Vì sao cư dân lạc việt lại thờ mặt trời

1. Hai tiếng "chim lạc" trong đời sống văn hóa hiện đại Việt Nam đã trở thành một biểu tượng ăn sâu vào tâm thức người Việt non một thế kỷ qua. Đó chính là hình ảnh loài chim nước lớn, xoải cánh bay quen thuộc trên trống đồng và trên một số đồ đồng khác thuộc văn hóa khảo cổ học Đông Sơn.

Khái niệm trống Đông Sơn (hay còn gọi trống đồng Đông Sơn) dùng để chỉ tất cả những trống kim khí (chủ yếu là chất liệu đồng) là di vật khảo cổ học nằm trong văn hóa khảo cổ học Đông Sơn mà tính chất cơ bản của nó là trước Hán và khác Hán.

Chủ nhân của trống Đông Sơn là tất cả các cư dân đã sử dụng trống như một thành tố văn hóa cơ hữu trong tổng thể đời sống văn hóa của họ. Đó là những cư dân tồn tại trên một vùng địa lý rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử đến các vùng hải đảo, trùm lên cả không gian Đông Nam Á hiện nay.

Ngày nay, các nhà khảo cổ học thế giới khá thống nhất gọi đó là không gian Việt cổ. Trong không gian đó, tồn tại rất nhiều các tộc người, các nhóm ngôn ngữ khác nhau. Cổ sử Trung Hoa gọi họ một cái tên bao trùm là Bách Việt. Trong Bách Việt đó, Lạc Việt là một cư dân quan trọng và chính là tiền thân cơ bản của người Việt Mường sau này. Bởi vậy, trống Đông Sơn có thể được gọi với những tên khác như trống đồng Việt cổ, trống đồng Lạc Việt, trống đồng Việt…

Là một nhạc khí thiêng liêng chủ yếu dành cho nghi lễ và lễ hội bộ lạc, trống Đông Sơn còn là một tác phẩm tạo hình vô cùng tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Tác giả sáng tạo trống đã khắc hình lên khuôn và đúc ra hình ảnh. Vì công cụ khắc là que nhọn tạo nên các vạch và chấm nên tạo hình của nó còn mang đậm tính chất của loại hình nghệ thuật hội họa.

Về tổng quan, hình ảnh trên trống đồng có thể xem là một tổng lễ hội cộng đồng thờ mặt trời như là biểu tượng cao nhất và lễ hội đó cũng diễn ra dưới ánh sáng mặt trời tràn ngập. Trong đó chứa đựng nhiều đề tài nghi lễ và lễ hội khác, các hành động hội khác phong phú về hình thức, liên tục trong thời gian và phổ biến trong không gian.

Thông qua việc diễn đạt lễ hội, trống đồng phản ánh cuộc sống văn hóa thực tiễn và tinh thần, phản ánh những nghĩ suy về thế giới khách quan, và đặc biệt là phản ánh mỹ cảm tinh tế, năng khiếu nghệ thuật của người xưa cùng với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của họ.

Đó là tác phẩm điêu khắc thuộc nghệ thuật hoành tráng, nghệ thuật sử thi.

Vì sao cư dân lạc việt lại thờ mặt trời

Hình ảnh chim lạc trên trống đồng Đông Sơn

ẢNH: T.L

2. Hình ảnh trên trống Đông Sơn có yếu tố sinh động, tả thực, cũng có yếu tố ước lệ, khái quát được thể hiện bằng bút pháp mô phỏng và bút pháp hình học (kỷ hà học). Trên tổng thể, nó phô diễn một tư duy nghệ thuật ưa thích sự hài hòa của những yếu tố trên.

Đồng thời, người ta cũng dễ dàng tiếp nhận được những hình ảnh quan trọng và những hình ảnh ít quan trọng hơn dựa trên các phương diện: việc sử dụng không gian tiêu điểm, độ lớn của hình ảnh, tầm quan trọng của đề tài, cách kết hợp hài hòa bút pháp, và đặc biệt là tần số xuất hiện cũng như khả năng lưu giữ hình ảnh qua quá trình phát triển lâu dài (từ loại I đến loại IV theo cách phân loại của Heger).

Trong đó, chúng ta thấy hiển nhiên các hình ảnh quan trọng sẽ là: mặt trời (trên tất cả các trống), chim lạc (trên tất cả các loại trống), người, nhà, hươu, thuyền… Sự sắp xếp thứ tự này về cơ bản phản ánh trật tự tầm quan trọng của các loại hình ảnh diễn tiến trên nhiều trống theo tiến trình lịch sử. Chúng ta thấy chim lạc chắc chắn thuộc về biểu tượng quan trọng vì ở những loại trống đã giản ước rất nhiều hình ảnh khác thì hình ảnh này vẫn xuất hiện bên cạnh mặt trời vốn không thể thiếu.

Khái niệm chim lạc được nhà nghiên cứu sử học nổi tiếng - GS Đào Duy Anh đề cập đến trong các tác phẩm Lịch sử Việt Nam – Từ nguồn gốc đến đầu thế kỷ mười chín (quyển thượng và quyển hạ) - Hà Nội, 1955 và Nguồn gốc dân tộc Việt Nam - Hà Nội, 1958. Với những lý giải của giáo sư trong các tài liệu trên, ta có thể cho rằng, chính cụ là người đã đặt tên cho loài chim chính trên trống đồng là chim lạc.

Ngoại trừ những điều lý giải còn phải xem thêm về nguồn gốc "lạc" gắn với sự thiên di cư dân từ nam Dương Tử xuống đồng bằng Bắc Bộ thì ta thấy đây là một sáng tạo trong việc tạo nên một khái niệm đã trở thành phổ biến trong giới học thuật.

Trước hết chúng ta hiểu, đây là sự định danh một cái tên gọi (le nom). Bởi vì cư dân sáng tạo ra trống đồng thuộc về rất nhiều nhóm ngôn ngữ nên chúng ta khó lòng biết, họ cách nay hơn 2.000 năm có một tên chung cho loài đó không và gọi nó bằng vỏ ngữ âm nào, thuộc ngữ hệ nào. Các cổ thư thì không cung cấp cho chúng ta tên gọi.

Với tư cách là một nhà sử học người Việt, đang nghiên cứu lịch sử cội nguồn Việt Nam, GS Đào Duy Anh đã liên hội hình ảnh chim đó trên trống với những ghi chép cổ sử về cư dân Lạc Việt với Lạc điền, Lạc dân, Lạc hầu, Lạc tướng, Lạc vương…, liên hội với một loài hậu điểu (hậu là khí hậu, thời tiết; điểu là chim, hậu điểu là chim di cư theo mùa, có thể có tên lạc (?)), mà sáng tạo ra cách gọi đó.

Trong khảo cổ học, cách đặt tên cho một hình ảnh hoặc một hiện vật, nhà khảo cổ thường dựa theo xu hướng nghiên cứu, ngôn ngữ sử dụng, hình thể hiện vật qua trực quan, tác dụng của hiện vật, kinh nghiệm lão thực… để định danh. Tựa như, với một đường gấp khúc, người Việt có thể đặt tên nó là răng cưa, dãy núi, gấp khúc, thậm chí là sóng nước. Trong lúc đó, người Thái có thể gọi khác đi theo ngôn ngữ và kinh nghiệm của họ.

Khi chúng ta chưa thể suy nguyên nó người xưa từng gọi với vỏ ngữ âm nào, thuộc Âu Việt, Mân Việt hay Lạc Việt thì cách gọi của GS Đào Duy Anh được thừa nhận như một biểu hiệu (symbol) cho hình ảnh đó. Và nó đã trở thành quen thuộc và mang tính biểu tượng.

Tìm đến một định danh khác (gốc Kinh, gốc Mường, gốc Tày, gốc Thái, gốc Khmer, gốc Mã lai…) là một điều thú vị của khoa học nhưng khó lòng có được một cái tên chung khi mỗi nền khoa học được diễn đạt bởi một ngôn ngữ khác nhau.

Viết đến đây, tôi nhớ lại lời dạy của GS Trần Quốc Vượng vào mùa xuân 1974 xa xưa về vấn đề này: “Chim lạc ư! Đây là chuyện đặt tên của thầy tôi, GS Đào Duy Anh. Là nhãn hiệu cho một hình ảnh. Nhãn hiệu này ĐẸP. Tính tư tưởng CAO. Còn muốn tên khác ư? Các ông các bà muốn gọi nó theo kiểu tả thực bằng tiếng Việt nhà quê thì cứ thế này: cái cò, cái vạc, cái nông… Xong!”.

3. Trên trống đồng Đông Sơn, có hàng chục loài chim khác nhau: trả, sáo, bồ chao, bồ nông, cò, le le, vịt ngỗng, sáo cờ… tùy cách nhìn của các nhà nghiên cứu. Chim tồn tại trong những bối cảnh không gian khác nhau: mặt nước, mặt ruộng, bầu trời, nóc nhà, mũi thuyền, đầu nhân vật… Tư thế miêu tả chim lại càng phong phú: bay gần, bay xa, đậu, đứng, nằm, mò, gắp cá, gù nhau, ngủ, rình mồi…

Trong đó, tồn tại nhiều là một loài có tầm vóc lớn, sải cánh rộng, mỏ dài, chân cao, mào lớn đang xoải cánh bay xa. Đó mới là chim lạc mà chúng ta thường nghĩ tới.

Vì sao cư dân lạc việt lại thờ mặt trời

Hoa văn trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ

ẢNH: BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA

Về phối cảnh trên trống, loài chim này được xếp ở vành lớn (trống Ngọc Lũ), không gian rộng và ở nhiều trống, nó lấn át các hình ảnh khác (khi nhiều hình ảnh giản lược hoặc mất đi). Về không gian mô tả, nó bay trên một bầu trời rộng rãi. Về tư thế, mỏ dài ngẩng cao về phía trước để định hướng, chân và mào dài và xuôi hẳn song song thân mình tạo cảm giác tốc độ lớn. Sải cánh rộng gợi ý sức bền để bay xa, tương phản với những chú chim nhỏ đậu và ngủ ngay dưới chân mình, tạo nên nét đối lập thú vị. Về bút pháp, đó là những yếu tố kỷ hà học (trừu tượng, thiêng liêng) hài hòa với yếu tố miêu tả sinh động và hiện thực (khác với những loài nhỏ cơ bản là tả thực). Tính biểu tượng được khắc họa rõ nét. Vừa đủ trực quan, vừa đủ khái quát.

Hình thể to lớn, bầu trời cao rộng, tốc độ vút nhanh, đường bay xa tắp, hướng bay ngút ngàn, xoay quanh các tia sáng mặt trời tỏa rạng với chu kỳ năm và cũng là quay về nơi chôn rau cắt rốn. Đó là biểu tượng của chim lạc trên trống đồng.

Với tư cách là một biểu tượng, chim lạc vừa gần gụi thân quen vừa thiêng liêng cao cả. Chim lạc vươn lên với cao rộng như khát vọng muôn đời chinh phục bầu trời. Chim lạc tượng trưng cho ước mơ vượt không gian bất chấp giông tố thử thách.

Với những nét phóng túng trong đường khắc lưu loát, hình ảnh chim lạc là thông điệp ngàn xưa vọng lại cho chúng ta mạch lạc và lãng mạn. Với những nét cẩn trọng tinh tế trong tạo hình, người xưa dồn cả tài năng, trí lự, tâm hồn, khát vọng cho một loài chim nước theo mùa, đến với họ, bay đi rồi lại trở về, thủy chung, son sắt.

Đó chính là biểu tượng chim lạc đẹp đẽ và linh thiêng của Tổ quốc Việt Nam ngàn đời.

Tin liên quan

Trong kho tàng di sản văn hóa của Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương mang những giá trị đặc biệt quan trọng. Bởi, đó không chỉ là biểu tượng văn hóa tinh thần của dân tộc mà còn là sợi dây cố kết cộng đồng, giáo dục truyền thống lịch sử. Để rồi, vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành di sản văn hóa chung của cả nhân loại.

Vì sao cư dân lạc việt lại thờ mặt trời
Đền Đồng Cổ, xã Yên Thọ (Yên Định), nơi lưu dấu ấn đậm nét thời kỳ Hùng Vương.

Trong tâm linh và tình cảm của những người dân đất Việt đều tin rằng cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ là khởi nguồn của dân tộc và các Vua Hùng là những người có công dựng nước. Theo truyền thuyết kể lại thì: Lạc Long Quân, vốn là con trai của Kinh Dương vương Lộc Tục lấy nàng Âu Cơ là con gái Vua Đế Lai rồi sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai. Sau đó, năm mươi người con theo mẹ lên núi, năm mươi người theo cha xuống biển lập nghiệp. Người con cả theo mẹ lên vùng đất Phong Châu (nay là Phú Thọ) lập ra nước Văn Lang và được tôn làm Vua Hùng. Văn Lang là nhà nước đầu tiên trong lịch sử của người Việt, được cai trị bởi 18 đời vua. Các Vua Hùng đã dạy dân trồng lúa nước và chọn núi Nghĩa Lĩnh, ngọn núi cao nhất vùng để thực hiện những nghi lễ theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp như thờ thần lúa, thần mặt trời để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Bởi vậy, trải qua hàng nghìn năm công lao xây dựng đất nước từ thuở “khai sơn, phá thạch” của các Vua Hùng không chỉ dừng lại ở những câu chuyện truyền thuyết mang màu sắc kỳ ảo, mà đã đi vào tâm thức của người dân Việt và trở thành tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương rất đặc trưng, có sức sống mãnh liệt, chiếm giữ một vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần người Việt Nam.

Qua mỗi mùa lễ hội, những tâm thức ấy được sống dậy và trào dâng trong lòng mỗi người dân đất Việt. Đặc biệt, hàng năm vào ngày 10-3 (âm lịch) tại Khu Di tích lịch sử đền Hùng (tỉnh Phú Thọ) đã diễn ra lễ hội Đền Hùng (Giỗ Tổ Hùng Vương). Đây là lễ hội lớn nhất cả nước quy tụ đông đảo con cháu từ khắp mọi miền Tổ quốc hướng về nhất tâm bái lạy, thắp nén hương thơm với tấm lòng thành kính, tri ân các bậc tiền nhân đã có công khai sơn, trị thủy, gìn giữ sơn hà; đồng thời cùng hòa mình vào không gian văn hóa, lịch sử kỳ vĩ với bao truyền thuyết, huyền tích thấm đẫm qua khối di sản vô giá đang hiện hữu trên mảnh đất này. Để rồi, vượt qua mọi ranh giới, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm đã trở thành ngày hội non sông, ngày hội của toàn dân và từ đó nêu cao hơn nữa lòng tự hào dân tộc với lòng thành kính trang nghiêm và gắn kết cộng đồng. Đặc biệt, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (năm 2012) càng góp phần củng cố thêm niềm tin, niềm tự hào và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, như một lời khẳng định giá trị văn hóa đặc sắc, giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc và sức sống, sức lan tỏa vô cùng mạnh mẽ của văn hóa Việt Nam trong dòng chảy văn hóa nhân loại.

Tại Thanh Hóa, mảnh đất được mệnh danh là “địa linh nhân kiệt” đã sớm hình thành nên nhiều di tích, lễ hội lưu lại dấu ấn đậm nét về thời kỳ Hùng Vương. Đó là ngôi đền Hổ Bái có tuổi đời gần 2.000 năm tại xã Yên Trường (Yên Định), nơi thờ thần Lạc Hầu Hợp Lang, người con thứ mười một của Vua Hùng. Ông vốn là người thông minh hơn người, có trí dũng siêu việt. Trong một lần theo dòng sông Mã tìm đến đất Trang Trân Bái ở huyện Yên Định (nay là làng Hổ Bái), sau khi nghiên cứu địa hình, khí hậu, nhận thấy đây là chốn linh thiêng, ông đã cho xây dựng ngôi đền bên bờ sông, chính là đền Hổ Bái ngày nay. Xong xuôi công việc ông trở về thủy cung vào ngày 4 tháng tư. Từ đó trở đi, ngày này trở thành ngày lễ lớn của người dân ở đây để tưởng nhớ vị anh hùng đã có công lập làng. Ngoài ra, tại Yên Định còn có ngôi đền Đồng Cổ tọa lạc ở làng Đan Nê (xã Yên Thọ) với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, bốn bề là núi non hùng vĩ đẹp như bức tranh sơn thủy hữu tình. Nơi đây gắn với thời kỳ Hùng Vương. Đó là khi Vua Hùng khi đi chinh phạt quân giặc Hồ Tôn ở phương Nam đã cho quân dừng lại ở chân núi Khả Lao. Đêm đến, nhà vua chiêm bao thấy có một vị thần tự xưng là thần miếu Khả Lao xin được mượn trống đồng và dùi đồng để giúp nhà vua đánh giặc. Thắng giặc, nhà vua phong cho thần là “Đồng Cổ đại vương” và cho lập đền, đúc trống đồng, ngựa đồng rước vào thờ phụng. Sau này, thần Đồng Cổ lại hiển linh giúp nhiều triều đại đánh thắng giặc ngoại xâm, diệt trừ phản loạn như: Giúp vua Hùng đánh thắng giặc Hồ Tôn; giúp Vua Lý đánh thắng giặc Chiêm Thành và diệt trừ phản loạn; giúp Vua Lê - Chúa Trịnh đánh tan nghịch Mạc... Hàng năm, để tưởng nhớ các vị vua đã có công dựng nước, đồng thời cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, người dân trong làng Đan Nê thường lấy ngày 14-3 (âm lịch) là ngày tổ chức lễ hội. Sự hình thành và ra đời của các di tích lịch sử gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương trên mảnh đất xứ Thanh thể hiện lòng tri ân và tôn vinh quá khứ, là niềm tin vững chắc của các thế hệ cháu con đối với công lao dựng nước và giữ nước của ông cha.

Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải qua hàng nghìn năm, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã trở thành biểu tượng thiêng liêng có giá trị văn hóa tinh thần lớn lao, thể hiện sức mạnh, niềm tự hào của khối đại đoàn kết toàn dân tộc như Bác Hồ đã tổng kết và khái quát thành chân lý của dân tộc và của thời đại: Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.

Bài và ảnh: Nguyễn Đạt