Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Công nghệ 2.0 là gì?

Gắn liền với vai trò to lớn tạo ra cuộc cách mạng này của nhiều cường quốc trên thế giới, cách mạng công nghệ 2.0 để lại dấu ấn nổi trội.

Công nghệ 2.0 là gì?

Công nghệ 2.0 là sự phát triển vượt bậc trong công nghệ kỹ thuật với sự xuất hiện của điện thoại, đài phát thanh, tivi…. đã thay đổi toàn bộ cục diện nền văn hóa xã hội trên thế giới. Được xác định là khởi nguồn ngay sau khi kết thúc cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, các mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra vào nửa cuối thế kỷ 19.

5 Cách đầu tư sinh lời, kiếm tiền cực dễ năm 2022 theo xu thế phát triển mà ai cũng có thể làm được, chỉ cần học:

VIDEO 5 CÁCH ĐẦU TƯ SINH LỜI CỰC DỄ THEO XU HƯỚNG NĂM 2022

Thành tựu và ảnh hưởng

Không chỉ tác động đến bước phát triển ở tầm cao mới trong văn hóa, xã hội, công nghệ 2.0 còn chuyển biến nhanh chóng toàn diện ngành sản xuất. Minh chứng là hệ thống dây chuyền sản xuất hiện đại được thiết lập, ứng dụng tự động hóa, tiêu chuẩn chất lượng cao… vào hoạt động sản xuất, tạo năng suất, hiệu quả cao.

Nhờ sự phát triển về mọi mặt đó, tốc độ đô thị hóa cũng bắt đầu gia tăng nhanh trong giai đoạn này nên cũng ít nhiều để lại những hệ quả nhất định đối với xã hội.

Tại nhiều khu vực nông thôn, ngành nông nghiệp phát triển nhờ các nghiên cứu phân hóa học, công nghệ sinh học đã thúc đẩy năng suất tăng trưởng mạnh mẽ. Với công nghiệp, nhiều ngành đã tăng sản lượng vượt trội như kim loại, cao su… đã khiến nền kinh tế được đẩy mạnh.

Thiết lập nhiều tiêu chuẩn sống mới hiện đại, tiên tiến hơn nhờ cuộc cách mạng công nghệ 2.0. Chất lượng cuộc sống tăng và dân số cũng theo đó tăng trưởng nhanh. Điển hình cho các quốc gia dẫn đầu trong công nghệ này là Mỹ và các quốc gia Tây Âu.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì
Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu trong nội dung bài viết này.

Phân biệt cách mạng 1.0 2.0 3.0 4.0

Đăng lúc: Thứ hai - 10/12/2018 01:39 | Tin tức công nghệ | : Người đưa tin | Đã xem: 75557 | 0

Tweet

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Cong nghe 40

Ngày nay ai cũng nói về cách mạng 4.0 nhưng ít người biết cách mạng 1.0 cho đến cách mạng 2.0 và cách mạng công nghiệp 3.0 là gì, hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu lại đôi chút nhé

Cách mạng công nghiệp 1.0

Cuộc cách mạng lần thứ nhất bắt đầu ở Anh vào cuối thế kỷ 18 với sự ra đời của máy hơi nước nhằm đáp ứng nhu cầu dệt may thời đó. Thế rồi kỹ thuật luyện kim được cải thiện, nhu cầu sử dụng than cho động cơ hơi nước tăng cao đã kéo theo sự biến đổi toàn diện về kinh tế, kỹ thuật, văn hóa.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Cách mạng công nghiệp 1.0
Hàng loạt hệ thống đường sắt được xây dựng, con người có thể đi được xa hơn và liên lạc được tốt hơn bằng hệ thống điện tín. Nông nghiệp cũng phát triển mạnh nhờ các nghiên cứu về canh tác, sinh học. Đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, dân số tăng trưởng nhanh và nước Anh cũng như vùng Tây Âu bắt đầu giành lấy vị thế thống trị trên toàn cầu.

Cuộc cách mạng công nghiệp 2.0

Ngay sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cuộc cách mạng lần thứ 2 tiếp diễn sau đó từ nửa cuối thế kỷ 19 nhờ dầu mỏ và động cơ đốt trong. Thời kỳ này, điện năng được sử dụng nhiều hơn và công nghệ kỹ thuật được phát triển vượt bậc. Điện thoại, tivi, đài phát thanh...đã thay đổi hoàn toàn văn hóa xã hội. Trong khi đó, các ngành sản xuất cũng biến chuyển nhanh chóng với hàng loạt dây chuyền sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, tự động hóa...

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Một xưởng sản xuất của nhà máy sản xuất xe hơi Ford
Trong thời kỳ này, xu thế đô thị hóa bắt đầu tăng nhanh gây ra những hệ quả nhất định trong xã hội. Tại các vùng nông thôn, sự phát triển của phân hóa học, các nghiên cứu về sinh học, nông nghiệp đã thúc đẩy năng suất. Sản lượng công nghiệp như kim loại, cao su... tăng nhanh đã thúc đẩy các ngành kinh tế.
Nhờ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 này mà thế giới được hưởng tiêu chuẩn sống hiện đại và chất lượng chưa từng có trong khi dân số tăng trưởng nhanh. Mỹ và các nước Tây Âu thời kỳ này là những quốc gia có vị thế dẫn đầu.

Cách mạng công nghiệp 3.0

Mặc dù còn nhiều tranh cãi,những cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 được cho là bắt đầu từ khoảng năm 1969 khi nhiều cơ sở hạ tầng điện tử, số hóa và máy tính được phát triển mạnh. Vào thập niên 1960, chất bán dẫn và các siêu máy tính được xây dựng, đến thập niên 70-80 thì máy tính cá nhân ra đời và Internet bắt đầu được biết đến nhiều trong thập niên 90.

Cho đến cuối thế kỷ 20, Internet và hàng tỷ thiết bị công nghệ cao cùng nhiều phát minh mới đã được sử dụng rộng rãi trong xã hội, qua đó hoàn thiện quá trìnhcách mạng công nghiệp lần thứ 3.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì


Đến thời điểm thế kỷ 21, một cuộc tranh cãi tiếp tục nổ ra trong quá trình chuyển giao giữa cách mạng lần thứ 3 và thứ 4.
Một số chuyên gia cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 đã chấm dứt khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á nổ ra vào năm 1997 và làn sóng thứ 4 đã diễn ra từ đầu thế kỷ 21 với các cuộc cách mạng số, những công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), hệ thống tự động kết nối cao (Internet of Thing), công nghệ nano, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới...

Tuy nhiên, một số khác lại cho rằng giai đoạn đầu thế kỷ 21 mới thai nghén cuộc cách mạng thứ 4 và cuộc cách mạng thứ 3 vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Làn sóng thứ 4 chỉ thực sự bắt đầu từ khoảng năm 2010 khi những tiến bộ khoa học vượt bậc cho phép con người vươn ra ngoài không gian. Nhiều chuyên gia thậm chí coi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là cuộc cách mạng khoa học công nghiệp vũ trụ khi con người có thể khám phá, khai thác và sinh sống ngoài trái đất.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Cách mạng công nghiệp 4.0

Cách mạng công nghiệp 4.0
Mô tả về một môi trường mà máy tính, tự động hóa và con người nói chung sẽ cùng nhau làm việc theo một cách hoàn toàn mới. Những con robot, hay máy móc nói chung, sẽ được kết nối vào những hệ thống máy tính. Các hệ thống này sử dụng thuật toán machine learning để học hỏi và điều khiển máy móc, cần rất ít hoặc thậm chí là không cần sự can thiệp nào từ con người cả.

Đây là lý do mà nhiều người gọi Industry 4.0 như là một "nhà máy thông minh". Và để có đủ dữ liệu phục vụ cho Industry 4.0, các máy móc phải "cống hiến" dữ liệu ngược lại về hệ thống trung tâm cũng như thu thập dữ liệu từ các nguồn bên ngoài thì quyết định được máy đưa ra mới chính xác. Đây chính là khái niệm Internet of Things mà chúng ta đã nghe nhiều trong thời gian qua.

Theo tờ Forbes và các tác giả Hermann, Pentek, Otto, 2016, một hệ thống, hay nói cụ thể hơn là một phân xưởng, cần phải có những điều kiện sau thì mới được gọi là "công nghiệp 4.0":
  • Khả năng giao tiếp:máy móc, thiết bị, cảm biến và con người phải được kết nối và liên lạc với nhau
  • Minh bạch thông tin:hệ thống tạo ra một "bản sao" của thế giới thật, bản sao này định hình bằng các dữ liệu thu thập từ cảm biến, máy móc
  • Hỗ trợ kĩ thuật:máy móc, hệ thống phải hỗ trợ con người ra quyết định, giải quyết vấn đề, giúp con người làm những việc quá phức tạp hoặc không an toàn
  • Ra quyết định theo mô hình phân tán:những quyết định đơn giản cần phải được quyết bởi máy, nhanh chóng, tự động, không cần con người can thiệp

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Minh họa cho cách mạng công nghệ 4.0

Lấy ví dụ về một xưởng sản xuất nội thất cho anh em dễ hiểu nhé.
Trong xưởng này, theo truyền thống, sẽ có những người thợ mộc đo đạc, cắt xẻ gỗ, ráp những miếng gỗ lại, sơn phết, hoàn thiện, đóng gói trước khi đưa ra xe hàng chở đi. Trong suốt quá trình đó có nhiều nguy hiểm: máy cưa cắt có thể cắt phải tay chân của thợ mộc, sơn có thể chứa hóa chất độc hại...

Con người cũng có thể phạm sai lầm khi cắt miếng gỗ ngắn hơn so với thiết kế hay lỡ sơn nhiều hơn bình thường. Tất cả máy móc trong phân xưởng này đều là những thiết bị cũ kĩ, thủ công, và cần con người vận hành.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Xưởng gỗ thủ công (minh họa)

Để xưởng này trở thành "công nghiệp 4.0", chủ xưởng cần phải nâng cấp máy móc này sao cho chúng có thể tự chạy, tự thu thập dữ liệu, tự ra quyết định. Ví dụ, họ có thể thay những máy cắt gỗ thủ công bằng những hệ thống mới hơn có khả năng thu thập dữ liệu. Khi lưỡi cưa cắt gỗ, nó sẽ liên tục kiểm tra với thiết kế để biết khi nào thì dừng lại.

Chiều dài, tiết diện mỗi thanh gỗ được cắt đều được lưu trữ về một máy chủ trung tâm để dự đoán xem lưỡi cưa có bị lục không, thời gian cắt mỗi mét là bao nhiêu, khi nào thì cần bảo trì máy chứ không phải đợi hư rồi mới sửa...

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Xưởng gỗ 4.0
Những cảm biến mới cũng được gắn vào từng sản phẩm thô để biết bao nhiêu món đã được đẩy sang khâu sơn phết, hoàn thiện, bao nhiêu sản phẩm bị bỏ đi. Và việc quyết định nên dùng thùng sơn A, B hay C sẽ do máy chọn dựa theo lượng sơn còn lại trong từng thùng, người ta không phải mở nắp thùng ra xem thủ công (cảm biến bên trong sẽ báo lượng sơn còn lại, tất nhiên là tự động luôn). Việc quyết định sơn bằng thùng sơn nào là quyết định nhỏ nhặt, máy làm được thì để máy làm, anh thợ mộc sẽ làm khâu khác.

Mặc dù chưa rõ quan điểm của chuyên gia nào là chính xác, nhưng rõ ràng nền công nghiệp thế giới hiện nay đang có những chuyển biến vượt bậc so với thời kỳ thập niên 1960. Quá trình tự động hóa, sử dụng robot hay những nhà máy thông minh đang ngày càng được nhiều công ty lựa chọn nhằm tiết kiệm chi phí cũng như nâng cao năng suất.

Theo ước tính của McKinsey, những nhà máy thông minh có thể đóng góp khoảng 2,3 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu vào năm 2025. Trong khi đó, nghiên cứu của MarketsandMarkets cho thấy tổng giá trị thị trường của ngành công nghiệp Internet of things đã đạt 94 tỷ USD vào năm 2014 và sẽ tăng lên 151 tỷ USD vào năm 2020.

Bên cạnh đó, các hệ thống trí thông minh nhân tạo dần thay thế con người trong nhiều hoạt động sản xuất, những vật liệu mới được phát minh đã cải tiến được các sản phẩm và nâng cao mức sống. Các phát minh mới về năng lượng giúp thúc đẩy hơn nữa quá trình phát triển năng lượng sạch, giảm phụ thuộc vào dầu mỏ cũng như kiểu sản xuất điện năng truyền thống.

Riêng trong mảng nông nghiệp, các quốc gia ngày nay đang khuyến khích việc sử dụng công nghệ cao với những kỹ thuật biến đổi gen, phân phối nước, điều tiết dinh dưỡng đất trồng... nhằm nâng cao năng suất.

Ngay cả mảng giao thông như sản xuất ô tô ngày nay cũng đang có sự thay đổi chóng mắt về công nghệ. Ngoài những ứng dụng như Uber khiến ngành taxi truyền thống chao đảo, hệ thống lái xe tự động và trí thông minh nhân tạo cùng xe điện của hãng Tesla đang làm toàn ngành xe hơi phải nhìn nhận lại chiến lược phát triển trong tương lai.

Có thể nói, dù thế giới đang trải qua cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay mới chỉ thai nghén nó thì ngành công nghiệp toàn cầu cũng đã có những bước phát triển vượt bậc với sự thay đổi rõ rệt về điều kiện sản xuất so với hồi thập niên 1960, khi cuộc cách mạng lần 3 bắt đầu.

Công nghệ 1.0 là gì?

Công nghệ 1.0 là ngành công nghệ thuộc thời đại cơ giới hóa, thời đại đã bắt đầu có sự thay thế sức lao động trực tiếp của con người với việc sử dụng các loại máy móc cơ khí. Khái niệm công nghệ 1.0 bắt đầu xuất hiện từ cuộc cách mạng công nghiệp 1.0 mang lại nhiều thay đổi lớn về kinh tế, đời sống – xã hội trên thế giới.

Related Articles

  • Thằng Đàn Bà Tiếng Anh Là Gì, Sưu Tầm Những Câu Chửi Thề Bằng Tiếng Anh

  • Cây kim tiền ra hoa báo hiệu gì trong phong thủy? Ý nghĩa ra sao?

  • Ý nghĩa cây hồng môn trong phong thủy và trong thực tiễn

  • Ý nghĩa của hoa bỉ ngạn là gì?

Công nghệ 1.0 là gì?

Mục lục

  • 1 Điều kiện ra đời
    • 1.1 Nguyên nhân
    • 1.2 Những phong trào tri thức tại Châu Âu
    • 1.3 Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ 15–16
    • 1.4 Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lý
    • 1.5 Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỷ 16–18)
  • 2 Khởi đầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
    • 2.1 Điều kiện ra đời Cách mạng công nghiệp ở Anh
    • 2.2 Thành tựu của Cách mạng công nghiệp
    • 2.3 Những hệ quả của Cách mạng công nghiệp
  • 3 Các cuộc cách mạng công nghiệp
    • 3.1 Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
    • 3.2 Cách mạng công nghiệp lần thứ 2
    • 3.3 Cách mạng công nghiệp lần thứ 3
    • 3.4 Cách mạng công nghiệp lần thứ 4
  • 4 Phát minh khoa học kỹ thuật
  • 5 Phát minh học thuyết chính trị
  • 6 Thành tựu văn học nghệ thuật
    • 6.1 Văn học
    • 6.2 Nghệ thuật
  • 7 Tham khảo
  • 8 Liên kết ngoài

Điều kiện ra đờiSửa đổi

Nguyên nhânSửa đổi

Sau thời kỳ Thập tự chinh, những chiến binh trở về mang theo những vật phẩm quý giá và mới lạ với xã hội châu Âu thời bấy giờ như nước hoa, các loại gia vị mới, các sản phẩm bằng thép,... Việc này thúc đẩy việc trao đổi mua bán của các thương nhân châu Âu.[4] Vào thế kỷ 15, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ phương Đông.

Tại Tây Âu, tầng lớp quý tộc cũng tăng lên, do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm (dâu tằm tơ), ngà voi,... đã tăng vọt.

Trong khi đó, Con đường tơ lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị Đế quốc Ottoman theo đạo Hồi chiếm giữ khiến cho hoạt động giao thương của phương Tây không thể qua đây được, vì vậy chỉ có cách tìm một con đường đi mới trên biển.

Lúc đó người Tây Âu đã có nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ dũng cảm.[4]

Những phong trào tri thức tại Châu ÂuSửa đổi

Những phong trào tri thức tại Châu Âu đã tạo ra nền tảng kiến thức cho các cuộc cách mạng công nghiệp ở châu lục này.

Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ 15–16Sửa đổi

Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lý. Năm 1415 một trường hàng hải do Hoàng tử Henrique sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây châu Phi.[5]

Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha do Bartolomeu Dias chỉ huy đã tới được cực nam châu Phi, họ đặt tên mũi đất này là mũi Hảo Vọng.[5][6]

Năm 1497, Vasco da Gama đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ. Ông được phong làm Phó vương Ấn Độ[7]

Người Tây Ban Nha lại đi tìm Ấn Độ theo hướng Mặt Trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do Cristoforo Colombo chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn Độ.[4] Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này, một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Colombo không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người châu Âu. Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này mang tên America.[4]

Năm 1519–1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam châu Mỹ và sang được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh mông đó, đoàn tàu buồm của Magellan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào. Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. Magellan đã thiệt mạng ở Philippines do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có 18 người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người thiệt mạng trên tất cả các vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Những thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng quanh thế giới.

Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lýSửa đổi

Các nhà thám hiểm bằng những chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học,...

Sau những cuộc phát kiến này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân có nguồn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá vùng đất mới, những quân nhân...[8]

Một làn sóng di cư lớn trên thế giới trong thế kỉ 16–18 với những dòng người châu Âu di chuyển sang châu Mĩ, châu Úc.[8] Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê hương xứ sở sang châu Mĩ.[9][10]

Hoạt động buôn bán trên thế giới trở nên sôi nổi, nhiều công ty buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.

Những cuộc phát kiến địa lý này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.[11]

Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế kỷ 16–18)Sửa đổi

Sự phát triển của thị trường trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia, trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ 16-18 đã diễn ra nhiều cuộc cách mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

Bước chuyển đó đã được thực hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan (1566-1572), Cách mạng tư sản Anh (1640-1689), Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ (1775–1783), Cách mạng tư sản Pháp (1789–1799),...

Các cuộc biến động xã hội đó tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công nghiệp thương nghiệp đã có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh mới.

Mục lục

  • 1 Xác định thời gian
  • 2 Nước Đức
  • 3 Hoa Kỳ
  • 4 Công nhân
  • 5 Các phát minh
    • 5.1 Truyền thông
    • 5.2 Động cơ
  • 6 Xem thêm
  • 7 Tham khảo

Các lần cách mạng công nghiệp

Những gì ngày nay chúng ta đang sử dụng hàng ngày như xe máy, ô tô, tivi, máy tính, điện thoại,… đều là những thành quả xuất hiện sau các lần cách mạng công nghiệp trong quá khứ. Trước khi tìm hiểu đếnCách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta sẽ quay trở lại để xem 3 lần cách mạng trước có những gì.

Cách mạng công nghiệp 1.0 (lần thứ nhất)

Vào cuối thể kỷ 18 ở nước Anh, cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hiện. Thời gian này ở Anh nở rộ mô hình công nghiệp ngành dệt may, các máy móc hoạt động chủ yếu dựa vào sức nước do đó hầu hết các nhà máy đều được đặt ở gần sông, điều này gây ra một số bất tiện lớn, do đó vào năm 1784, một phụ tá thí nghiệm tên James Watt đã phát minh ra máy hơi nước. Và khoảng 1 năm sau (1785)linh mục Edmund Cartwright đã sử dụng sức mạnh của máy hơi nước để chế tạo ra máy dệt vải làm tăng năng suất sản xuất lên 40 lần.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Máy hơi nước, biểu tượng của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất !

Mặc dù động cơ hơi nước đã xuất hiện nhưng lúc này chất lượng của các nguyên liệu sắt vẫn chưa đủ độ bền để có thể đáp ứng được việc hoạt động lâu dài của động cơ. Vào năm 1885, Lò cao đượcHenry Bessemer phát minh có khả năng luyện gang lỏng thành thép, một loại kim loại bền hơn so với thép và là thứ có thể đáp ứng được các loại máy móc lúc bấy giờ.

Vào năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước đầu tiên trên thế giới ra đời, sau đó 3 năm, năm 1807 chiếc tàu thủy đầu tiên chạy bằng hơi nước doRobert Fulton chế tạo cũng ra đời, đánh dấu một bước tiến của ngành giao thông vận tải.

=> Như vậy cuộc cách mạng công nghiệp 1.0 là đánh dấu sự ra đời của động cơ hơi nước, thép, và các loại máy móc sử dụng động cơ hơi nước. Biểu tượng của cuộc cách mạng này chính là động cơ hơi nước. Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp 1.0 là nó giúp con người tăng năng suất lao động, là nền tảng để các loại máy móc hiện đại mới ra đời.

Cách mạng công nghiệp 2.0 (lần thứ hai)

Vào cuối thế kỷ 19, nền công nghiệp bắt đầu đối đầu với việc không cung cấp đủ hàng hóa cho thị trường rộng lớn (có thể là do các phương tiện giao thông phát triển, việc vận chuyển trở nên nhanh hơn nên hàng hóa cũng được đẩy mạnh), Dây chuyền sản xuất hàng loạt là một ý tưởng mới và nó đòi hỏi phải có một cuộc cải cách lớn.

Các phát minh về máy tính, máy tự động, hệ thống tự động, hệ thống điều khiển ra đời, kèm với đó là sự xuất hiện của vật liệu độ bền cao như Polyme cũng ra đời đã làm cho nền công nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn, hàng hóa được sản xuất ra nhiều vô kể, đáp ứng được thị trường rộng lớn.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Sản xuất hàng loạt là biểu tượng của cách mạng công nghiệp 2.0. Nhờ nó mà nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật đã phát triển và là nền tảng của sự tăng trưởng nền kinh tế của các nước phát triển.

=> Như vậy cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 đã giúp tạo ra nhiều sản phẩm hơn nhờ vào việc sản xuất hàng loạt và áp dụng được các tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng công nghiệp 2.0 giúp các sản phẩm có giá thành rẻ hơn, bền hơn, hoạt động tốt hơn,… Và điều đặc biệt là nó là đà để phát triển nền kinh tế mạnh mẽ.

Cách mạng công nghiệp 3.0 (lần thứ ba)

Nền công nghiệp đang trên đà phát triển mạnh nhờ vào việc đã sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên vẫn còn cần sử dụng rất nhiều con người để vận hàng máy móc, chi phí vận hành vẫn rất cao và sự sai sót có thể xảy ra do lỗi con người.Vào những năm 1970, một cuộc cách mạng nữa đã xảy ra, đó là cuộc cách mạng của sản xuất tự động với sự gắn kết của thiết kệ điện tử, máy tính và Internet.

Cách mạng công nghiệp 2.0 là gì

Tự động hóa được áp dụng vào dây chuyền sản xuất hàng loạt đã tạo ra các sản phẩm có giá thành rẻ hơn, chất lượng hơn và số lượng cũng nhiều hơn.

Những năm trước đó là sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet. Chính sự phát triển của những tiến bộ công nghệ đó đã tạo tiền đề cho cho cách mạng công nghiêp 3.0.

Đến cuối thế kỉ 20, cách mạng công nghiệp 3.0 đã rộng mở khắp thế giới, mang sự kết nối thông tin mạnh mẽ nhờ vào sự phát triển vượt bậc của Internet và các tiến bộ công nghệ thông tin điện tử.

=> Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 là sự đánh dấu của tự động hóa công nghiệp, và kết nối thông tin liên lạc thông suốt. Nhờ vào Internet, cuộc cách mạng này đã trở thành tiền đề cho sự manh nha của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.