Ảnh hưởng của thể dục thể thao tới các hệ cơ quan có thể con người liên hệ với bản thân

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINHẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤCTHỂ THAO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCHỆ CƠ QUANTP.HỒ CHÍ MINH, NGÀY 26 THÁNG 10 NĂM 2011Sinh viên làm bài:Lớp: K10402BI. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỂ DỤC THỂ THAO:1. Lịch sử thể dục thể thao:Thể dục thể thao ngay từ khi xuất hiện và phát triển trong xã hội loàingười đến khi hình thành một hệ thống như ngày nay, đã trải qua hàng ngànnăm.Lịch sử phát triển của Thể dục thể thao luôn phù hợp với các thời kỳ pháttriển của xã hội loài người.Thời kỳ nguyên thủy: Cuộc sống tự nhiên đòi hỏi các thành viên nhữngyêu cầu nhất định về sự chuẩn bị thể lực, sự khéo léo, sức mạnh, sức bền, khảnăng hoàn thành nhiệm vụ trong săn bắn, chiến tranh và chống chọi với sự khắcnghiệt của điều kiện tự nhiên. Chính vì vậy đã hình thành và phát triển hệ thốnggiáo dục thể chất đa dạng. Thời kỳ này càng chứng minh sự tồn tại và phát triểncủa con người phụ thuộc trực tiếp vào trình độ chuẩn bị và phát triển các tố chấtthể lực. Nhiều Bộ tộc thời cổ đại đã biết sử dụng các bài tập phát triển thể lựcvà trò chơi vận động như một phương tiện đặc biệt nhăm chuẩn bị cho conngười vào các lao động tự nhiên. Ở một số bộ tộc có quy định nghiêm ngặtkhông cho phép thanh niên được cưới vợ nếu chưa trải qua những thử tháchnhất định về sự chuẩn bị thể lực....Dù trình độ phát triển lực lượng sản xuất xã hội đến mức độ nào thì vaitrò quyết định giá trị phát triển để có tư chất thể lực vẫn có trong đời sống xãhội và tự nhiên. Sự phát triển của chúng luôn là bộ phận quan trọng của nềngiáo dục con người.Trong xã hội nô lệ, điển hình là thời cổ Hy lạp, để tiến hành chiến tranhxâm lược và đàn áp nô lệ; giai cấp chủ nô đã rất chú trọng đến việc giáo dụccho các chiến binh có những kiến thức phong phú và có thể lực tốt; từ đó họ cónhững đội quân hùng mạnh.Thời cổ hy lạp, nếu ai không biết đọc, viết và bơi lội thì bị coi là mù chữ.Giáo dục trong các quốc gia cổ Hy lạp: Spart và Afin là một loại hình cổ của sựphát triển Thể dục thể thao. Nội dung, mục đích của Giáo dục thể chất thời kỳnày nhằm đảm bảo tính phù hợp với điều kiện và yêu cầu của chế độ nông nô.Người học các môn khoa học tự nhiên, xã hội phải học Thể dục- Đấu kiếmCưỡi ngựa- Bơi lội và Chạy; từ 15 tuổi trở lên phải học cả Vật và Vật chiến2đấu. Nhờ đó con người được giáo dục sức mạnh, sự khéo léo và các tố chất cầnthiết. Tiêu biểu nhất về sự phát triển Thể dục thể thao của thời kỳ này là các Đạihội Olympic; đây là hoạt động có giá trị lịch sử, văn hóa cao trong đời sống củathời kỳ hy lạp.Những người chiến thắng trong Olympic được xã hội tôn vinh như vị anhhùng, được xã hội ca ngợi- làm thơ- tạc tượng. Nhiều nhà khoa học vĩ đại thờicổ đại nổi tiếng thế giới cũng từng là những vận động viên xuất sắc. Ví dụ: Nhàtoán học Pitagor là nhà vô địch Olympic về vật chiến đấu; Nhà triết học Platoncũng nổi danh về vật. Các nhà triết học: Socrate và Aristote, diễn giảDémosthène, nhà văn Lukian và các vĩ nhân khác đã đánh giá ý nghĩa lớn laocủa Giáo dục thể chất và khâm phục sự biểu hiện sức mạnh, lòng dũng cảm vàhào hiệp. Aristote đã từng khẳng định: “ Không có cái gì làm tiêu hao và pháhủy con người hơn là sự ngưng trệ vận động”. Trong chế độ nông nô, các bàitập thể dục khác nhau (Vật, nhào lộn, cưỡi ngựa, đấu kiếm) đã được sử dụngrộng dãi ở Ai cập, Babilon, Ba tư, Trung quốc, Ấn độ và đặc biệt ở thành cổRôma. Bắt đầu từ chế độ nông nô, Thể dục thể thao được coi là phương tiệnphục vụ cho giai cấp thống trị.Trong chế độ phong kiến, Giáo dục thể chất mang tính chất phục vụchiến tranh. Giáo dục thể chất trong hệ thống quân đội của tầng lớp phong kiếnvới mục tiêu nắm vững 7 yêu cầu của người hiệp sỹ: cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắncung, bơi lội, săn bắn, chơi cờ và đọc thơ. Những hiệp sỹ đó làm nên đội quânhùng mạnh để giai cấp phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược và đàn ápphong trào nồi dậy của nông dân.Trong xã hội tư bản, Thể dục thể thao phát triển ở trình độ cao. Sự xuấthiện và phát triển sâu rộng của Thể dục thể thao như là một bộ phận quan trọngcủa nền văn hóa xã hội (Thể thao nghiệp dư và nhà nghề). Đồng thời trong giaiđoạn này đã xuất hiện cơ sở về nền lý luận giáo dục thể chất tư sản. Thể dục thểthao trong xã hội tư bản biểu hiện rõ rệt tính chất giai cấp; Giai cấp tư sản sửdụng Thể dục thể thao với mục đích đặc quyền của tầng lớp bóc lột, đánh lạchường quần chúng lao động và đặc biệt là lôi kéo tầng lớp thanh niên ra khỏiđời sồng chính trị xã hội và phong trào cách mạng; kích động và đào tạo thanhniên để chuẩn bị cho chiến tranh.32. Khái niệm chung về thể dục thể thao:Con người trong quá trình tiến hoá, để sinh tồn trong sự đấu tranh với tự nhiênđã hình thành và phát triển những kỹ năng như chạy, nhảy, bơi leo trèo... Trải quaquá trình sống, con người đã nhận biết rằng sự thành thục các kỹ năng trên sẽ giúpích nhiều trong việc tìm kiếm thức ăn, để có thể hình thành những kỹ năng đó chỉcó thông qua tập luyện thường xuyên, từ đó các bài tập thể chất ra đời. Có thể nóithể dục thể thao hình thành cùng với sự tiến hoá của loài người thông qua conđường lao động và đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên.Thế kỷ XIX, ở chân Âu đã xuất hiện một thuật ngữ “Thể dục” (Physicaleducation - Giáo dục thể chất), hàm nghĩa của nó là một loại hình giáo dục nhằmduy trì và phát triển cơ thể. Cùng với sự tiến bộ không ngừng của tiến bộ loàingười và thực tiễn thể dục thể thao ngày càng phong phú thì khái niệm thể dục thểthao với hàm nghĩa bên trong và bên ngoài của nó cũng không ngừng thay đổi.Ngày nay hàm nghĩa thể dục với nghĩa rộng lớn là một quá trình giáo dục đồngthời cũng là một hoạt động văn hoá xã hội, lấy sự phát triển cơ thể, tăng cường thểchất, nâng cao sức khoẻ làm đặc trưng cơ bản. Nó là hiện tượng xã hội đặc thù baohàm giáo dục thể chất, thể dục thể thao thành tích cao và rèn luyện thân thể. Thểdục thể thao là những hoạt động phục vụ cho một nền chính trị, xã hội, kinh tế nhấtđịnh, đồng thời cũng chịu sự ảnh hưởng và hạn chế của nền kinh tế, chính trị, xãhội đó.Giáo dục Thể chất: Là quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thếhệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéodài tuổi thọ của con người.Hệ thống Giáo dục thể chất: là sự tổng hợp các cơ sở khoa học về quanđiểm và phương pháp luận của Giáo dục thể chất cúng với các cơ quan tổ chứcthực hiện và kiểm tra công tác Giáo dục thể chất quốc dân.4Văn hóa Thể chất: là một bộ phận của nền văn hóa chung, là một loạihình hoạt động đặc biệt nhăm hình thành các tố chất thể lực, tăng cường sứckhỏe và khả năng làm việc của dân chúng. Các yếu tố cơ bản của hoạt động nàylà các bài tập thể lực có liên quan chặt chẽ với quá trình hình thành, phát triểncủa nền văn hóa, giáo dục chung của con người. Giáo dục Thể chất là bộ phậncấu trúc nên nền văn hóa thể chất.Phong trào Thể thao: là một hình thức đặc biệt của các hoạt động xã hội,có nhiệm vụ phối hợp nâng cao trình độ văn hóa thể chất và phát triển thể thaotrong nhân dân. Phong trào thể thao là hoạt động có tính mục đích của các tổchức nhà nước, xã hội nhằm phát triển Thể dục thể thao. Phong trào thể thao làmột bộ phận hoạt động văn hóa, giáo dục; nó có vị trí và chức năng quan trọngtrong giáo dục sự hài hòa về nhân cách và thể chất con người.Phát triển thể chất: là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tựnhiên về hình thái, chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội. Pháttriển thể chất của mỗi người phụ thuộc vào những đặc điểm sinh học, điều kiệnsống và quá trình giáo dục của xã hội. Các chỉ số để đánh giá trình độ phát triềnthể lực là: chiều cao- cân nặng- lồng ngực- dung tích sống.Chuẩn bị thể lực: Là nội dung của quá trình giáo dục thể chất, đây là hoạtđộng chuyên môn hóa nhằm chuẩn bị cho con người học tập, lao động và bảovệ tổ quốc.Trình độ thể lực: Là kết quả của quá trình chuẩn bị thể lực, kỹ năng vậnđộng cho một loại hình hoạt động nào đó.Học vấn thể chất: Là sự xác định các tri thức chung, các hê thống kỹnăng- kỹ xảo đề điều khiển các hoạt động của cơ thể trong những điều kiệnsống và hoạt động khác nhau của con người.II.CƠ SỞ KHOA HỌC SINH HỌC TRONG VIỆC LUYỆN TẬP THỂDỤC THỂ THAO:5Việc rèn luyện thể dục thể thao đúng cách được xây dựng dựa trên nhữngthành tựu của các khoa học Y sinh học về cơ thể con người như: Sinh lý, Sinhhóa, Sinh cơ, Giải phẫu, Vệ sinh, Y học.... Không có những kiến thức về cấutạo của cơ thể, vè quy luật hoạt đọng của từng cơ quan của các hệ cơ quan chứcnăng của cơ thể cũng như đặc điểm của các quá trình sống phức tạp thỉ khôngthể tổ chức và tiến hành công tác giáo dục thể chất đạt hiệu quả.1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất. Trao đổi chất và năng lượng:1.1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất:Y sinh học hiện đại khi nghiên cứu cơ thể sống thường tách nó ra thànhcác cơ quan, hệ cơ quan và các chức năng riêng biệt. Tuy nhiên, cơ thể conngười luôn là một hệ sinh học hoàn chỉnh và thông nhất, có khả năng tự điềuchỉnh và tự phát triển. Sự thông nhất đó thể hiện ở cả hai mặt: Giữa các cơquan, hệ cơ quan hoặc các chức năng của cơ thể luôn có sự tác động qua lại vớinhau; sự biến đổi của một cơ quan nhất thiết sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của cáccơ quan khác và nói chung đến toàn bộ cơ thể. Hoạt động của cơ thể bao gồm sựphối hợp của hoạt động tâm lý, hoạt động dinh dưỡng và vận động trong mối liênhệ chặt chẽ với môi trường xung quanh và chịu sự tác động của môi trường. Sựthay đổi của môi trường bao gồm cả sự thay đổi của môi trường tự nhiên và xã hộisẽ dẫn đến những thay đổi trạng thái của cơ thể.- Trao đổi chất và năng lượng:Sự thống nhất của cơ thể với môi trường bên ngoài thể hiện ở sự trao đổichất và năng lượng. Không một tế bào nào của cơ thể có thể tồn tại nếu khôngliên tục nhận được các chất dinh dưỡng, ô xy và đào thải các sản phẩm phângiải. Sự trao đổi chất và năng lượng liên tục của cơ thể được phân chia ra làmhai quá trình. Quá trình Đồng hóa là quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng và ôxy để tích lũy tiềm năng vật chất của cơ thể; Quá trình di hóa là quá trình liêntục phân giải các chất hóa học phức tạp đã hấp thụ được đào tạo thành nănglượng cho cơ thể sống và hoạt động.Quá trình trao đổi chất của cơ thể được chia làm Ba giai đoạn:- Giai đoạn 1: Đưa các chất dinh dưỡng và ôxy vào cơ thể6- Giai đoạn 2: Các cơ quan- tổ chức hấp thụ các chất dinh dưỡng và ô xyđể tích lũy và giải phóng năng lượng- Giai đoạn 3: Đào thải các sản phẩm phân giảiÔ xy được đưa vào cơ thể bằng hệ hô hấp và hệ tim mạch; còn các chấtdinh dưỡng (đường- đạm- mỡ- muối khoáng- vitamin) vào cơ thể cùng thức ăn.Quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh và liên tục trong suốt cuộc đời conngười; Các tế bào luôn phân hủy và được sản sinh; trong 3 tháng cơ thể đã thayđổi gần ½ lường Prôtêin.Ví dụ : sau 5 năm học, niêm mạc dạ dày của sinh viên đã thay đổi tới 500lần. Sự trao đổi chất của cơ thể luôn xảy ra song song với sự trao đổi nănglượng; sự cân bằng giữa năng lượng hấp thụ và năng lượng tiêu hao là chỉ sốquan trọng để đánh giá sự trao đổi năng lượng. Cân bằng dưỡng khi hấp thụ lớnhơn tiêu hao, lúc này cơ thể éo lên, ưa vận động, nếu để cân bằng dương kéo dàisẽ bị bệnh béo phì, sức khỏe giảm sút; cân bằng amaam sẽ làm sút cân, ngườimệt mỏi, giảm khả năng vận động; nếu để kéo dài sẽ dẫn đến bệnh suy dinhdưỡng.Quá trình tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động được diễn ra theo 2 cách:- Đốt chấy đường & mỡ: Khi cơ thể được cung cấp đủ Ôxy thì quá trìnhtạo ra nguồn năng lượng lớn; máu đảm nhiệm việc vận chuyển chất dinh dưỡngvà các sản phẩm phân giải; cơ chế đốt cháy là nguồn năng lường chiếm ưu thếlúc yên tĩnh khi vận động nhẹ, thời gian dài.- Phân hủy các chất giàu năng lượng (khi cơ thể hoạt động trong điềukiện nguồn cung cấp Ôxy không đáp ứng đủ) : Cơ chế này tạo ra năng lượngnhanh, không cần phải có Ôxy song lại tạo ra Axit lactic là chất tích tụ trong cơlàm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ (gây chuột rút).Đường (Gluxit) là chất cung cấp năng lượng chính của cơ thể (1gđường cung cấp 4,1Kcal). Đường được sử dụng mạnh ở não và cơ. Cơ thể luônđược bão hòa đường dưới dạng Glucoza chứa trong tất cả các mô của cơ thể;nguồn cung cấp đường chủ yếu là các thức ăn có nguồn gốc thực vật. Trongmáu, hàm lượng đường glucoger luôn ổn định ở khoảng 80 – 120 mg %. Ngoàira cơ thể còn dự trữ đường dưới dạng Glucogen ở gan và cơ. Hàm lượngGlucogen dự trữ này khoảng300g. Ở những vận động viên trình độ cao lượng7Glucogen này lên tới 500g. Trong các hoạt động thể lực và trí óc căng thẳng,lượng Glucoza tăng lên theo phản xạ giúp cho cơ thể hoạt động tốt hơn và thíchnghi nhanh hơn với hoạt động. Khi hoạt động căng thẳng- kéo dài thì hàmlượng đường trong máu giảm xuống. Với người bình thường nếu lượng đườnggiảm xuống tới 70 mg % thì hoạt động của não sẽ bị rối loạn và nếu xuống tới60 mg % thì não không hoạt động được nữa; nhưng với các VĐV có trình độcao thì vẫn tiếp tục thi đấu được thậm chí cả khi hàm lượng đường trong máuxuống tới 40 mg %. Điều đó cho thấy rằng tập luyện thường xuyên, đúngphương pháp đã nâng cao khả năng chịu đựng của cơ thể.Mỡ (lipit) là chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng rất cao (1g mỡ khiphân giải cung cấp 9,3 Kcal); mỡ có nhiều trong cả thức ăn động vật và thựcvật. Trong cơ thể, mỡ còn có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi bị mất nhiệt, bảo vệcác cơ quan nội tạng khi có va chạm cơ học. Mỡ còn tham gia cấu tạo màng tếbào. Khi cung cấp năng lượng mỡ được sử dụng dưới dạng các Axit béo, và chủyếu cho cơ trơn; con cơ vân chỉ sử dụng mở để tạo năng lượng trong các hoạtđộng nặng – kéo dài và khi lượng dự trữ đường đã cạn; 80 % năng lượng của cơthể được cung cấp bằng cách phân giải mỡ. Vì vậy việc tập luyện TDTT có tácdụng kích thích việc sử dụng mỡ, chống được bệnH béo phì.Đạm (Prôtêin) là chất cấu tạo cơ bản của cơ thể. Song nếu bị đói kéodài, đường và mỡ dự trữ đã cạn thì đạm cũng có thể sử dụng để cung cấp nănglượng (1g đạm khi phân giải cung cho 4,1 Kcal); Đạm không được dự trữ trongcơ thể, vì vậy khi bị đói- đạm của cơ quan này sẽ được sử dụng để duy trì sựsống của cơ quan khác quan trọng hơn.Muối khoáng, vi tamin, nước: là những chất không sinh năng lượng.Nước và muối khoáng chủ yếu để duy trì áp suất thể dịch của cơ thể và ổn địnhmôi trường bên trong cơ thể. Vitamin có tác dụng xúc tác các quá trình chuyểnhóa các chất và nâng cao khả năng hoạt động của cơ thể, đặc biệt là các hoạtđộng thể lực.1.2. Cơ thể con người là bộ máy vận động:Vận động; à điều kiện để cơ thể tồn tại và phát triển. Cơ thể con ngườiđược cấu tạo và hoạt động giống như một bộ máy vận động. Bộ máy vận độngcủa cơ thể gồm có xương- cơ- dây chằng (là những bộ phận trực tiếp đảm8nhiệm chức năng vận động); các hệ cơ quan (hô hấp- tuần hoàn& máu) đảmbảo cung cấp Ôxy và vận chuyển các chất dinh dưỡng cho cơ tồn tại, phát triểnvà cung cấp năng lượng cho cơ quan vận động hoạt động. Tất cả các hoạt độngđều chịu sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương.1.2.1 Bộ máy vận động: (Gồm xương, cơ, dây chằng & thần kinh điềukhiển hoạt động của cơ) trong đó xương, cơ, dây chằng là bộ phận trực tiếpthực hiện các động tác.- Bộ xương: (Gồm hơn 200 chiếc) Là giá đỡ thân thể và bảo vệ các cơquan nội tạng. Các xương liên kết với nhau tạo nên các khớp xương; trong khớpcó sụn và dịch nhầy; xung quanh khớp có dây chằng giữ cho khớp ổn định –vững chắc. Mỗi khớp chỉ có khả năng hoạt động theo một hướng và mức độnhất định nhưng nếu được tập luyện thì mức độ linh hoạt của khớp sẽ tăng lênđáng kể song cấu trúc giải phẫu mới là yếu tố quyết định đến việc lựa chọnđộng tác trong tập luyện.- Cơ bắp: (có 3 loại là cơ trơn, cơ vân, cơ tim). Cơ trơn cấu tạo ởmạch máu, các cơ quan nội tạng và ở da; cơ tim cấu tạo ở tim hai loại cơ nàyhoạt động không theo ý muốn, chúng hoạt động rất bên bỉ. Cơ vân có đặc điểmlà co nhanh nhưng chóng mệt mỏi và hoạt động theo ý muốn.- Thần kinh cơ: Để cơ có thể hoạt động thì phải có các xung thầnkinh đi đến cơ theo các sợi thần kinh. Các sợi TK đi đến cơ là các sợi nhành củatế bào thần kinh vận động; thân của té bào nằm ở tủy sống hoặc não; một tế bàoTK có thể có rất nhiều nhánh đi đến nhiều sợi cơ. Tế bào TK và những sợi cơmà nó điều khiển tạo thành một đơn vị vận động. Đơn vị vận động có thể rấtnhỏ, chỉ chứa vài sợi cơ, nhưng cúng có thể rất lớn, chứa đến 2000 sợi cơ.9Sơ đồ cấu tạo đơn vị vận động1.2.2 Máu và tuần hoàn máu:a. Máu: là chất lỏng màu đỏ, lưu thông trong hệ thống tuần hoàn khépkín. Máu là một mô liên kết đặc biệt gồm chất lỏng đặc biệt (huyết tương) vàcác tể bào máu (huyết cầu). Có ba loại huyết cầu: Hồng cầu- bạch cầu và tiểucầu.- Hồng cầu: Là những tế bào không nhân hình đĩa lõm ở giữa, cấu tạotừ một chất đạm đặc biệt gọi là huyết cầu tố (hemoglobin). Huyết cầu tố có khảnăng kết hợp với Ôxy thành một hợp chất và nhờ đó Ôxy được vận chuyển tớicác tổ chức cơ quan và khí cacbonic lại được chuyển từ các tổ chức cơ quan raphổi,- Bạch cầu: Chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ; chúng tiêu diệt cácchất lạ xâm nhập vào cơ thể.- Tiểu cầu: nhỏ hơn hồng cầu và có vai trò qua trọng trong việc làm đôngmáu.Các tế bào máu năm trong huyết tương, trong huyết tương còn có cácchất dinh dưỡng, muối khoáng, các sản phẩm phân giải của quá trình trao đổi10chất, các nội tiết tố, các loại vi khuẩn và các kháng thể đối với các chất độchại...- Máu được tuần hoàn trong hệ mạch máu để đảm nhiệm các chức năng rất quantrọng:+ Chức năng dinh dưỡng: cung cấp các chất dinh dưỡng đến các môcho hoạt động sống của các tế bào+ Chức năng điều khiển: các nội tiết tố và các chất khác có trong máucó tác dụng điều hòa hoạt động của các cơ quan - tổ chức.+ Chức năng bảo vệ: Nhở quả trình thực bào và quá trình miễn dịchcủa bạch cầu.+ Chức năng điều nhiệt: Màu làm nhiệm vụ vận chuyển nhiệt, làm chocơ thể không bị quá nóng và sưởi ấm cho các bộ phận bị lạnh.b. Hệ tuần hoàn: (Gồm có Tim và hệ thống các mạch máu) Máu được dichuyển trong hệ tuần hoàn nhờ lực bóp của tim và sự nhu động của thành mạchmáu; máu được đảy từ tim vào các động mạch, sau đó chia nhánh nhiều lần, cuốicùng ở các cơ quan và tổ chức là mao mạch (các mạch máu rất nhỏ có cấu tạo cácmàng bán thấm).Tim là bộ phận quan trọng nhất của hệ tuần hoàn; cấu tạo như một cáibơm để đảy máu đi và hút máu về; nhờ tim mà máu tuần hoàn trong cơ thể. Timhoạt động tự động song cũng chịu sự tác động gián tiếp của các cơ quan tổ chứckhác đặc biệt là hệ thần kinh. Tim được chia làm 4 ngăn, hai buồng phía dưới làtâm thất phải và trái, hai buồng phía trên là tâm nhĩ phải và trái.Sự tuần hoàn diễn ra theo hai vòng:Vòng lớn bắt đầu từ Tâm thất trái theo động mạch mang các chất dinhdưỡng và Ôxy tới các tổ chức cơ quan sau đó theo tĩnh mạch trở về tâm nhĩphải.Vòng tuần hoàn nhỏ từ Tâm nhĩ phải đổ xuống tâm thất phải rồi từ đótheo theo động mạch đem khí cácbonic lên phổi đổi lấy Ôxy và trơ về tâm nhĩ11trái; từ tâm nhĩ trái màu lại đổ xuống tâm thất trái để chuẩn bị một vóng tuầnhoàn mới.Sơ đồ vòng tuần hoàn1. Động mạch chủ 2. Động mạch gan 3. Động mạch ruột 4. Lướimao mạch 5. Tĩnh mạch cửa 6. Tĩnh mạch gan 7. Tĩnh mạch chủ dưới 8.Tĩnh mạch chủ trên 9. Tâm nhĩ phải 10. Tâm thất phải 11. Động mạch phổi12. Lưới mao mạch 13. Tĩnh mạch phổi 14. Tâm nhĩ trái 15. Tâm thất phảiCác chỉ số sinh lý đặc trưng của hệ tim mạch là: huyết áp- mạch đập- thểtích tâm thu- thể tích phút.- Mạch (tần số co bóp của tim) : người bình thường khoảng 60- 80 lần/phút; người tập luyện thường xuyên có thể xuống 50 lần/ phút thậm chí cácVĐV bơi, chạy dài mạch xuống dưới 50 lần / phút (khi yên tĩnh)- Huyết áp là áp lực của máu lên thành mạch. Khi tim co bóp, áp suấtlên đến 120mmHg và được gọi là h/a tối đa hay h/a tâm thu; khi tim giãn ra, áplực ở động mạch khoảng 70-80mmHg gọi là h/a tối thiểu hay là h/s tâm trương.Khi tập luyện TDTT thì mạng lưới mạch máu dày đặc hơn, độ đàn hồicủa thành mạch lớn hơn nên sự tuần hoàn của máu tốt hơn.- Thể tích tâm thu:là lượng màu tâm thất trái đẩy ra trong mỗi lần co bóp.12- Thể tích phút l: là lượng máu tâm thất trái đảy đi trong một phút.Khoảng 5 – 6 lit khi yên tĩnh và khi vận động thì cả thể tích tâm thu và mạch đậpđều tăng lên theo cường độ vận động; ở VĐV thể tích tâm thu khi vận động có thểtừ 30- 40 lítc. Hệ hô hấp:Hô hấp là tổ hợp các quá trình sinh lý đảm bảo việc cung cấp Ôxy cho cơthể và đào thải khí Cacbonic do bộ máy hô hấp và hệ tuần hoàn đảm nhiệm.Bộ máy hô hấp gồm có : Mũi, Phế quản và quan trọng nhất là Phổi; phổiđược cấu tạo từ các phế nang, (diện tích trải ra của phế nang khoảng 100 m2);thành các phế nang mỏng, phía ngoài là mạng lưới các mao mạch dày đặc nênsự trao đổi khí giữa phổi và máu rất thuận lợi.Quá trình hô hấp được chia thành hô hấp ngoài và hô hấp trong. Hô hấpngoài là quá trình trao đổi khí giữa không khí ở phế nang và máu- sự vậnchuyển các chất khí trong máu (ở phế nang ÔXY thấm qua thành phế nang vàomáu, Cacbonic thấm từ máu thải ra không khí ở phế nang). Hô hấp trong còngọi là hô hấp tế bào xảy ra giữa máu và tổ chức cơ quan của cơ thể; ôxy sẽ đi từmáu qua dịch kẽ rồi váo tế bào còn khí Cacbonic thì ngược lại. Quá trình hô hấpthường được đánh giá bằng các chỉ số sinh lý: Tần số hô hấp- Thể tích hô hấpThông khí phổi- Dung tích sống- nhu cấu Ôxy- Hấp thụ Ôxy.Tần số hô hấp: là số lần thở trong một phút; bình thường khoảng 16-20lần/phút; khi vận động có thể tăng lên đến 30- 40 lần/phút.Thể tích hô hấp: Là lượng không khí đi qua phổi trong một lần thở; bìnhthường khoảng 250- 700 ml; khi hoạt động nặng có thể lên tới 2- 2.5 lít.Thông khí phổi: là lượng không khí đi qua phổi trong một phút (= Thểtích hô hấp X tần số hô hấp)Dung tích sống: Là lượng không khí tối đa mà người ta có thể thở ra saukhi hít vào hết sức; dung tích sống phụ thuộc vào tuổi- giới tính- tình trạng sứckhỏe- trình độ tập luyện và nhiều yếu tố khác...; Bình thường khoảng 2.5- 3.5 lítcòn VĐV có trình độ cao có thể tới 6- 7 lít.Nhu cầu Ôxy: Là lượng Ôxy mà cơ thể cần trong một phút để đảm bảosự trao đổi chất; nó tương ứng với mức năng lượng tiêu hao của cơ thể.13Hấp thụ Ôxy là lượng Ôxy thực tế cơ thể đã sử dụng trong một phút;Vo2 max là khả năng hấp thụ Ôxy tối đa; ở người bình thường khoảng 2- 3.5 lít,ở các VĐV các môn thể thao sức bền có thể lên tới 6 lít.d. Điều hòa sự hoạt động của cơ thể : Mọi sự hoạt động của cơ thể đềuchịu sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương và cơ chế điều hòa thể dịch.- Hệ thần kinh trung ương điều khiển sự hoạt động của các cơ quan bằngcác xung động thần kinh và việc tiếp nhận các tín hiệu từ bên ngoài và bêntrong cơ thể; hệ thần kinh hoạt động theo cơ chế phản xạ; mỗi một phản xạ củacơ thể xảy ra theo một đường lan truyền hưng phấn cố định (cung phản xạ)- Cơ chế điều hòa thể dịch điều hòa hoạt động của các cơ quan thông quacác chất chứa trong máu. Các chất hóa học đó có thể là nội tiết tố do các tuyếndịch tiết ra- các chất khí- các sản phẩm trao đổi chất…2. Cơ sở sinh lý của năng lực vận động:Khái niệm năng lực vận động được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoahọc, đặc biệt là văn hóa thể chất. Năng lực vận động hay khả năng hoạt độngthể lực là khả năng thực hiện một cơ bắp nhất định nào đó với thành tích cao.Về bản chất đó chính là quá trình tạo ra sự thích nghi của cơ thể con người vớicác hoạt động cơ bắp nhờ hoàn thiện sự điều khiển và phối hợp giữa các hệchức năng trên cơ sở biến đổi sâu sắc về cấu trúc, chức phận sinh lí và sinh hóabên trong của cơ thể.2.1 Kỹ năng vận động:Là một hình thức hành động được hình thành theo cơ chế phản xạ có điềukiện nhờ quá trình tập luyện thường xuyên; hay nói cách khác kỹ năng vậnđộng là các động tác được thực hiện một cách tự động hóa do đã trở thành thóiquen như : đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy là các kỹ năng vận động cơ bản của mọingười. Tất cả các kỹ thuật Thể thao đều là những kỹ năng vận động.14Kỹ năng vận động được hình thành dần dần theo ba giai đoạn: Lantoả; Tập trung; Tự động hóa.- Giai đoạn lan toả: hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não vì chưa hìnhthành được một tổ hợp các phản xạ tối ưu; nhiều nhóm cơ không cần thiết cũngtham gia vào vận động, động tác vì thế không chính xác, thiếu kinh tế, nhiều cửđộng thừa. (ví dụ về người tập đi xe đạp)- Sau một thời gian tập luyện, động tác được hoàn thiện dần tức là giaiđoạn lan toả đã chuyển dần sang giai đoạn tập trung; ở giai đoạn này, hưngphấn được tập trung ở những vùng nhất định trên vở não cần thiết cho vậnđộng, các động tác thừa mất đi, cơ co duỗi hợp lý, động tác trở nên nhịp nhàngchính xác và thoải mái; kỹ năng vận động đã được hình thành tương đối ổn địnhnhưng khi thực hiện động tác người tập vẫn cần có sự tập trung nhất định nếukhông rất có thể động tác sẽ lại bị phá vỡ.- Khi kỹ năng được thực hiện lặp lại nhiều, được củng cố đến mức khithực hiện bài tập, củ động của người tập hầu như tự động không cần có sự chú ýcủa ý thức. Kỹ năng vận động ở giai đoạn này rất ổn định, sự tự động hóa kỹnăng vận động cho phép có thể thực hiện chính xấc nhiều động tác khác nhaucùng một lúc (vừa đi xe đạp vừa nói chuyện.....). Đỉnh cao của các kỹ năng vậnđộng là các kỹ xảo; ở một số động tác nhất định động tác kỹ thuật phát triển tớimức ngoại suy, người ta có thể thực hiện động tác trong các tình huống rất phứctạp mà vẫn đạt kết quả tốt: đi xe đạp bắt chéo tay, bỏ hai tay, nhấc bánh trước....2.2. Các tố chất vận động (Sức nhanh- sức mạnh- sức bền- khéo léo)- Sức nhanh: Là khả năng thực hiện động tác với thời gian ngắn nhất; sứcnhanh có thể được biểu hiện bằng hình thức đơn giản (1 là thời gian tiềm tàngcủa phản ứng, đó là khoảng thời gian từ khi kích thích cho tới khi có phản ứngtrả lời; 2 là thời gian của động tác đơn lẻ; 3 là tần số động tác) hoặc hình thứcphức tạp là kết quả của các thử nghiệm vận động và bài tập thể thao như chạyngắn, tần số đánh bóng, tốc độ đập bóng....Để thực hiện các hình thức sứcnhanh thì các quá trình hưng phấn và các quá trình sinh hóa trong thần kinh vàcơ phai xảy ra thật nhanh, các trung tâm thần kinh phải có tính linh hoạt cao;trong hoạt động thể thao thì sức mạnh và tốc độ có liên quan mật thiết với nhau;sự phát triển sức mạnh ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ. Trong quá trình tập luyệnthì sức nhanh phát triện chậm và khó khăn hơn nhiều so với sức mạnh và sứcbền; sức nhanh phát triển tốt nhất là ở độ tuổi thanh thiếu niên.15- Sức mạnh: Là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp; Sứcmạnh cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính của các quá trình thần kinh điều khiển sựco cơ và số lượng các đơn vị vận động chứa trong cơ. Để có thể thực hiện sứcmạnh tối đa, cơ phải được huy động với số lượng tối đa đồng thời sự hưng phấncũng phải rất tập trung để tránh các nhóm cơ đối kháng cùng tham gia vào mộtcử động. Sự cung cấp dinh dưỡng cho cơ cũng có vai trò hết sức quan trọng đểcơ phát húy sức mạnh. Cơ sở sinh lý cơ bản để phát huy sức mạnh là cần phảicó số lượng lớn cơ tham gia co cùng một lúc đồng thời các cơ đối kháng thì lạithả lỏng (tăng cường sự phối hợp giữa các nhóm cơ, muốn làm được điều đóphải có quá trình tập luyện). Ngoài ra luyện tập còn làm sợi cơ phát triển (tăngtiết diện ngang do tích lũy dĩnh dưỡng chuẩn bị cho việc chuyển hóa thành nănglượng).- Sức bền: Là khả năng thực hiện hoạt động trong một thời gian dài; đó làsự thể hiện khả năng chống đỡ của cơ thể đối với những biến đổi bên trong xảyra khi hoạt động cơ bắp kéo dài. Sự phát triển của sức bền phụ thuộc vào mứcđộ hoàn thiện của sự phối hợp chức năng vận động và chức năng dinh dưỡng;vào sự bền vững chức năng của các cơ quan nội tạng, đặc biệt là cơ quan hô hấpvà tim mạch; sự phát triển sức bền phụ thuộc vào mức độ phát triển chức năngcủa hệ tuần hoàn và hệ hô hấp; khả năng dự trữ năng lượng của cơ thể... Trongcác hoạt động thể thao, có các loại: Sức bền, Sức bền chuyên môn, Sức bền tốcđộ, Sức bền mạnh.- Khéo léo: Là khả năng thực hiện các động tác phức tạp về phối hợp vậnđộng trong điều kiện môi trường thay đổi. Cơ sở sinh lý của tố chất này là cácphản xạ phối hợp phức tạp, trạng thái của hệ thần kinh trung ương, tốc độ xử lýthông tin và các chương trình hành động; ngoài ra tố chất khéo léo còn phụthuộc vào mức độ phát triển của các tố chất khác.Sự tập luyện thể dục thể thao có hệ thống sẽ phát triển các tố chất vậnđộng, cơ chế phát triển của các tố chất có nhiều điểm tương đồng vì vậy khí tậpđể hoàn thiện một tố chất thì các tố chất khác ở một mức độ nào đó cũng sẽbiến đổi. Tuy nhiên sẽ có một số bài tập phát triển tố chất này sẽ ảnh hưởng xấutới tố chất khác (bài tập tạ để phát triển sức mạnh tuyệt đối sẽ ảnh hưởng tới sứcbền trong chày cự ly dài....); khi ngừng tập thì các tố chất cũng sẽ ngừng pháttriển và dần thoái hóa trở về trạng thái ban đầu, sức nhanh là tố chất giảm nhanh16nhất, sau đó đến sức mạnh, sức bền; trong một ngày các tố chất vận động ở mứcthấp nhất lúc mới ngủ dậy và trước khi đi ngủ.2.3 Chức năng vận động và sự thích nghi của cơ thể với môi trường:Sự thích nghi của cơ thể có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống của con người; sựvận động trong quá trình GDTC là nhăm làm cho cơ thể thích nghi với các hoạtđộng cơ bắp, tăng cường sự phối hợp hoạt động của tất cả các bộ phận chức năngcủa cơ thể; tất cả các biến đổi thích nghi trong quá trình tập luyện TDTT đã tácđộng mạnh mẽ tới quá trình thích nghi của cơ thể với những biến đổi của môitrường xung quanh.III.ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC LUYỆN TẬP THỂ DỤC THỂ THAO ĐỐIVỚI HỆ CƠ QUAN:1. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ vận động.Các hoạt động thông thường của con người đều là dựa vào hệ vận động.Thường xuyên tập luyện thể dục thể có thể tăng cường được các chất của xương,tăng cường sức mạnh cơ bắp, tăng cường tính ổn định và biên độ hoạt động của cáckhớp, từ đó mà năng lực hoạt động của cơ thể đã được nâng lên, xương và khớpđược cấu tạo thành. Xương trong cơ thể là một kết cấu kiên cố, nó bao gồm hơn200 chiếc xương, những chiếc xương đó đã cấu tạo thành một chiếc khung giá cótác dụng bảo vệ cho các cơ quan bộ phận bên trong của cơ thể như não, tim, phổi…Xương còn có một chức năng khác nữa đó là tạo máu cho cơ thể. Do vậy, sự sinhtrưởng và trưởng thành của xương không chỉ có tác dụng quan trọng đối với hìnhthái cơ thể mà còn có sự ảnh hưởng quan trọng đối với năng lực vận động và laođộng của con người.Rèn luyện thân thể có thể cải biến kết cấu của xương, thường xuyên tập luyệnthể dục thể thao có thể tăng cường các chất trong xương. Tập luyện thể dục thểthao làm cho cơ bắp có tác dụng lôi kéo và áp lực đối với xương làm cho xươngkhông chỉ biến hoá về phương diện hình thức mà còn làm cho tính cơ giới củaxương được nâng lên. Sự biến đổi thể hiện rõ rệt nhất trên phương diện hình thái17của xương đó là: Cơ bắp bám ngoài xương tăng lên nhiều, chất liên kết ở các lớpngoài của xương cũng từ đó được tăng lên, sự sắp xếp của các chất mềm (xốp) bênlớp trong của xương cũng căn cứ vào áp lực và lực kéo của cơ mà thích nghi. Đâychính là sự tăng lên về sự kiên cố của xương, từ đó có thể chịu đựng được phụ tảilớn, nâng cao năng lực chống chịu áp lực, trọng lượng lớn, sự kéo dài và xoaychuyển…của xương.Ví dụ: Vận động viên thể dục thực hiện động tác kéo tay xà đơn. Khi thựchiện động tác này, hai tay của vận động viên luôn phải chịu trọng lực của cơ thểvà lực kéo tay của cơ bắp. Nếu thường xuyên tập luyện động tác này sẽ làm choxương của hai tay có sự thích nghi với việc chịu đựng 2 lực kể trên và từ đó nănglực chịu tải của xương 2 tay đã được nâng lên. Cũng như thế, đối với các độngviên cầu lông, bắn súng thì tay thuận sẽ to và khoẻ hơn, các vận động viên nhảycao, nhảy xa, xương ở chân sẽ khoẻ hơn ở người thường…Điều này đã nói rõ một vấn đề: Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thìsự phát triển của xương được nâng lên rõ rệt.Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ đẩy mạnh sự phát triển chiều caocủa các em thiếu niên nhi đồng. Chiều cao hoặc tốc độ trưởng thành được quyếtđịnh bởi tốc độ tăng trưởng của thời kỳ dài xương của các em thiếu niên nhi đồng.Đối với sự phát triển của xương thì đầu mút xương là hết sức quan trọng. Thườngxuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ tăng nhanh tốc độ tuần hoàn máu, từ đó màtăng được lượng vật chất dinh dưỡng mà sự phát triển mà đầu mút xương đòi hỏi.Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao còn có thể ảnh hưởng đến hệ thống nộiphân tiết là kích thích sự sinh trưởng của đầu mút xương, do vậy mà thúc đẩy sựchuyển hoá vitamin D, tăng cường sự cung cấp các nguyên liệu tạo ra xương, điềunày có lợi cho phát triển và trưởng thành của xương.Căn cứ vào điều tra, khi so sánh những người thường xuyên tập luyện thể dụcthể thao và những người không thường xuyên tập luyện cho thấy chiều cao chênhlệch từ 4- 8 cm.. Trước khi cơ thể trưởng thành, thông qua tập luyện thể dục thểthao có thể cải thiện sự cung cấp máu của xương, tăng cường sự trao đổi chất, kíchthích sự phát triển của xương, làm cho sự cốt hóa được diễn ra liên tục. Đồng thờirèn luyện thân thể với các loại động tác cũng có tác dụng kích thích rất tốt đối vớisự phát triển của xương, có thể thúc đẩy phân tiết kích thích tố cũng có tác dụng18thúc đẩy việc phát triển chiều cao của các em học sinh lứa tuổi 10-14 giữa trườngTDTT chuyên nghiệp và trường không chuyên (xem bảng 1).Bảng 1: Bảng so sánh chiều cao nam, nữ học sinh trường chuyên và không chuyên TDTTChiều caoTuổiNamNữTrường chuyên Trườngkhông Trường chuyên Trường khôngTDTTchuyênTDTTchuyên10138.57135.46140.39134.2611144.6140.58149.57140.812148.2145.6155.53147.3313158.13152.38158.0151.6414162.9153.4158.0151.64Nơi các xương trong cơ thể kết nối với nhau và cũng dựa vào đó để hoạt độnggọi là khớp, bao gồm có dây chằng và cơ. Dây chằng có tác dụng gia tăng sự kiêncố cho khớp, còn cơ thì không những có thể gia tăng sự kiên cố cho khớp mà còncó tác dụng lôi kéo làm cho khớp vận động. Khớp là đầu mối quan trọng cho sựliên kết các xương với nhau. Tập luyện thể dục thể thao một cách khoa học, hệthống vừa có tác dụng làm tăng tính ổn định của khớp, vừa có thể tăng cường sựlinh hoạt và biên độ của khớp. Tập luyện thể dục thể thao có thể gia tăng mật độ vàđộ dày của mặt khớp, đồng thời cùng làm phát triển các cơ bao quanh khớp, tăngcường sức mạnh cho ổ khớp và dây chằng bao quanh khớp. Do vậy, có thể làmtăng thêm tính ổn định và kiên cố của khớp, tăng cường cho khớp lực chống đỡ lạicác phụ tải tác động lên khớp.Ví dụ:Trong khi biểu diễn xiếc, có một diễn viên cao lớn ở phía dưới còn mộtsố diễn viên khác thì đứng lên trên anh ta để thực hiện một số tiết mục, như vậycác khớp của vị diễn viên cao lớn này đã phải gánh chịu một áp lực lớn tươngđương với tổng trọng lượng của số diễn viên kia.Khi tăng cường tính ổn định và kiên cố của khớp, do vì ổ khớp, dây chằng vàcơ bao quanh khớp được tăng cường về tính đàn hồi và tính co duỗi thì biên độ vàtính linh hoạt của khớp cũng không ngừng được tăng cường. Trong biểu diễn mônthể dục tự do, các khớp của VĐV đã hoạt động với biên độ rất lớn ví như làm động19tác uốn cầu vồng hay xoạc ngang, nếu như không thường xuyên tập luyện sẽ khôngthể thực hiện được.Bất kể vận động nào của con người đều biểu hiện bởi hoạt động của cơ bắp,do vậy sự phát triển của cơ bắp là hết sức quan trọng đối với việc nâng cao nănglực lao động và vận động.Trong hoạt động vận động của con người, sức mạnh đặc trưng bởi mứcđộ căng được triển khai bởi các cơ. Nhờ sự điều hòa thần kinh mà cùngmột nhóm cơ, nhưng lại có thể triển khai một lực căng thay đổi từ vài gamđến hàng chục kylôgam. Sự sử dụng sức mạnh có thể rất chính xác, nhấtlà trong những động tác phối hợp đòi hỏi độ chuẩn xác cao như ném rổ,đánh bóng...•Những yếu tố ảnh hưởng đến sức mạnh cơ:- Những đặc điểm về cấu tạo của cơ có ảnh hưởng lớn đến sức mạnh. Tậpluyện làm cho cơ phì đại, tạo điều kiện tăng cường sức mạnh và gây những biếnđổi trong tổ chức xương, khớp và dây chằng.- Những đặc điểm về hóa học của cơ có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triểnsức mạnh•Cơ chế sinh lý của việc phát triển sức mạnh:Có rất nhiều cơ chế sinh lý tạo điều kiện cho sự phát triển sức mạnhnbằngcách cải thiện sự phối hợp hoạt động giữa các chức năng vận động và chức năngthực vật. Trong đó, những cơ chế sinh lý quan trọng nhất gồm có:- Tăng số lượng đơn vị vận động được động viên trong các cơ chủvận.- Ức chế hoạt động của các cơ đối kháng.- Truyền đến cơ những xung đột thông qua hệ thần kinh giao cảm.- Lực căng cơ tối đa phụ thuộc vào số lượng sợi cơ co. Những nghiên cứuthực nghiệm của nhiều tác giả đã chứng minh rằng trong những phản ứng khôngđiều kiện, chỉ có một số sợi cơ chứ không phải tất cả các sợi của cơ. Huấn luyện đểphát triển sức mạnh làm hình thành ở người những phản ứng có điều kiện cho phépđộng viên một số lượng đơn vị vận động lớn hơn.20- Sức mạnh tối đa không chỉ liên quan với hoạt động của các trung tâm thầnkinh chỉ huy các cơ chủ vận mà còn liên quan đến hoạt động của các cơ đối kháng.Trong các động tác có tốc độ đều và không mang vật nặng, sức mạnh là kết quảcủa sự căng cơ chủ vận và cơ đối kháng, nhưng sự căng cơ chủ vận mạnh hơn.Trong các động tác có mang vác vật nặng hoặc giật cục, sự căng cơ đối khánggiảm và có thể giảm tới không. Vì vậy, để phát triển sức mạnh tối đa, trong huấnluyện cần phải hình thành những phản xạ có điều kiện phối hợp hoạt động của cáctrung tâm thần kinh để các cơ chủ vận có thể co trong khi hoạt động của các cơ đốikháng bị ức chế.- Ngoài ra, hệ thần kinh trung ương bằng những phản xạ có điều kiện vàkhông điều kiện, còn có ảnh hưởng đến dinh dưỡng của các cơ thông qua các dâythần kinh thực vật đặc biệt là dây thần kinh giao cảm. Những dây thần kinh nàylàm tăng hoạt động cơ tim (Paplốp) và của cơ vân (Oócbêli).- Khi vận động, nhất là khi thi đấu, hệ thần kinh giao cảm hưng phấn và làmtăng khả năng hưng phấn, tính linh hoạt của cơ năng, khả năng hoạt động của cáccơ và các trung tâm thần kinh. Sự cung cấp máu cho các cơ quan hoạt động đượcđiều hòa bởi hệ thần kinh thực vật. Các hormon được tiết ra nhiều khi hệ thần kinhgiao cảm hưng phấn, đặc biệt là Adrenalin làm tăng khả năng hoạt động của các cơvà sức mạnh cũng tăng. Huấn luyện về sức mạnh với tạ còn đòi hỏi hệ tim mạchphải hoạt động rất cao vì trong một buổi tập VĐV có khi phải nâng tới 15 – 20 tấn.Rèn luyện thân thể sẽ cải biến cơ bắp một cách rõ rệt, làm cho số lượng sợi cơ tănglên từ đó mà thể tích bắp cơ tăng lên. Ở người bình thường thì trọng lượng cơ bắpchiếm 35- 45% trọng lượng cơ thể, nhưng thông qua tập luyện thể dục thể thao cóthể tăng lên đến 50%. Sau 15 – 20 buổi huấn luyện bằng những bài tập với hoạtđộng, sức khoẻ mạnh của một số nhóm cơ có thể tăng từ 35 – 80%.Ở trung học và tiểu học có rất nhiều em chân tay ngực không thấy cơ bắp, chỉcần thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì hiện tượng này sẽ giảm đi, thayvào đó là một cơ thể khoẻ mạnh và đẹp. Khi tập luyện, cơ bắp và xương được tăngcường hoạt động, sự cung cấp máu được tăng lên, Prôtêin và dinh dưỡng được tăngcường, năng lực dự trữ của cơ cũng tăng lên, số lượng sợi cơ tăng lên, vì vậy màbắp cơ to dần lên, sức mạnh của cơ bắp cũng theo đó mà tăng lên. Do các tế bào cơ21được tăng cường, năng lực kết hợp với Ôxy tăng lên, khả năng dự trữ các chất dinhdưỡng và đường tăng lên, số lượng mao mạch trong cơ bắp tăng lên nhiều…điềunày thích ứng với các yêu cầu của lao động và hoạt động.● Có thể sử dụng cả hoạt động động và hoạt động tĩnh để phát triển sức mạnh củacác nhóm cơ:Theo một số tác giả, cho các cơ tập luyện theo chế độ đẳng trường với lực căng cơtối đa cũng làm cho sức mạnh của cơ tăng cao. Vì vậy, để phát triển sức mạnh, cóthể cho các cơ tập luyện phối hợp theo cả chế độ đẳng trương và đẳng trường.Những bài tập với chế độ hoạt động đẳng trường của cơ có mặt tốt là thời gian tậpluyện ngắn và hình ảnh được những đường liện hệ tạm thời động viên được một sốlượng đơn vị vận động cao nhất nếu tập “gắng sức tĩnh lực” với lực căng cơ tối đa.Một bài tập gồm 5 – 6 động tác tĩnh chỉ kéo dài từ 2 – 3 phút.Mỗi động tác chỉ kéo dài 5 – 6 giây. Nhưng những bài tập này lại cónhững mặt không tốt như sau:- Làm giảm khả năng thả lỏng của cơ.- Làm giảm tốc độ triển khai độ căng cơ.- Làm giảm khả năng phân biệt tinh vi cường độ, thời gian và tốc độcăng cơ.Trong đại đa số các môn thể thao, lại rất cần có sự thả lỏng được các cơ quan vàphân biệt một cách tinh vi lực căng cơ. Chính vì thế mà trong những bài tập pháttriển sức mạnh, hoạt động của các cơ vẫn chiếm một phần chủ yếu. Về trọng lượngtạ thích hợp nhất để phát triển sức mạnh, ý kiến của các tác giả cũng không thốngnhất. Có người (Hellinger 1961 – 1966) cho rằng trọng lượng tạ có hiệu quả nhất là2/3 lực căng cơ tối đa (chế độ hoạt động đẳng trương), có tác giả (Menvêep 1960)lại chủ trương sử dụng trọng lượng tạ bằng 50% trọng lượng tối đa. Nhưng lại cónhững tác giả (Zimkin 1956, Mônôgarốp 1958, Berger 1960, Nagle 1960) cho rằngtrọng lượng tạ thích hợp nhất không phải là tiêu chuẩn cố định. Trọng lượng nàythay đổi tuỳ theo trình độ tập luyện của các đối tượng, nhịp độ động tác, thời giannghỉ giữa các buổi tập....Thông qua tập luyện thể dục thể thao còn có thể nâng cao năng lực khống chếcả hệ thống thần kinh đối với hệ thống cơ bắp, điều này thể hiện bởi tốc độ phản22ứng, độ chuẩn xác và tính nhịp điệu đều được nâng lên. Khi cơ bắp làm việc, sựtiêu hao năng lượng được giảm xuống nhưng hiệu quả vẫn được nâng lên. Nhữngđiều này làm cho sức mạnh, tốc độ, sức bền và tính linh hoạt…đều tốt hơn nhiều sovới người bình thường. Ngoài ra vẫn còn giúp cho cơ thể phòng tránh được cácloại chấn thương do sự hoạt động kịch liệt của cơ bắp trong quá trình tập luyện haytrong hoạt động đời sống hàng ngày.2. Sự ảnh hưởng của tập luyện thể dục thể thao đối với hệ thống hô hấpChức năng của hệ thống hô hấp mạnh hay yếu phụ thuộc bởi năng lực CO2của cơ thể, khi tập luyện thể dục thể thao cơ thể đòi hỏi nhiều hơn về Oxy, chính vìvậy mà tần số hô hấp tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu trên, các cơ quan của hệ thốnghô hấp bắt buộc phải cải thiện năng lực làm việc của bản thân. Do vậy, tiến hànhtập luyện thể dục thể thao trong thời gian dài có thể nâng cao năng lực hấp thụOxy, từ đó nâng cao được chức năng của các cơ quan trong hệ thống hô hấp, cảithiện cơ năng hệ thống hô hấp.Quá trình hoạt động sống của con người là một quá trình tiêu hao năng lượng,năng lượng đó được lấy từ nguồn dự trữ các chất trong cơ thể. Những vật chất dựtrữ này khi được đem ra để biến đổi thành năng lượng đòi hỏi phải có một qúatrình Oxy hoá, do vậy, cơ thể bắt buộc phải không ngừng sử dụng Oxy từ môitrường bên ngoài và thở ra CO2. Quá trình trao đổi này gọi là quá trình hô hấp.Hệ thống hô hấp bao gồm phổi, khí quản, mũi.. trong đó phổi là nơi trao đổikhí, còn lại đều là đường hô hấp. Cơ thể khi trong trạng thái yên tĩnh mỗi phút đòihỏi 0,25- 0,3 ml khí, như vậy chỉ cần 1/20 số phế nang trong phổi hoạt động là cóthể đáp ứng. Nếu cứ như vậy trong thời gian dài thì những phế nang không được sửdụng sẽ bị thoái hoá đi, từ đó chức năng của hệ thống hô hấp sẽ giảm đi mạnh mẽvà rất dễ mắc bệnh.Bảng: Sự khác biệt về chức năng hô hấp giữa người thường và người thườngxuyên lập luyện thể dục thể thaoNội dungNgười thườngNgười thường xuyênTập luyện TDTT23Cơ năng hô hấp không pháttriển, công năng hô hấp giảmTần số hô hấp12-18 lần/ phútNữ 2000-2500 ml; nam 3000Dung tích sống36000 mlLượng hấp thụ Khi vận động 2,5-3 lít/ phútOxy(lớn gấp 10 lần khi yên tĩnh)Lượng thông khíKhi vận động: 70-75 lần/ phútphổiHệ thống hô hấpCơ năng hô hấp phát triển, côngnăng hô hấp nâng lên rõ rệt8-12 lần/ phútNữ 3000-4000 ml; nam 40005000 mlKhi vận động 4,5-5,5 lít/ phút(lớn gấp 20 lần khi yên tĩnh)Khi vận động 80-120 lần/ phútChức năng hô hấp được cải thiện ở một số mặt sau:1. Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể chịu đựng vớilượng vận động lớn.Cơ hô hấp chủ yếu là cơ hoành cách, cơ gian sườn, ngoài ra còn có thêm cơbụng, khi hít thở sâu các nhóm cơ ở ngực lưng cũng có tác dụng phụ trợ. Tập luyệnthể dục thể thao thường xuyên sẽ tăng cường cơ hô hấp do vậy mà chu vi lồngngực tăng lên nhiều.Sự trưởng thành của cơ hô hấp làm cho biên độ của động tác hô hấp lớn lên,hô hấp ở người bình thường khi hít vào hết sức và thở ra hết sức sự chênh lệch vềchu vi lồng ngực không nhiều (gọi là hô hấp kém) chỉ có 5-8 cm, ở người thườngxuyên tập luyện thể dục thể thao sự khác biệt này là có thể lên tới 9-16 cm. Vì vậytiến hành tập luyện thể dục thể thao thường xuyên là có lợi cho việc nâng cao chứcnăng của hệ thống hô hấp.2. Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ Oxy và thải CO2.Dung tích sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá trình độ sức khoẻ và sựsinh trưởng phát dục của thiếu niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục thểthao đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho sức mạnh của cơ hôhấp được tăng cường, lồng ngực to lên điều này có lợi cho sự sinh trưởng phát dụccủa tổ chức phổi, cũng như sự khuyếch trương của phổi từ đó làm cho dung tíchsống tăng lên. Ngoài ra khi tập luyện thể dục thể thao với các vận động hít thởmang tính thường xuyên cũng có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của dung tích sống.Ở người bình thường dung tích sống chỉ khoảng 3500 ml, ở những người thườngxuyên tập luyện thể dục thể thao tính đàn hồi của phổi tăng lên rõ rệt, sức mạnh24của cơ hô hấp tăng nhiều, dung tích sống lớn hơn người bình thường khoảng 1000ml.3. Tăng cường độ sâu hô hấp.Ở người bình thường hô hấp nông và nhanh, khi yên tĩnh tần số yên tĩnhkhoảng 12-18 lần/ phút, ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao hô hấpsâu và chậm lúc yên tĩnh tần số hô hấp khoảng 8-12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa làcác cơ hô hấp có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu hiện rõnét hơn trong khi vận động.Ví dụ: Trong cùng một điều kiện, cùng một lượng vận động (vận động nhẹnhàng) ở người bình thường tần số hô hấp lên tới khoảng 32 lần/phút, mỗi lần hôhấp dung lượng chỉ khoảng 300 ml, trong một phút tổng dung lượng hô hấp là 300ml × 32= 9600 ml. Nhưng ở vận động viên tần số hô hấp lại là 16 lần/phút, mỗilần hô hấp dung lượng đạt 600 ml, tổng dung lượng trong 1 phút thu được là 600ml× 16= 9600 ml.Từ thống kê trên có thể thấy, ở người bình thường và vận động viên trongcùng 1 phút thì dung lượng hô hấp là tương đồng. Nhưng trên thực tế, thì sự giaođổi Oxy và CO2 lại khác nhau bởi lẽ mỗi lần hô hấp thì có khoảng 150 ml khôngkhí được lưu lại trong đường hô hấp mà không thể vào trong phế bào để tiến hànhgiao đổi. Do đó lượng khí giao đổi sẽ là:Ở người bình thường: (300 ml - 150 ml) × 32 = 4800 ml.Ở vận động viên là: (600 ml - 150 ml) × 16 = 7200 ml.Điều này cho thấy khi cơ bắp làm việc thì nhu cầu về Oxy tăng lên, ở ngườibình thường sẽ phải tăng tần số hô hấp để đáp ứng nhu cầu đó do vậy khi vận độngthường thở gấp. Nhưng ở vận động viên do vì cơ năng hô hấp được nâng lên, hôhấp sâu. Trong cùng một điều kiện như nhau, tần số hô hấp chưa cần tăng cao thìđã đáp ứng đủ nhu cầu không khí để giao đổi do đó có thể làm việc được trong thờigian dài mà không dễ mắc bệnh.Ngoài ra, do kết quả của tập luyện thể dục thể thao lâu dài đã cải thiện đượcchức năng của hệ thống hô hấp và các hệ thống khác (hệ thống thần kinh, hệ thốngtuần hoàn…) nâng cao năng lực nhả CO2 và hấp thụ Oxy khi trao đổi khí, làm chovận động viên khi hoạt động kịch liệt vẫn có thể phát huy chức năng của hệ hô hấp25