ngữ pháp cũng như vốn từ vựng ổn định như ngày nay. 1.2.2. Tôn giáo Trong thiên niên kỷ thứ ba này, quá trình toàn cầu hóa đang kiến tạo nên các hệ thống chuẩn mực chung cho toàn nhân loại. Điều đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh đang gia tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hóa. Chính điều này đã làm cho các nền văn hóa ngày càng trở nên giống nhau hơn, xét từ góc độ văn minh. Trong tình huống đó, tôn giáo với bản tính phi duy lý cố hữu của nó đã không bị biến dạng bởi tính duy lý của khoa học và công nghệ. Nhờ đó, tôn giáo đã trở thành chỗ dựa cho bản sắc văn hóa của nhiều cộng đồng trong điều kiện toàn cầu hóa. Đó chính là lý do khiến việc định vị văn hóa bằng tôn giáo trở thành một phương pháp thịnh hành trong các nghiên cứu hiện nay về văn hóa. Có thể coi Chiristopher Dawson (1889 - 1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp định vị này. Theo ông, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu tượng mà là truyền thống văn hóa hay tập tục văn hóa. Cũng theo ông thì một xã hội giàu sức sống tất có một tôn giáo, mà tôn giáo này ở mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hóa của xã hội ấy. Do đó, việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hóa sẽ mở ra một cái nhìn mới, hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn đề có liên quan đến sự phát triển xã hội. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, Việt Nam thuộc cộng đồng các quốc gia Phật giáo (cùng với Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma...). Cách phân loại này đã không xếp Nho giáo vào hàng tôn giáo.

đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan – Homo sapien). Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ (cách đây khoảng 300 năm) phát hiện ở núi Đọ - Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học thuộc hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ (tồn tại trong khoảng từ 30 đến 11 năm cách ngày nay). Trong giai đoạn Tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm, loài người cũng bước vào thời đại đá mới. Thời kỳ này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ... Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hòa Bình. Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi, nhất là khu vực gần cửa hang thoáng đãng, có ánh sáng. Người Hòa Bình cũng sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm theo phổ rộng. Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hóa thuộc trung kỳ và hậu kỳ đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, họ đã chinh phục đượ c hai vùng sinh thái là núi, trước núi và ven biển. Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những mảnh thổ hoàng... Tư duy về thời gian vũ trụ được con người thể hiện bằng những hoa văn kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ... vẽ trên đồ gốm. Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người. 1.2.3.1. Thời Sơ sử Cách đây 4 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam có ba trung tâm văn hóa:

  • Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
  • Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chămpa.
  • Văn hóa Đồng Nai (miền Nam) là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công

nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long. *** Văn hóa Đông Sơn**

  • Quá trình hình thành Quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và Nhà nước đầu tiên của người Việt cổ. Quá trình này là một sự phát triển có ý nghĩa nhảy vọt trong lịch sử Việt Nam. Bởi lẽ, về mặt xã hội sự phát triển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ, từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, tiến đến hình thành Nhà nước sơ khai là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, rồi Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ những tiền đề của văn hóa thời Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là văn minh sông Hồng – quá trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hòa chung vào một nền văn hóa thống nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung cho đến bờ sông Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân nhiều thành phần tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái, Tạng – Miến, Nam Đảo.
  • Thành tựu văn hóa Đông Sơn
  • Văn hóa tổ chức xã hội Xã hội Đông Sơn là một xã hội đã có phân hóa nhưng chưa sâu sắc, Nhà nước thì mới hình thành. Đơn vị cơ sở của xã hội là công xã nông thôn – một tổ chức mang tính chất vùng địa lý, tập hợp một số gia đình gần gũi nhau cùng chung sống, quan hệ huyết thống dòng họ được duy trì. Đơn vị kinh tế là gia đình nhỏ. Ở phạm vi quốc gia, ngay từ thời kỳ này đã xác lập thể kết hợp “Nhà – Làng – Nước” mang sắc thái riêng của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong đó, làng là đơn vị xã hội – văn hóa giữ vai trò chủ yếu trong sáng tạo, bảo tồn và tái tạo các truyền thống văn hóa.
  • Văn hóa vật chất Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước dùng cày với sức kéo trâu bò phát triển, với sản phẩm chủ yếu là lúa. Bên cạnh đó là các ngành sản xuất thủ công như luyện kim, chế tạo đồ gốm, thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt vải cũng phát triển. Cơ cấu bữa ăn là Cơm – Rau - Cá. Có tục uống nước chè, uống rượu, tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình... Y phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến tới trồng gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu... Nhà ở chủ yếu là nhà sàn có nhiều kiểu dáng, vật dụng sinh hoạt chủ yếu bằng gốm, tre nứa... Phương tiện đi lại là bằng thuyền, bè, mảng... Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai trên lưng, con người cũng biết thuần dưỡng voi để chuyển chở. Nghề mộc phát triển nên người xưa đã đóng được những thuyền lớn chở được vài chục người, họ còn đóng cả thuyền chiến, thuyền đua...
  • Văn hóa tinh thần

công, mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo, và rộng hơn là với Ấn Độ, với Trung Hoa. *** Văn hóa Đồng Nai** Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay khoảng 4 – 5 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông, giáp biển. Các cư dân ấy là lớp người đầu tiên đến lập nghiệp ở vùng đất này và xây dựng nên văn hóa Đồng Nai, đặt nền móng cho thời kì chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long, tức thời kì của văn hóa Óc Eo vào những thế kỉ đầu công nguyên sau này. Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là nghề nông và nghề thủ công. Trong trồng trọt, lúa là loại cây lương thực chính. Người Đồng Nai còn khai thác các sản vật rừng và săn bắn. Nghề thủ công của họ khá phát triển, thể hiện ở chế tác các đồ trang sức bằng đá, thủy tinh, sắt, đồng... Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai còn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể hiện qua nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng... Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh. Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa láng giềng như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh... 1.2.3. Văn hoá Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên 1.2.3.2. Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc *** Bối cảnh văn hóa lịch sử** Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước công nguyên, nền văn hóa Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 T, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông - Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 T, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ này kéo dài từ năm 179 T tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỷ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Trong diễn trình lịch sử văn hóa, bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa mạnh mẽ, gìn giữ bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, chống lại chính sách đồng hóa, đồng thời

vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. *** Tiếp x c cƣỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán** Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thống trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện. + Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, kẻ thống trị Hán có ý thức di thực mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt với mục đích thiết lập trên đất này một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập quán giống như Trung Hoa. Đó là các chính sách bắt dân bản xứ học tập như người Hán, ăn mặc, tổ chức xã hội, làm ruộng giống người Hán. Ngoài ra còn có những cuộc di cư ồ ạt từ phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt để đồng hóa người Việt. + Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập của đạo Nho, đạo Lão – Trang... vào Việt Nam. + Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán còn để lại dấu ấn trong những lĩnh vực khác như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng nói... Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc không thành công. Điều đó là do trong suốt thời gian này, bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngoài. Đó là chiều hướng chống Hán hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Vì thế từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh Đông Sơn mà sợi dây liên kết là Nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng đã bị giải thể cấu trúc. Những mảnh vụn của nền văn minh này cùng với cái “thần thái Đông Sơn” của nó tuy không bị mất đi nhưng một mặt đã hòa tan vào nền văn hóa dân gian của các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á; mặt khác đã và sẽ gá lắp với những thể chế văn minh ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn Độ... để dần dần tạo nên một sắc thái văn minh mới. *** Giao lƣu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn** Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta từ rất sớm, khoảng thế kỉ I, II đầu công nguyên. Ở đời Hán, ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương ở Hà Nam (kinh đô nhà Hậu Hán), Bành Thành ở Giang Tô và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta. Trung tâm Luy Lâu có thể được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà

Phong tục, lễ giáo, văn học nghệ thuật trong thời kỳ Bắc thuộc vẫn được duy trì và phát huy mạnh mẽ. Nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình, tục chôn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu... Tục thờ cúng các anh hùng huyền thoại và các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan... được người Việt thực hiện thường niên. Các tín ngưỡng và lễ hội nông nghiệp của cư dân lúa nước vẫn giữ được sức sống của nó trong lòng các làng xã. Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như khánh, chuông... chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,... vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng... Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong thời Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giống như một học giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc. 1.2.3.2. Văn hóa Chămpa Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ hộ của phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa tan rã. Trong quá khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Khánh Hoà, Phan Rang - Phan Thiết. Từ rất sớm (vào những thế kỉ trước công nguyên), thông qua các hoạt động thương mại và truyền giáo, người Chăm đã giao lưu với văn hoá Ấn một cách hoà bình.

  • Đời sống kinh tế Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa nước – dâu tằm – bông – hoa màu; nghề rừng khai thác lâm thổ sản như quế, trầm hương, hạt tiêu...; nghề biển; nghề thủ công như rèn, dệt vải lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc... Người Chăm có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa chịu hạn (lúa Chiêm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với đất khô hạn, người Chăm có hàng loạt biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hồ đập... đặc biệt là hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cồn cát, đồi gò mà vết tích hiện nay vẫn còn thấy ở Ninh Thuận, Bình Thuận...
  • Đời sống tôn giáo Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hoá Chăm, trong đó

Bàlamôn giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất. - Brahmanism là tiền thân của Hinđu giáo (Ấn Độ giáo ngày nay), với ý niệm trung tâm là bộ ba gồm các thần: Brahma (thần sáng tạo đầy quyền năng) - Visnu (thần bảo trợ và bảo tồn) - Siva (thần huỷ diệt). Trong bộ ba này, người Chăm đặc biệt coi trọng vai trò của Thần Siva , khiến cho việc thờ phụng Siva trở thành một nhánh tôn giáo phát triển khá độc lập, khiến có thể hiểu Brahmanism của người Chăm là Siva giáo.