Bài Tôi đi học sách Tiếng Việt lớp 1

Kéo xuống để xem hoặc tải về!

Bài 1 :tôi đi học

I. MỤC TIÊU

Giúp HS :

1. Phát triển kĩ năng đọc thông qua việc đọc đúng , rõ ràng một VB tự sự ngắn và đơn giản , kể lại một trải nghiệm từ ngôi thứ nhất : đọc đúng vần yểm và tiếng , từ ngữ có văn này hiểu và trả lời các câu hỏi có biển quan đến VB ; quan sát , nhận biết được các chi tiết trong tranh và suy luận từ tranh được quan sát .

 2. Phát triển kĩ năng viết thông qua hoạt động viết lại đủng câu trả lời cho câu hỏi trong VB đọc ; hoàn thiện cấu dựa vào những từ ngữ cho sản và viết lại đúng câu đã hoàn thiện ; nghe viết một đoạn ngắn .

 3. Phát triển kĩ năng nói và nghe thông qua trao đổi về nội dung của VB và nội dung được thể hiện trong tranh .

4. Phát triển phẩm chất và năng lực chung : tình cảm đối với bạn bè , thầy cô , trường lớp : khả năng nhận biết và bày tỏ tình cảm , cảm xúc của bản thân ; khả năng làm việc nhóm .

II. CHUẨN BỊ

1 , Kiến thức ngữ văn

– GV nắm được đặc điểm VB tự sự , kể lại một trải nghiệm từ ngôi thứ nhất ; nắm được nội dung VB Tôi đi học , cách thể hiện đặc điểm nhân vật và quan hệ giữa các nhân vật trong VB .

– GV nắm được đặc điểm phát âm , cấu tạo vần yểm ; nghĩa của các từ ngữ khó trong VB ( buổi mai , âu yếm , bỡ ngỡ , tép ) và cách giải thích nghĩa của những từ ngữ này . 2. Kiến thức đời sống

Hiểu tâm lí chung của HS lớp 1 trong ngày đầu đến trường . Nắm được những hoạt động diễn ra ở trường lớp và xác định những hoạt động nào thường khiến HS thấy vui , thấy thân thiết với thầy cô , bạn bè ,. ..

3. Phương tiện dạy học

Tranh minh hoạ có trong SGK được phóng to hoặc máy tính có phần mềm phù hợp , máy chiếu , màn hình , bảng thông minh

III.HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

TIẾT 1

Hoạt động của giáo viên     Hoạt động của học sinh

1. Khởi động

– GV yêu cầu HS quan sát tranh và trao đổi nhóm để trả lời các câu hỏi

 a , Hình ảnh bạn nào giống với em trong ngày đầu đi học ?

 b . Ngày đầu đi học của em có gì đẳng nhớ ?

– GV và HS thống nhất nội dung câu trả lời , sau đó dẫn vào bài đọc Tôi đi học . ( Gợi ý : Chỉ rõ một bạn trong tranh và nêu điểm giống ( VD : khóc nhè , đến trường cùng các bạn khác , bố mẹ chở đi , vui vẻ chào bố mẹ ) . Kể lại một kỉ niệm trong ngày đầu đi học . )    HS quan sát tranh và trao đổi nhóm để trả lời các câu hỏi

– Một số ( 2 – 3 ) HS trả lời câu hỏi . Các HS khác có thể bổ sung nếu câu trả lời của các bạn chưa đầy đủ hoặc có câu trả lời khác

2. Đọc

– GV đọc mẫu toàn VB . Chú ý đọc đúng lời người kể ( nhân vật “ tôi ” ) , ngắt giọng nhấn giọng đúng chỗ . GV hướng dẫn HS luyện phát âm từ ngữ có vần mới

+ GV đưa từ âu yếm lên bảng và hướng dẫn HS đọc . GV đọc mẫu vần yêm và từ âu yếm , HS đọc theo đồng thanh

+ Một số ( 2 – 3 ) HS đánh vần , đọc trơn , sau đó , cả lớp đọc đồng thanh một số lần . HS đọc câu

+ Một số HS đọc nối tiếp từng cầu lẫn 1. GV hướng dẫn HS luyện phát âm một số tiếng khói quanh , nhiên , hiên , riêng .

+ Một số HS đọc nối tiếp từng câu lần 2. GV hướng dẫn HS đọc những câu dài . ( VD : Một buổi mai , mẹ âu yếm nắm tay tôi , dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp ; Con đường này tôi đã đi lại nhiều lần , nhưng lần này tự nhiên thấy lạ ; Tội nhin bat ngôi bên , người bạn chưa quen biết , nhưng không thấy xa lạ chút nào . )

HS đọc đoạn

+ GV chia VB thành các đoạn ( đoạn 1 : từ đầu đến tôi đi học , đoạn 2 : phần còn lại ) . + Một số HS đọc nối tiếp từng đoạn , 2 lượt .

+ GV giải thích nghĩa của một số từ ngữ trong VB ( buổi mai : buổi sáng sớm , âu yếm : biểu lộ tình yêu thương bằng dáng điệu , cử chỉ , giọng nói ; bỡ ngỡ ngơ ngác , lúng túng vị chưa quen thuộc ; nép : thu người lại và áp sát vào người , vật khác để trinh hoặc để được che chở ) ,

+ HS đọc đoạn theo nhóm

+ GV đọc lại toản VB và chuyển tiếp sang phần trả lời câu hỏi .         + HS làm việc nhóm đối để tìm tử ngữ có vần mới trong bài đọc ( âu yếm ) .

HS đọc câu

HS đọc đoạn

+ 1- 2 HS đọc thành tiếng toàn VB ,

TIẾT 2

Hoạt động của giáo viên     Hoạt động của học sinh

3. Trả lời câu hỏi

– GV hướng dẫn HS làm việc nhóm để tìm hiểu VB và trả lời các câu hỏi

 a . Ngày đầu đi học , bạn nhỏ thấy cảnh vật xung quanh ra sao ?

 b . Những học trò tôi đã làm gì khi còn bỡ ngỡ ?

c . Bạn nhỏ thấy người bạn ngồi bên thế nào ?

GV đọc từng câu hỏi và gọi đại diện một số nhóm trình bày câu trả lời của mình . Các nhóm khác nhận xét , tinh giả , GV và HS thống nhất câu trả lời ( a . Ngày đầu đi học , bạn nhỏ thấy cảnh vật xung quanh đều thay đổi hoặc Ngày đầu đi học , bạn nhỏ thấy tất cả cảnh vật xung quanh đều thay đổi , con đường đang rất quen bỗng thành lạ ; b . Những học trò mới đúng tiếp bên người thân ; c . Bạn nhỏ cảm nhận người bạn ngồi bên không xa lạ chút nào ) . Lưu ý : GV có thể chủ động chia nhỏ câu hỏi hoặc bổ sung câu hỏi để dẫn dắt HS ( nếu cần ) .       HS làm việc nhóm để tìm hiểu VB và trả lời các câu hỏi

– HS làm việc nhóm ( có thể đọc to từng câu hỏi ) , cùng nhau trao đổi bức tran minh hoạ và câu trả lời cho từng câu hỏi .

4. Viết vào vở câu trả lời cho câu hỏi a ở mục 3

– GV nhắc lại câu trả lời đúng cho câu hỏi ( có thể trinh chiểu lên bảng một lúc để HS quan sát ) và hướng dẫn HS viết câu trả lời vào vở .

 – GV lưu ý HS viết hoa chữ cái đầu câu ; đặt dấu chấm , dấu phẩy đúng vị trí . GV kiểm tra và nhận xét bài của một số HS . HS viết câu trả lời vào vở . ( a . Ngày đầu đi học , bạn nhỏ thấy cảnh vật xung quanh đều thay đổi . )

TIẾT 3

Hoạt động của giáo viên     Hoạt động của học sinh

5. Chọn từ ngữ để hoàn thiện cầu và viết câu vào vở

– GV hướng dẫn HS làm việc nhóm để chọn từ ngữ phù hợp và hoàn thiện câu .

– GV yêu cầu đại diện một số nhóm trình bày kết quả .

– GV và HS thống nhất cầu hoàn chỉnh . ( Cô giáo âu yếm nhìn các bạn chơi ở sân trường . ) GV yêu cầu HS viết câu hoàn chỉnh vào vở . 1 tra và nhận xét bài của một số HS .           HS làm việc nhóm để chọn từ ngữ phù hợp và hoàn thiện câu

HS thống nhất cầu hoàn chỉnh

6. Quan sát tranh và dùng từ ngữ trong khung để nói theo tranh

– GV giới thiệu tranh và hướng dẫn HS quan sát tranh . Yêu cầu HS làm việc nhóm , quan sát tranh và trao đổi trong nhóm theo nội dung tranh , có dùng các từ ngữ đã gợi ý

– GV gọi một số HS trình bày kết quả nói theo tranh , HS và GV nhận xét .   HS làm việc nhóm , quan sát tranh và trao đổi trong nhóm theo nội dung tranh , có dùng các từ ngữ đã gợi ý

TIẾT 4

Hoạt động của giáo viên     Hoạt động của học sinh

7. Nghe viết

– GV đọc to cả hai câu ( Mẹ dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp . Con đường này tôi đã đi lại nhiều mà sao thấy lạ . )

– GV lưu ý HS một số vần đề chính tả trong đoạn viết .

+ Viết lùi đầu dòng . Viết hoa chữ cái đầu câu , kết thúc câu có dấu chấm .

+ Chữ dễ viết sai chính tả : đường , nhiều , … GV yêu cầu HS ngồi đúng tư thế , cầm bút đúng cách , Đọc và viết chính tả :

+ GV đọc từng câu cho HS viết . Mỗi cầu cần đọc theo từng cụm từ ( Mẹ đãn tối đi . trên con đường làng đài và đẹp . Con đường tôi đã đi lại nhiều mà sao thãy lạ . ) . Mỗi cụm tử đọc 2 – 3 lần . GV cần đọc rõ ràng , chậm rãi , phù hợp với tốc độ viết của HS . + Sau khi HS viết chính tả , GV đọc lại một lần toàn đoạn văn và yêu cầu HS rà Soát lỗi

+ GV kiểm tra và nhận xét bài của một số HS .   HS ngồi đúng tư thế , cầm bút đúng cách

HS đối vở cho nhau để rà soát lối

8. Tìm trong hoặc ngoài bài đọc Tôi đi học từ ngữ có tiếng chửa vần ương , ươn , ươi , ươu

– GV nêu nhiệm vụ và lưu ý HS từ ngữ cần tìm có thể có ở trong bài hoặc ngoài bằi . HS làm việc nhóm dội để tìm và đọc thành tiếng từ ngữ có tiếng chứa các vần ương , ươn , ươi , ươu.

– Một số ( 2 – 3 ) HS đánh vần , đọc trơn ; mỗi HS chỉ đọc một số từ ngữ . Lớp đọc đồng thanh một số lần .            – HS nêu những từ ngữ tìm được . GV viết những từ ngữ này lên bảng .

9. Hát một bài hát về ngày đầu đi học

GV đưa ra một vài câu hỏi giúp HS hiểu lời bài hát . HS nói một câu về ngày đầu đi học   – HS nghe bài hát qua băng đĩa , youtube hoặc qua sự thể hiện của một HS trong lớp .

10. Củng cố

GV yều cầu HS nhắc lại những nội dung đã học .

GV tóm tắt lại những nội dung chính  .

GV tiếp nhận ý kiến phản hồi của HS về bài học . GV nhận xét , khen ngợi , động viên HS .         . HS nêu ý kiến về bài học ( hiểu hay chưa hiểu , thích hay không thích , cụ thể ở những nội dung hay hoạt động nào )

Trong sách Tiếng Việt lớp 1, tập 2 (Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) do nhóm tác giả là Phó giáo sư - Tiến sĩ Bùi Mạnh Hùng cùng các cộng sự biên soạn có sử dụng văn bản đã “cắt gọt, chỉnh sửa” so với nguyên tác tác phẩm “Tôi đi học” của cố nhà văn Thanh Tịnh.

Cách làm này đang tạo nên dư luận trái chiều. Có người cho rằng việc “cắt gọt, chỉnh sửa” như thế là bình thường vì xưa nay “Tây, ta đều làm thế”.

Ngược lại, có người lên tiếng phê phán phản đối cách làm này vì đã làm cho văn bản “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh “khô cứng như gỗ đá”.

Xét thấy đây là vấn đề rất quan trọng vì ảnh hưởng đến chất lượng các bộ sách giáo khoa, chúng tôi có những trao đổi xung quanh vấn đề này như sau:

So sánh nguyên tác “Tôi đi học” của Thanh tịnh và văn bản trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2

Trước hết, chúng ta thử đọc, so sánh và phân tích đoạn đầu trong văn bản “Tôi đi học” được Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng biên soạn đưa vào Sách giáo khoa lớp 1, tập 2 và nguyên bản gốc của của Thanh Tịnh.

Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2 viết:

“Một buổi mai, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã đi lại nhiều lần nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật xung quanh tôi đều thay đổi. Hôm nay tôi đi học.”

Bài Tôi đi học sách Tiếng Việt lớp 1

Văn bản “Tôi đi học” trong Sách giáo khoa lớp 1, tập 2 (Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống). Ảnh: Vương Thuỷ

Nguyên bản gốc bài “Tôi đi học” của Thanh Tịnh:

“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật xung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn. Hôm nay tôi đi học”.

Không khó để bạn đọc nhận ra những chỗ khác biệt do Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng đã cắt gọt và chỉnh sửa so với nguyên bản của nhà văn Thanh Tịnh.

Văn bản trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2 đã bị Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng cắt bỏ cụm “buổi mai hôm ấy”, lược một chữ “tôi”, thay chữ “lắm” bằng chữ “nhiều” và đặc biệt cắt bỏ nguyên cụm từ quan trọng: “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh” và cụm “vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn" trong bài văn kinh điển của tác giả. Từ đó, làm cho đoạn văn của Thanh Tịnh vốn gồm 4 câu chỉ còn có 3 câu.

Trong cuộc đời của mỗi con người, có rất nhiều “buổi mai”. Cụm “một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh” trong nguyên tác rất quan trọng. Nó có ý nghĩa và tác dụng giải thích đồng thời nhấn mạnh đến cái “buổi mai hôm ấy” – cái lần đầu tiên trong đời mà tác giả được mẹ mình “âu yếm nắm tay dẫn đi trên con đường dài và hẹp” để đến ngôi trường làng. Vậy nên, tôi lấy làm lạ là tại sao Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng vốn là một chuyên gia ngôn ngữ lại có thể tùy tiện cắt gọt và gộp lại 2 câu văn của Thanh Tịnh thành một câu như thế?

Việc làm này theo chúng tôi, đã vô tình làm méo mó nội dung, ý nghĩa, khiến khó nhận ra cái hồn cốt, văn phong cũng như sắc thái tình cảm, cảm xúc của cố nhà văn Thanh Tịnh trong nguyên tác “Tôi đi học”.

Nếu là người thân trong gia đình của cố nhà văn Thanh Tịnh tôi nhất định sẽ không cho phép việc cắt gọt, chỉnh sửa tùy tiện này.

Cách đây mấy mươi năm “Tôi đi học” đã được đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy nhưng những người biên soạn sách thời ấy không ai tùy tiện chỉnh sửa tác phẩm văn học này như cách Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng đã làm.

Đưa tác phẩm “Tôi đi học” của Thanh Tịnh vào dạy cho học sinh lớp 1 là chưa phù hợp

- Xét về nội dung, “Tôi đi học” là tác phẩm kể về những hồi ức, những kỷ niệm của Thanh Tịnh khi đã trưởng thành.

Vì thế, tác phẩm này chỉ phù hợp với những ai đã trải qua thời khắc lần đầu tiên được đến trường học. Các cháu học sinh lớp 1 mới vào trường thì làm sao có những ký ức này? “Tôi đi học” vì thế, chỉ phù hợp với các học sinh từ lớp 5 trở lên. Bởi khi ấy, các cháu đã nói viết thuần thục, có những hiểu biết nhất định đặc biệt là kỷ niệm về lần đầu tiên đi học.

Lúc này, người biên soạn chỉ cần sử dụng lại nguyên bản hoặc trích trọn vẹn một vài đoạn đoạn hay nhất để đưa vào mà không cần cắt gọt, chỉnh sửa nhiều.

Đây là lý, các tác giả biên soạn sách giáo khoa trước đây chỉ đưa tác phẩm này vào chương trình dạy học cho học sinh nhưng không không ai đưa vào để dạy cho các cháu mới vào lớp 1. Thậm chí, sách giáo khoa hiện hành, tác phẩm này được đưa vào trong chương trình lớp 8.

- Mục tiêu quan trọng nhất của việc học ở lớp 1 và ghép vần và tập đọc. Văn học nước nhà không thiếu những bài đọc, những câu văn ngắn để phục vụ mục tiêu này? Với một lượng câu chữ tương đương, tôi nghĩ, những người biên soạn sách giáo khoa hoàn toàn có thể lấy văn bản là ca từ trong các bài hát như “Con cò be bé”, hay “Mẹ đi vắng”… để đưa vào dạy cho các cháu lớp 1 tập đọc và đánh vần.

Từ hai lý do trên, tôi cho rằng, Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng đã phạm một sai lầm nghiêm trọng khi chọn và đưa tác phẩm “Tôi đi học” vào dạy cho học sinh lớp 1. Và đây là nguyên nhân Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng buộc phải cắt gọt chỉnh sửa câu chữ trong nguyên tác cho phù hợp với quy định về biên soạn sách giáo khoa. Từ đó vô tình làm méo mó nội dung và ý nghĩa của tác phẩm này.

Điều kiện và nguyên tắc chỉnh sửa nguyên tác văn bản truyện trong khi biên soạn sách giáo khoa

Tôi rất thông cảm với các nhà biên soạn sách giáo khoa môn Ngữ văn trong vấn đề tìm văn liệu để đưa vào làm tài liệu học tập cho học sinh. Đặc biệt là ở các cấp tiểu học (lớp 4, lớp 5) và cấp trung học cơ sở. Bởi đây là lứa tuổi các em đang có những chuyển biến tâm sinh lý rất phức tạp.

Tôi cũng hoàn hoàn đồng ý với quan điểm, khi đưa một “văn bản truyện” vào dạy ở cấp tiểu học cần phải “cắt gọt, chỉnh sửa” sao cho phù hợp trong trường hợp văn bản quá dài. Dẫu vậy, theo tôi điều kiện và nguyên tắc có tính bắt buộc để làm việc này là:

Thứ nhất, văn bản được chọn lựa để đưa vào giảng dạy phải vừa phải hay vừa phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh ở từng lớp học, cấp học cả về nội dung lẫn hình thức trình bày.

Thứ hai, cần phân biệt văn bản truyện với tư cách là một tác phẩm văn học nghệ thuật và văn bản “phi văn học”, chỉ thuần túy là những bài học về luân lý, đạo đức. Với việc “cắt gọt, chỉnh sửa” văn bản là tác phẩm văn học nhất định phải được thực hiện một cách thận trọng để không phá vỡ cấu trúc tác phẩm hay tệ hơn là làm méo mó, thay đổi ý nghĩa nội dung mà tác giả đã thể hiện trong nguyên tác.

Cuối cùng, ở góc độ bản quyền phải tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của tác giả có văn bản được chọn đưa vào sách giáo khoa.

Nói khác đi, về nguyên tắc chúng ta phải tuyệt đối tôn trọng nguyên tác của tác phẩm. Nếu chưa có sự đồng ý của tác giả (hay người thân trường hợp tác giả đã mất) thì người biên soạn sách giáo khoa không được tùy tiện chỉnh sửa (thêm, bớt câu chữ...) có trong nguyên tác.

Những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về dung lượng câu chữ của bài học trong sách giáo khoa là cần thiết nhưng điều này không đồng nghĩa với việc người biên soạn sách giáo khoa tùy tiện cắt gọt chỉnh sửa văn của người khác với lý do nó quá dài. Anh không thể vì mục đích của bản thân mình mà tự ý làm việc đó. Trong xã hội hiện đại làm như thế là xâm phạm bản quyền về sở hữu trí tuệ của người khác.

Ngoài ra, sửa văn người khác, đặc biệt là những áng văn đã trở thành “kinh điển”, đi vào tâm thức của một cộng đồng thiết nghĩ là việc làm cần phê phán.

Thử hỏi, Phó giáo sư Bùi Mạnh Hùng và các cộng sự có dám tùy tiện cắt gọt, chỉnh sửa văn bản “Tuyên Ngôn Độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh như đã làm với trường hợp bài văn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh hay không?

Thay lời kết

Chúng tôi rất chia sẻ với nỗi vất vả với những người làm công tác biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay. Bởi việc tìm văn liệu để đưa vào dạy học là vấn đề rất khó. Dẫu vậy, tôi cho rằng đây là việc làm tự nguyện không ai ép buộc.

Hơn nữa, nói như Giáo sư Huỳnh Như Phương thì “chọn một bài văn/ thơ hay cho học cấp tiểu học tiếp nhận, thì tác dụng tích cực rất lâu dài”. [1]. Vì nó là ấn tượng ban đầu, sẽ theo các cháu nhỏ có khi đến hết cuộc đời sau này.

Vậy nên, đã chấp nhận làm thì phải chấp nhận gian khổ và chịu sự phản biện, giám sát của xã hội. Vì nếu không cẩn thận thì những mục tiêu giáo dục rất tốt đẹp mà các tác giả biên soạn sách đặt ra không những không đạt được mà có khi còn phản tác dụng. Như thế là có lỗi với thế hệ trẻ, rộng hơn là có tội với quốc gia, dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

[1] Huỳnh Như Phương, “Tìm văn liệu cho sách giáo khoa”. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/giao-duc/7429-t%C3%ACm-v%C4%83n-li%E1%BB%87u-cho-s%C3%A1ch-gi%C3%A1o-khoa.html

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả, tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt lại.

Nguyễn Trọng Bình